Tổng kết chuyến viếng thăm đảo Chypre của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI

WHĐ / Tổng hợp (8.6.2010) – Chuyến Tông du của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI tại Chypre diễn ra từ thứ sáu 4-6 và đã kết thúc vào chiều Chúa nhật 6-6-2010. Ba ưu tư và cũng là ba ước vọng chính của Đức giáo hoàng và của các Kitô hữu tại Chypre đã được đề cập đến trong chuyến Tông du này: vấn đề đại kết, vấn đề Trung Đông và vai trò làm chứng của Kitô hữu.

Vấn đề đại kết

Một cuộc viếng thăm mang tính lịch sử: lần đầu tiên một Giáo hoàng tới đảo, theo lời mời của Đức Tổng giám mục, của chính quyền tại đây và dĩ nhiên, của cộng đồng nhỏ bé người công giáo.

Chuyến Tông du này gợi lên niềm hy vọng lớn về các bước tiến triển của tiến trình hợp nhất giữa Công giáo và Chính Thống giáo. Vai trò của Đức Tổng giám mục Chính Thống giáo Chrysostomos II ở Chypre trong tiến trình này đã được đề cập đến trong các bản tin trước. Ở đây, xin ghi lại lời kêu gọi của Đức giáo hoàng đối với người công giáo tại Chypre về vấn đề đại kết này.

Tại buổi gặp gặp với cộng đồng Công giáo tại sân thể thao trường tiểu học Thánh Maron ở Nicosia, Đức giáo hoàng đã tham dự một nghi lễ Lời Chúa. Giải thích bài Tin Mừng, Đức giáo hoàng đã nhắc nhở người công giáo tại Chypre về sứ vụ của họ: “Anh chị em được kêu gọi để sống niềm tin của anh chị em trong thế giới bằng cách góp tiếng nói và hành động của mình để cổ vũ các giá trị của Tin Mừng đã được các thế hệ Kitô hữu Chypre truyền lại cho anh chị em. Chớ gì các giá trị này, vốn đã cắm rễ sâu trong nền văn hóa của anh chị em cũng như trong di sản của Giáo hội toàn cầu, tiếp tục là nguồn hứng cho những nỗ lực cổ vũ hòa bình, công lý và sự tôn trọng mạng sống con người và phẩm giá của các đồng bào. Trong chiều hướng đó, sự trung tín của anh chị em đối với Tin Mừng chắc chắn sẽ đem lại lợi ích cho toàn thể xã hội Chypre.”

(hinh)

    Đức giáo hoàng đã nhấn mạnh đến việc “tìm kiếm một sự hiệp nhất lớn hơn nữa trong bác ái đối với các Kitô hữu khác và cuộc đối thoại với tất cả những người ngoài Kitô giáo”, dựa trên giáo huấn của Công đồng Vatican II. Đức giáo hoàng cũng nhắc nhở các tín hữu công giáo về cuộc đối thoại liên tôn: “Còn quá nhiều việc phải làm trên thế giới” để có thể vượt qua gánh nặng của lịch sử, cũng như các khác biệt về chính trị và văn hóa, tạo nên sự hiểu biết nhau một cách sâu sắc hơn, vì đó là điều kiện của “một nền hòa bình bền vững.”

Vấn đề Trung Đông

Trong buổi lễ công bố “Tài liệu làm việc” của Thượng hội đồng các giám mục về Trung Đông, Đức giáo hoàng bày tỏ niềm hy vọng lớn lao của mình: “Niềm hy vọng lớn của tôi là tất cả các quyền của anh chị em ngày càng được tôn trọng, kể cả quyền được tự do hành đạo và tự do tôn giáo và anh chị em sẽ không bao giờ còn là nạn nhân của bất kỳ thứ kỳ thị nào.”

Đức giáo hoàng kỳ vọng Thượng hội đồng sẽ “giúp tập trung sự chú ý của cộng đồng quốc tế về tình trạng của người Kitô hữu tại Trung Đông đang phải đau khổ vì niềm tin của họ, để có thể tìm ra những giải pháp đúng đắn và lâu dài cho các xung đột từng gây nên không biết bao thử thách.”

“Về vấn đề trầm trọng này, tôi xin lặp lại lời kêu gọi, với tính cách cá nhân, là phải có một nỗ lực quốc tế, khẩn cấp và đồng bộ, để giải quyết các căng thẳng hiện nay tại Trung Đông, đặc biệt, tại Thánh Địa, trước khi các xung đột này dẫn đến những thảm họa lớn hơn nữa.”

Đức giáo hoàng cũng đã khuyến khích các cộng đoàn Kitô hữu trong vùng: “Bằng nhiều cách khác nhau, anh chị em đã đã góp phần vào việc phục vụ công ích, chẳng hạn qua giáo dục, qua việc chăm sóc các bệnh nhân và cứu trợ xã hội. Anh chị em ao ước được sống trong hòa bình và trong sự hòa hợp với những người láng giềng Do Thái và Hồi giáo. Nhiều khi, anh chị em là những người thợ xây dựng hòa bình trong diễn tiến khó khăn của sự hòa giải. Anh chị em đáng được cám ơn vì vai trò vô giá anh chị em đã thực hiện.”

Đức giáo hoàng cũng nhắc lại tầm quan trọng của Trung Đông đối với Kitô giáo, từ ngày Abraham được kêu gọi: “Trung Đông chiếm một vị trí đặc biệt trong tim của mọi người Kitô hữu, bởi vì Thiên Chúa đã khấng tỏ mình ra lần đầu tiên cho cha ông chúng ta trong lòng tin. Từ ngày Abraham rời bỏ Ur ở Chalđê để đáp lại lời gọi của Thiên Chúa cho tới cái chết và sống lại của Chúa Giêsu, công trình cứu độ của Thiên Chúa đã được thực hiện đặc biệt qua những con người và dân tộc từ các xứ sở gốc của anh chị em.

Trước đó, vào những giờ phút đầu tiên đặt chân lên đảo Chypre, trong cuộc gặp gỡ với các chính trị gia và ngoại giao đoàn tại Dinh Tổng thống ở Nicosia, Đức giáo hoàng đã gián tiếp nói đến những nỗ lực cơ bản cần phải thực hiện để giải quyết các cuộc xung đột hiện nay tại vùng đất này nỗ lực triển khai việc cổ vũ cho chân lý. Theo ngài, trước tiên, cổ vũ chân lý có nghĩa là hành động với tinh thần trách nhiệm trên nền tảng của sự hiểu biết rõ về sự kiện để có thể nhìn thấy “những lợi ích của tất cả các bên liên quan trong một vụ xung khắc nhất định”, từ đó, có được những quyết định đúng đắn và tạo được sự hòa giải đích thực khi nắm được và nhận ra tổng thể chân lý về một vấn đề nhất định.

Con đường thứ hai để cổ vũ sự thật là gỡ bỏ các ý thức hệ chính trị muốn thay thế sự thật. Các kinh nghiệm bi thảm của thế kỷ XX đã lột trần tính cách vô nhân đạo của sự việc một khi sự thật và phẩm giá con người bị chối bỏ. Ngày nay, chúng ta cũng từng được chứng kiến những mưu toan cổ vũ cho những cái gọi là giá trị dưới chiêu bài của hòa bình, phát triển và nhân quyền. Tại đại hội khoáng đại của Liên Hiệp Quốc, tôi đã lưu ý tới mưu toan tại một số nơi muốn giải thích lại Bản Tuyên ngôn Nhân quyền trong mục đích thỏa mãn những quyền lợi riêng tư làm tổn hại tới sự cố kết nội tại của bản Tuyên ngôn và làm bản Tuyên ngôn xa rời mục tiêu khởi thủy của nó (x. Diễn văn tại Đại hội Khoáng đại của LHQ, 18-4-2008).

Thứ ba, việc cổ vũ chân lý đạo đức trong đời sống công cộng đòi hỏi phải có một nỗ lực bền bỉ để thiết lập nên những đạo luật thiết thực trên nền tảng các nguyên tắc đạo đức của luật tự nhiên. Khi các chính sách chúng ta ủng hộ được áp dụng trong sự hài hòa với luật tự nhiên vốn là luật chung cho toàn thể loài người, hành động của chúng ta khi ấy sẽ lành mạnh hơn và góp phần tạo nên một môi trường của hiểu biết, của công lý và hòa bình.”

Vai trò chứng nhân của kitô hữu

Trong bài giảng lễ tại nhà thờ Thánh Giá ở Nicosia với các linh mục, nam nữ tu sĩ, các phó tế và đại diện các phong trào giáo hội tại Chypre hôm 5-6-2010, Đức giáo hoàng nói đến mục đích của chuyến Tông du của ngài: “Tôi đến đây với anh chị em hôm nay, đặt chân mình vào những vết chân của vị Tông đồ Cả, là để làm anh chị em thêm mạnh mẽ trong đức tin Kitô giáo của anh chị em và để rao giảng Tin Mừng đã đem lại sự sống và hy vọng cho thế giới..

Tiếp theo đó, Đức giáo hoàng đã gợi lên ý nghĩa của Thánh Giá của Đức Kitô: “Đúng, Thập giá là một dụng cụ để trừng phạt, gây đau khổ và thất bại, nhưng đồng thời, Thánh giá cũng biểu lộ sự biến đổi hoàn toàn, sự lật đổ vĩnh viễn các nỗi thống khổ này: đó chính là điều đã làm Thánh giá trở thành biểu tượng của hy vọng một cách hùng hồn nhất thế giới chưa hề được thấy. Thánh giá nói với tất cả những ai đang đau khổ –những kẻ bị áp bức, những người bệnh tật, những kẻ bị gạt ra ngoài xã hội, các tiện dân, các nạn nhân của bạo lực– và Thánh giá đem lại cho họ niềm hy vọng Thiên Chúa có thể biến đổi nỗi khổ đau của họ thành niềm vui, sự cô đơn của họ thành hiệp thông, cái chết của họ thành sự sống. Thánh giá đem lại một niềm hy vọng vô bờ bến cho thế giới sa ngã của chúng ta.

 

“Vì vậy mà thế giới cần đến Thánh giá. Thánh giá không chỉ là một biểu tượng cho việc sùng kính riêng tư. Thánh giá cũng không chỉ là dấu hiệu của các thành viên của một nhóm người riêng biệt giữa lòng xã hội, và, trong cái ý nghĩa thâm sâu nhất, Thánh giá chẳng dính dáng gì đến việc áp đặt, bằng sức mạnh, một bản kinh Tin kính hay một triết học. Thánh giá nói về hy vọng, về tình yêu, về sự toàn thắng của sự bất bạo động trên sự áp bức. Thánh giá nói với chúng ta rằng Thiên Chúa nâng kẻ khiêm nhu, ban sức mạnh cho kẻ yếu đuối, toàn thắng những chia rẽ và vượt lên trên hận thù bằng tình yêu thương. Một thế giới không Thánh giá sẽ là một thế giới không hy vọng, một thế giới trong đó tra tấn và tàn bạo sẽ không còn bị kềm hãm, trong đó, cái yếu sẽ bị khai thác và lòng tham sẽ có tiếng nói cuối cùng. Tính vô nhân đạo của con người đối với con người sẽ được bộc lộ ngày càng khủng khiếp, và bạo lực sẽ là một cái vòng luẩn quẩn không ngõ thoát. Chỉ có Thánh giá mới có thể chấm dứt cái vòng luẩn quẩn này của bạo lực. Trong khi không một quyền lực trần thế nào có thể cứu chúng ta khỏi những hậu quả của tội lỗi chúng ta, và không một quyền lực trần thế nào có thể toàn thắng bất công tự căn nguyên, thì sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa Tình yêu đã biến đổi thực tại tội lỗi và cái chết thành điều ngược lại. Đó là điều chúng ta cử hành khi chúng ta tôn vinh mình trong Thánh Giá của Đấng Cứu độ chúng ta.”

Cuối cùng, Đức Thánh Cha cổ vũ cộng đoàn: “Khi chúng ta công bố Thánh giá của Đức Kitô, chúng ta hãy luôn cố gắng noi theo tấm gương của tình yêu thương vô vị lợi của Đấng đã hiến mình cho chúng ta trên bàn thờ của Thánh giá, của Đấng vừa là Thày cả vừa là lễ vật, của Đấng nhân danh Người chúng ta nói và hành động khi chúng ta thi hành thừa tác vụ chúng ta đã lãnh nhận.” Đức giáo hoàng nói thêm: “Trong tư tưởng và trong lời cầu nguyện, tôi đặc biệt ý thức được rằng có nhiều linh mục và tu sĩ tại Trung Đông hiện đang được trải nghiệm về một ơn gọi đặc biệt thôi thúc họ biến cuộc đời họ theo mầu nhiệm Thánh giá của Chúa. Tại những nơi người Kitô hữu chỉ là thiểu số, tại nơi họ đang phải trải qua thử thách vì những căng thẳng chủng tộc và tôn giáo, nhiều gia đình đã quyết định bỏ đi và không ít chủ chăn cũng bị cám dỗ làm như vậy. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh này, một linh mục, một cộng đoàn tu sĩ, một giáo xứ vững vàng và tiếp tục làm chứng cho Đức Kitô sẽ là một dấu chỉ khác thường về hy vọng, không chỉ đối với người Kitô hữu mà đối với cả những ai đang sống trong vùng. Chỉ nguyên sự hiện diện của họ mà thôi cũng đã là một tiếng nói hùng hồn của Tin Mừng về hòa bình, của quyết tâm của người Mục Tử Tốt Lành trong việc chăm sóc đoàn chiên, của sự dấn thân cho đối thoại, cho hòa giải và cho việc nhìn nhận đầy khoan dung đối với người khác, không gì lay chuyển nổi của Giáo Hội. Khi vác lấy Thánh giá được trao cho họ, các linh mục và tu sĩ vùng Trung Đông có thể làm tỏa sáng thực sự niềm cậy trông vốn là tâm điểm của mầu nhiệm chúng ta cử hành trong phụng vụ hôm nay.”

Tài liệu làm việc của Thượng hội đồng

Thánh lễ chúa nhật 6-6-2010, tại Trung tâm thể thao Eleftheria ở Nicosia, nhân dịp công bố “Tài liệu làm việc” (Instrumentum laboris) của Thượng Hội đồng Giám mục về Trung Đông (10 – 24- 10-2010), được xem là đỉnh điểm của chuyến Tông du.

Chủ đề của Thượng hội đồng về Trung Đông mang tựa đề: “Giáo hội Công giáo tại Trung Đông: hiệp thông và chứng tá. ‘Đoàn lũ những kẻ tin chỉ có một tấm lòng, một linh hồn’ (Cv 4, 32)”. Hai mục tiêu chính của cuộc họp này sẽ là: “Làm vững tin và củng cố các Kitô hữu trong căn tính của họ nhờ Lời Chúa và các Bí tích” và “Khơi dậy sự hiệp thông giữa các giáo hội sui juris [tự lập], để các giáo hội này có thể làm chứng về đời sống Kitô hữu một cách đích thực, tươi vui và có sức hấp dẫn”. Một mục đích khác là cổ vũ sự dấn thân đại kết và đối thoại với người Do Thái và Hồi giáo “vì lợi ích của toàn thể xã hội” và để “tôn giáo – nhất là của những ai tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất” luôn trở thành một “mô hình hòa bình.”

Đức giáo hoàng đã chủ tế thánh lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô sáng Chúa nhật tại Trung tâm thể thao “Eleftheria” ở Makedonitissa, Nicosia, vào dịp công bố Tài liệu làm việc của Hội nghị đặc biệt về Trung Đông của Thượng hội đồng các giám mục. Trong bài giảng, ngài đã giúp cộng đoàn suy niệm về sự thống nhất các Kitô hữu và về vai trò của Chúa Thánh Thần. Ngài cũng đã nói đến ơn gọi của người Kitô hữu tại vùng đất này: “Chúng ta được kêu gọi vượt lên trên các sự khác biệt để đem lại hòa bình và hòa giải ở bất cứ nơi nào có xung đột, để loan báo cho thế giới một thông điệp về niềm hy vọng. Chúng ta được mời gọi để chìa tay cho những ai đang ở trong cơn túng quẫn, bằng cách chia sẻ một cách đại độ của cải vật chất với những người thiếu thốn hơn chúng ta.”

Đức giáo hoàng cũng kêu gọi phải ra khỏi các hàng rào ngăn cách: “Việc triệt hạ các hàng rào ngăn cản giữa chúng ta và người láng giềng là điều trước tiên phải làm để được vào trong sự sống Thiên Chúa chúng ta được kêu gọi tới. Chúng ta cần phải được giải thoát khỏi tất cả những gì giam hãm chúng ta và cô lập chúng ta: lo sợ và nghi kỵ đối với người khác, tham lam và ích kỷ, để chấp nhận nguy cơ có thể bị tổn thương một khi chúng ta mở lòng mình cho tình thương yêu.”

 


Về Trang Mục Lục