Nguyên văn lá thư
của Sư Huynh Roger cho ngày gặp gỡ các giới trẻ tại Hambourg, Đức Quốc.
La-mã ngày thứ Hai 22 tháng 12 năm 2003
‘zenit.org/french) - Được phiên dịch ra 57 thứ tiếng (gồm 24 tiếng vùng Á Châu),
lá thư này, được soạn thảo bởi Sư Huynh Roger, ở Taizé, sẽ được phân phát vào
dịp gặp gỡ Âu Châu của những giới trẻ tại thành phố Hamburg được diễn tiến từ
ngày 29 tháng 12 năm 2003 đến 02 tháng 01 năm 2004. Lá thư sẽ được tái dụng và
làm đề tài suy niệm trong suốt năm 2004 cho những buổi gặp gỡ của giới trẻ sẽ
được tổ chức tại Taizé hay ở một nơi nào đó trên thế giới.
Để biết các tin tức bổ túc, xin coi
site www.taize.fr
Từ những nguồn
vui
Biết bao nhiêu người trẻ trên thế giới
mang trong họ một sự khát khao cho hòa bình, cho hiệp thông và cho niềm vui. Họ
cũng chăm chú đến nỗi khổ khôn dò của những người vô tội. Họ không phải là
không biết, một cách đặc biệt, về sự gia tăng của nạn nghèo đói trên thế giới. [1]
Không phải chỉ có những kẻ có trách
nhiệm của các dân tộc mới xây dựng tương lai. Kẻ khiêm tốn nhất trong những kẻ
khiêm tốn nhất có thể đóng góp vào việc xây dựng một tương lai đầy hòa bình và
tin tưởng.
Nếu chúng ta thiếu thốn mọi thứ, Thiên
Chúa cho chúng ta khả năng đem hòa giải đến nơi tranh chấp, và hy vọng đến nơi
âu lo. Chúa gọi chúng ta, qua đời sống của chúng ta, làm cho con người có thể
đạt tới được lòng trắc ẩn của Ngài. [2]
Nếu những người trẻ, qua chính đời sống
của họ, trở thành những tổ ấm của hòa bình, thì những nơi mà họ cư ngụ sẽ tỏa
ra một nguồn ánh sáng. [3]
Một hôm, tôi hỏi một thanh niên điều
gì, dưới mắt họ, là điều chính yếu nhất để nâng đỡ đời sống của anh. Anh ta trả
lời : « niềm vui và lòng tốt từ tâm ».
Sự lo ngại, sư sợ hãi phải đau khổ có
thể lấy mất đi niềm vui.
Khi một niềm vui phát xuất từ Thánh
Kinh dâng lên trong chúng ta, nó mang lại một hơi thở của sự sống.
Niềm vui này, không phải chúng ta gây
nên. Đó là một món quà của Thiên Chúa. Niềm vui đó được linh hoạt lại không
ngừng bởi ánh mắt nhìn đầy tin tưởng của Thiên Chúa đặt trên đời sống của chúng
ta. [4]
Không hề ngây thơ, lòng tốt từ tâm can
đòi hỏi sự thận trọng. Lòng tốt có thể đưa đến việc liều lĩnh. Lòng tốt không
để chỗ đứng cho bất cứ khinh bỉ nào đối với người khác. [5]
Lòng tốt làm cho người ta chăm chú đến
những người thiếu thốn nhất, những người đau khổ, đến nỗi lao nhọc của các trẻ
em. Lòng tốt biết diễn tả, qua khuôn mặt, qua dọng nói, rằng con người cần được
thương yêu. [6]
Đúng thế, Thiên Chúa cho chúng ta,
trong tận đáy sâu của tâm hồn, một tia lửa của lòng tốt từ tâm chỉ đòi hỏi để
được trở thành một ngọn đuốc trên con đường đi của chúng ta. [7]
Nhưng làm thế nào để đi đến tận những
nguồn gốc của lòng tốt, của niềm vui và cũng là những nguồn gốc của sự tin
tưởng ? Bằng cách tự trao phó chúng ta cho Thiên Chúa, chúng ta sẽ tìm
thấy con đường.
Trở lên xa tít mãi trong lịch sử, rất
nhiều tín hữu đã biết rằng, trong lời kinh nguyện, Thiên Chúa mang đến ánh
sáng, sự sống cho nội-tại.
Trước thời Chúa Kitô, một tín đồ đã cầu
nguyện : « Linh hồn con đã ước muốn Ngài trong suốt đêm thâu, lạy
Chúa, trong tận sâu thẳm của lòng con, tư tưởng con tìm kiếm Ngài ». [8]
Sự ước muốn hiệp thông với Thiên Chúa
đã được đặt để trong tim con người từ muôn thuở. Mầu nhiệm của sự hiệp thông
này đụng tới cõi mật thiết nhất, hay nói đúng hơn, chỗ sâu thẳm nhất của
hữu-thể.
Vì thế chúng ta có thể nói với Chúa
Kitô rằng : « Chúng con sẽ đi với ai khác ngoài Chúa ? Chúa có
những lời làm sống tâm hồn chúng con ». [9]
Hiện diện trước Thiên Chúa trong một sự
mong đợi chiêm niệm không phải là quá sức cho thân phận con người chúng ta.
Trong một lời nguyện như thế, một tấm màn được mở ra trước sự không thể diễn tả
được của đức tin, và sự khôn tả đưa đến sự tôn thờ.
Thiên Chúa cũng hiện diện khi sự sốt
sắng tan dần và khi những âm vang nhậy cảm tan biến. Không bao giờ chúng ta bị
thiếu lòng trắc ẩn của Ngài. Không phải là Thiên Chúa rời xa chúng ta, nhưng
chính chúng ta đôi khi vắng mặt.
Một ánh mắt nhìn của chiêm niệm thấy
được những dấu chỉ của Tin Mừng trong những biến cố đơn giản nhất. Ánh nhìn đó
phân biệt được sự hiện diện của Chúa Kitô ngay trong kẻ bị bỏ rơi nhất của nhân
loại. [10].
Ánh nhìn đó khám phá trong vũ trụ những vẻ đẹp rạng ngời của sự tạo hóa.
Nhiều người tự hỏi : « Thiên
Chúa mong đợi gì nơi tôi ? ». Và khi đọc Kinh Thánh, chúng ta thấu
hiểu được : Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta trở thành, trong mọi hoàn cảnh, sự
phản chiếu của sự hiện diện của Ngài. Ngài mời gọi chúng ta làm cho đời sống
của những người mà Ngài đã trao phó cho chúng ta được tươi đẹp hơn.
Người mà tìm kiếm cách trả lời cho lời
mời gọi của Thiên Chúa trong suốt cuộc sống của mình, có thể đọc kinh nguyện
này : « Lạy Chúa Thánh Linh, nếu không ai đã được tạo dựng với bằng
chứng hiển nhiên để hoàn thành một lời xin vâng cho muôn thuở, Chúa là Đấng đến
đốt sáng trong con một lò ánh sáng. Chúa soi sáng những do dự và những hồ nghi,
trong những lúc mà lời-xin-vâng và lời-thưa-không đụng chạm nhau.
Lạy Chúa Thánh Linh, Ngài cho con biết
chấp nhận chính những hạn hữu của con. Nếu trong con có một phần của yếu ớt
mảnh dẻ, chớ gì sữ hiện diện của Chúa làm cho phần đó được biến đổi.
Và như thế chúng ta được dạn dĩ chấp
nhận một lời xin vâng, lời sẽ dẫn chúng ta thật xa.
Tiếng xin vâng này đầy tin tưởng trong
suốt.
Tiếng vâng này là tình yêu của mọi tình
yêu.
Đức Kitô là sự hiệp thông. Ngài đã
không đến trên thế gian để tạo thêm một tôn giáo nữa, nhưng để cống hiến cho
tất cả một sự hiệp thông trong Ngài. [11].
Các môn đệ Ngài đã được gọi để trở thành những cục men khiêm tốn của tin tưởng
và của hòa bình trong nhân loại.
Trong sự hiệp thông độc nhất này là
Giáo Hội, Thiên Chúa dâng tặng tất cả để đi đến tận nguồn : Tin Mừng, Bí
Tích Thánh Thể, sự bình an của tha thứ
... Và sự thánh thiện của Đức Kitô như thế không còn là điều không thể đạt tới
nhưng hiện diện ngay đây, rất gần.
4 thế kỷ sau Chúa Kitô, một người kitô
hữu phi-châu, mang tên Au-gút-ti-nô, đã viết : « Hãy yêu và hãy nói
điều đó qua đời sống của ngươi ».
Khi sự hiệp thông giữa những kitô hữu
là một lối sống chứ không còn là một lý thuyết, sự hiệp thông mang lại một sự
tỏa sáng của hy vọng. Còn hơn thế nữa : sự hiệp thông có thể nâng đỡ sự
tìm kiếm căn bản cho hòa bình thế giới.
Như vậy, làm cách nào mà những kitô hữu
còn có thể sống chia rẽ nhau ?
Trong suốt những năm dòng, ơn gọi đại
kết đã gây ra rất nhiều trao đổi. Những trao đổi này là những bước đầu của một
sự hiệp thông sống động giữa các kitô hữu. [12]
Sự hiệp thông là hòn đá nền tảng. Sự
hiệp thông xuất phát trước hết từ tim này qua tim khác của mọi kitô hữu, trong
thinh lặng và trong tình yêu. [13]
Trong suốt lịch sử dài của những kitô
hữu, nhiều nhóm đã tự khám phá một ngày nào đó phân ly, biệt lập, đôi khi chẳng
hiểu lý do tại sao. Ngày hôm nay, điều căn bản phải hoàn thành tất cả để một số
đông hết sức có thể của những kitô hữu, thường không tội tình gì trước những sự
chia rẽ, biết tự khám phá nhau trong tinh thần hiệp thông. [14]
Những người có tận trong sâu thẳm của
tâm hồn nỗi ước mong hòa giải thì đông vô kể. Họ mong ước niềm vui vô tận
này : cùng một tình yêu, cùng một trái tim, cùng một sự hiệp thông. [15]
Lạy Chúa Thánh Linh, xin hãy đến đặt để
trong tim chúng con niềm ước muốn tiến tới một sự hiệp thông. Chính Chúa đưa
dẫn chúng con tới sự hiệp thông đó.
Buổi chiều lễ Phục Sinh, Chúa Giê-su
tháp tùng hai môn đệ Ngài đang trên đường về làng Em-mau. Trong lúc đầu họ đã
không nhận ra là Chúa đang đồng hành với họ. [16]
Chúng ta cũng thế, chúng ta biết những
giai đoạn mà chúng ta không làm thế nào để ý thức được là Chúa Kitô, qua Chúa
Thánh Linh, đang gần kề chúng ta.
Chúa bên cạnh chúng ta cách không mỏi
mệt. Ngài soi sáng tâm hồn chúng ta bằng một ánh sáng bất ngờ. Và chúng ta khám
phá ra rằng, nếu trong chúng ta vẫn có thể còn một vài bóng tối, cũng hiện diện
trong chúng ta nhất là mầu nhiệm của sự hiện diện của Ngài.
Chúng ta hãy cố gắng nắm giữ một
điều xác thực. Điều gì ? Đức Kitô nói với mỗi người : « Cha yêu
con bằng một tình yêu vô tận. Không bao giờ Cha bỏ rơi con. Qua Chúa Thánh
Linh, Cha sẽ luôn ở với con ». [17]
Trần Văn Toàn
[1] Một sự tìm hiểu sâu xa của đời sống nội tâm,
thay vì đưa đến sự nhắm mắt trước tình trạng của những xã hội cận đại, kêu gọi
để tự đặt ra những câu nghi vấn. Tỷ dụ, chúng ta có đủ ý thức rằng có 54 quốc
gia trên thế giới ngày hôm này trở thành nghèo hơn năm 1990 ? Ông Kofi
Annan, Tổng Thư Ký Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, đã viết cho chúng tôi năm vừa qua,
nhân dịp cuộc gặp gỡ châu âu tại Ba-lê : « Trong thế giới có biết bao
nhiêu giới trẻ không có một viễn tượng về tương lai. Đối với họ, mỗi ngày là
một cuộc chiến đấu khó khăn chống lại cơn đói, bệnh tật, sự khốn cùng. Rất
nhiều người đang sống trong những vùng trở thành mồi cho những cuộc chiến với
vũ trang. Chúng ta phải hoàn thành tất cả để đem cho họ niềm hy vọng ».
[2] Đức sủng ái Giáo Hoàng Gioan XXIII đã
viết : « mọi tín đồ được gọi, trong thế giới hôm nay, để trở thành,
như một tia lửa sáng, một trung tâm của tình yêu và một men bột cho cả đám
đông. Mỗi người sẽ trở thành như thế trong mực độ của sự hiệp thông của mình
với Thiên Chúa. Thực thế, hòa bình không thể thống trị trong nhân loại, nếu hòa
bình không thống trị trước hết trong mỗi người » (Pacem in terris, 1963,
164-165)
[3] Thánh Phaolô Tông Đồ, khuyến khích những tín
hữu trở thành « những lò ánh sáng » rực sáng trong thế gian (Thư cho
dân Philippiens 2, 15-16)
[4] « Khi Thiên Chúa sẽ đến, ... những
người nghèo nhất và những kẻ thiếu thốn nhất sẽ được vui mừng trong
Chúa ». (Isaïe 29, 18-19). « Hãy an ủi tâm hồn ngươi, hãy đuổi sự
buồn bã, vì sự buồn bã không thể nào đem lại lợi tức » (Sirac 30, 21-25)
[5] Trong một đời sống cộng đoàn, lòng tốt từ
tâm là một giá trị vô lường. Nó có thể là một trong những phản ảnh tinh ròng
nhất của vẻ đẹp của một sự hiệp thông.
[6] Khi còn bé nhỏ, đứa trẻ con hiểu được lòng
tốt từ tâm của một người mẹ hay một người cha, một người chị hay một người anh.
Đó là một thực thể rõ ràng của Tin Mừng. Đối với một đứa bé, biết là mình được
yêu thương là điều tối ư quan trọng, điều đó cho nó trong trọn đời mình một khả
năng đi xa, hiểu được một ngày nào đó rằng Thiên Chúa mời gọi chúng ta, đến
phiên mình, yêu thương người khác.
[7] Trong một chuyến thăm viếng cộng đoàn Taizé,
triết gia Paul Ricoeur đã tuyên bố : « lòng tốt thì sâu thẳm hơn sự
dữ sâu thẳm nhất. Dù cho sự dữ có triệt để đến chừng nào đi nữa, nó cũng không
thể nào sâu thẳm hơn lòng tốt được ».
[8] Isaïe 26,9
[9] Trong khi một số người bắt đầu bỏ Đức Kitô,
Ngài nói với các môn đệ ngài : « còn các con, các con cũng muốn bỏ đi
không ? Phê-rô trả lời Ngài : « Chúng con sẽ theo ai
khác đây ? Thưa Thầy, Thầy có lời hằng sống ». (Gioan 6, 67-68)
[10] Sống trong hiệp thông với Chúa đưa đến
chuyện sống trong hiệp thông với tha nhân. Chúng ta càng gần Kinh Thánh chừng
nào, thì chúng ta cũng sẽ càng gần nhau chừng ấy. Thần học gia Chính Thống Giáo
Olivier Clément viết : « Người mà càng trở nên người của kinh nguyện
chừng nào, người đó sẽ càng trở thành người có trách nhiệm chừng đấy. Kinh
nguyện không giải thoát những công việc của thế gian này : kinh nguyện làm
cho chúng ta trách nhiệm hơn. Không có gì trách nhiệm bằng cầu nguyện. Điều đó
có thể mang hình thức cụ thể của một sự hiện diện bên những kẻ đau khổ vì bị
thiên hạ bỏ rơi, vì ngèo khổ - như trường hợp điển hình đối với những sư huynh
của Taizé sống trong những khu vực thiếu thốn trên mọi lục địa -, điều đó cũng
mời gọi chúng ta trở thành những người đầy sáng kiến, những người sáng tạo
trong mọi lãnh vực, kể cả lãnh vực kinh tế, lãnh vực của văn minh hoàn vũ, lãnh
vực văn hóa ... » (Taizé, một ý nghĩa cho cuộc sống, nhà xuất bản Bayard,
Paris 1997)
[11] Hồi còn rất trẻ, lúc 21 tuổi, thần học gia
người Đức, Dietrich Bonhoeffer đã cấu tạo nên thành ngữ : « Đức Kitô
hiện hữu dưới cương vị một cộng đoàn ». Ông viết rằng « Bởi Đức Kitô,
nhân loại được thực sự sát nhập vào sự hiệp thông với Thiên Chúa ». (Sanctorum
communio, Bá-Linh 1930)
[12] Khi tự hỏi về ơn gọi đại kết, Đức Thượng Phụ
Chính Thống Giáo thành Antioche, Đức Ignace IV, đã viết gần đây từ thành
Damas : « Chúng ta cần cách khẩn cấp những sáng kiến tiên tri để làm
cho phong trào Đại Kết thoát khỏi những mê hồn trận mà trong đó tôi sợ rằng
phong trào đang bị bùn lầy. Chúng ta có một nhu cầu khẩn trương các tiên tri và
các thánh-nhân hầu giúp đỡ những Giáo Hội chúng ta tự hoán cải bằng sự tha thứ
lẫn nhau ». Đức Thượng Phụ đã kêu gọi « để ưu tiên cho ngôn từ của
hiệp thông hơn là ngôn từ của luật lệ ». Năm vừa qua, ĐGH GP II đã tuyên bố khi Ngài tiếp đón tại La-Mã
những vị Đại Diện của Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp : « Với các Thánh,
chúng ta chiêm ngưỡng phong trào Đại Kết của thánh thiện cuối cùng sẽ dẫn chúng
ta đến sự hiệp thông trọn vẹn, mà không phải là một sự nuốt gọn, cũng chẳng
phải một sự phối hợp, nhưng là một cuộc gặp gỡ trong chân lý và tình
thương »
[13] Sự hòa giải bắt đầu trong giây phút tức thì,
trong nội tại của con người. Được nuôi sống trong tim của một tín hữu, sự hòa
giải đã được một sự đáng tin cậy và có thể lôi kéo tinh thần hòa giải trong sự
hiệp thông của tình thương là Giáo Hội. Con đường này ngụ ý rằng không có sự xỉ
nhục cho bất cứ ai.
[14] Giáo Hội có thể cho những dấu chỉ của một sự
mở rộng, rộng đến nỗi người ta có thể nhận xét rằng : những ai đã sống
chia rẽ trong quá khứ không còn bị phân ly nữa, nhưng họ đang sống trong sự
hiệp thông không ? Một bước đi tới sự hòa giải sẽ được bước qua trong mực
độ mà người ta sẽ nhận xét một đời sống hiệp thông, đã được thực hiện trong một
vài nơi trên thế giới. Sẽ cần can đảm để nhận xét điều đó và tự thích ứng theo.
Những văn bản sẽ đến sau. Ưu tiên những văn bản không bị kết thúc bởi tách xa
lời mời gọi của Tin Mừng : « đừng chần chờ, hãy hòa giải đi ! »
hay sao ?
[15] Thư thánh Phaolô cho dân philippiens 2, 2.
[16] Coi Luca 24, 13-35.
[17] Coi Tiên tri Giê-rê-mi-a 31,3 va Gioan 14,
16-18.