KHAI MẠC THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
VÀ CÔNG BỐ TIẾN SĨ HỘI THÁNH
Theo lịch cử hành của Đức Thánh Cha Bênêđictô
XVI, cập nhật 19/9/2012 thì chúa nhật 07 tháng 10 năm 2012, Đức Thánh Cha khai
mạc Thượng hội đồng Giám mục khóa thường kỳ lần thứ XIII về “Tân phúc-âm-hóa để loan truyền đức tin
Kitô-giáo” và công bố tước vị “Tiến sĩ Hội Thánh” hai vị : Thánh Gioan Avila linh mục và Thánh nữ
Hildegard thành Bingen.
Trước đó, ngày 27.5.2012 lễ Chúa Thánh Thần
hiện xuống, trong bài huấn từ trước kinh Lạy Nữ Vương thiên đàng, Đức Thánh Cha
Bênêđictô đã ngỏ lời với các khách hành hương : “Chúa Thánh Thần, Đấng "đã
nói qua các tiên tri", với các ơn khôn ngoan và hiểu biết tiếp tục linh
hứng cho những người nam và nữ là những người cam kết theo đuổi chân lý, cung
cấp các phương pháp mới về kiến thức và làm sâu sắc hơn
mầu nhiệm của Thiên Chúa, con người và thế giới. Trong bối cảnh này, tôi rất
vui mừng thông báo rằng vào ngày 07 tháng 10, tại lễ khai mạc của phiên họp
thường kỳ của Thượng hội đồng Giám Mục, tôi sẽ công bố Thánh Gioan Avila và Thánh Hildegard thành Bingen là tiến sĩ Hội
Thánh. Hai nhân chứng của đức tin sống trong các thời kỳ lịch sử và nền văn hóa
đa dạng. Hildegard là một đan sĩ Biển Đức tại trung tâm của Đức thời trung cổ,
giáo viên của nhà học giả thần học và chuyên gia trong lĩnh vực khoa học tự
nhiên và âm nhạc. Thánh Gioan, một linh mục giáo phận trong những năm của thời
Phục hưng Tây Ban Nha, tham gia trong công tác đổi mới tôn giáo và văn hóa của
Giáo Hội và của cấu trúc xã hội, vào buổi bình minh của thời hiện đại. Nhưng
đời sống thánh thiện và chiều sâu của giáo huấn nơi các ngài tạo cho các ngài
món quà bất diệt : ân sủng của Chúa Thánh Thần, trên thực tế, hướng họ bước vào
sự trải nghiệm việc hiểu biết thấu suốt sự mặc khải thiêng liêng và đối thoại
tài trí hơn người với thế giới cấu thành tầm nhận thức của cuộc sống vĩnh cửu
và hoạt động của Giáo Hội. Nhất là trong ánh sáng chương trình Tân Phúc âm hóa,
đối với điều mà Thượng Hội đồng Giám mục sẽ được cống hiến, và với sự canh thức
của Năm Đức Tin, hình ảnh của hai vị thánh và tiến sĩ
này thuộc về tầm quan trọng và xứng đáng trứ danh”.
Vài
nét về hai vị tân Tiến sĩ Hội Thánh :
1. THÁNH GIOAN D'AVILA
Radiovaticana 20/08/2011 14.13.16 –
Thánh Gioan d'Avila (1500-1569) sinh
năm 1500 tại Almodóvar del Campo gần thành phố Toledo Tây Ban Nha, trong một
gia đình Do thái trở lại Công Giáo. Ngài học luật tại Đại học
Thánh nhân thành lập nhiều chủng viện
và đại học, đồng thời là tác giả của nhiều tác phẩm về Kinh Thánh, thần học, tu
đức và nhân văn. Đạo lý của ngài chứa đựng kinh nghiệm sâu xa về Chúa Kitô Cứu
Thế, Chúa tỏ cho thánh nhân thấy thực tại tội lỗi của con người cần được cứu
chuộc nhờ ơn thánh và lời giảng thuyết. Đạo lý của thánh Gioan d'Avila về Thánh
Mẫu học hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Công đồng chung Vatican II và của
các vị Giáo Hoàng gần đây. Trong các tác phẩm của thánh nhân, Mẹ Maria được
chiêm ngắm dưới khía cạnh Kitô học, Thánh Linh học và Giáo Hội học, như mẫu
gương và là Mẹ Giáo Hội.
Thánh Gioan d'Avila qua đời năm 1569
thọ 69 tuổi, được Đức Clêmentê XIII công bố là Đấng đáng kính ngày 07.02.1759,
rồi Đức Lêô XIII phong chân phước ngày 04.4.1894 và được Đức Phaolô VI tuyên
phong hiển thánh ngày 31.5.1970. Lễ kính vào ngày 10-5 hàng năm. Ngài cũng được
tôn làm bổn mạng hàng giáo sĩ triều Tây Ban Nha, và của các vị tuyên úy quân
đội.
Loan báo
Lên
tiếng vào cuối thánh lễ sáng ngày 20-8-2011 với 6 ngàn chủng sinh quốc tế tại
Nhà thờ chính tòa Almudena ở Madrid, trước sự hiện diện của hài cốt thánh Gioan
d'Avila đã được đưa tới nhà thờ chính tòa nhân dịp này, ĐTC Biển Đức 16 nói:
“Anh em thân mến,
“Trong nhà thờ chính tòa Thánh Maria
Hoàng Gia Almudena này, tôi rất vui mừng loan báo cho Dân Chúa rằng, chấp nhận
lời thỉnh cầu của ĐHY Antonio Maria Rouco Varela, Chủ tịch Hội đồng Giám mục
Tây Ban Nha, và các vị khác trong hàng Giám Mục Tây Ban Nha, cũng như một số
đông các vị Tổng giám mục và Giám mục trên thế giới, và nhiều tín hữu, tôi sẽ
tôn phong thánh Gioan d'Avila linh mục là Tiến Sĩ Hội Thánh.
“Khi công bố tin này tại đây, tôi mong
ước rằng lời nói và mẫu gương của vị Mục tử trổi vượt này sẽ soi sáng các linh
mục và những người đang vui mừng và hy vọng chuẩn bị lãnh nhận bí tích truyền
chức thánh một ngày kia”.
“Tôi mời gọi tất cả anh chị em hãy
hướng nhìn về thánh nhân và tôi phó thác cho lời chuyển cầu của Ngài : các Giám
mục Tây Ban Nha và toàn thế giới, cũng như các linh mục và chủng sinh, để nhờ
kiên trì trong cùng một niềm tin mà thánh nhân là bậc thầy, họ uốn nắm con tim
của mình theo những tâm tình của Chúa Giêsu Kitô, vị Mục Tử Nhân Lành: chúc
tụng vinh quang Chúa đến muôn thưở muôn đời. Amen”.
Toàn
thể mọi người trong và ngoài thánh đường đã vỗ tay rất lâu chào mừng quyết định
của ĐTC. ĐHY Rouco Varela cảm động nhân danh toàn thể hàng Giám mục Tây Ban Nha
cám ơn ĐTC.
Hồi
đầu tháng 5 năm nay, hãng tin Công Giáo quốc tế I. Media cho biết 30 HY, GM
thành viên Bộ Phong thánh, đã nhóm họp hôm 3-5-2011 để bàn về dự án tôn phong
thánh Gioan d'Avila làm tiến sĩ Hội Thánh.
Thánh
Gioan Thành
Radiovaticana
2012-09-27 09:46:01 – Chúa Nhật 7 tháng 10 tới đây, trong
khuôn khổ khai mạc Thượng HĐGM thế giới khóa thường kỳ thứ 13, ĐTC sẽ tôn phong
hai vị thánh tiến sĩ mới của Giáo Hội: đó là thánh Gioan Avila người Tây ban
nha, và thánh nữ Ildegarda di Bingen, người Đức. Sau đây chúng tôi xin gửi đến
quý vị vài nét nổi bật trong cuộc sống và linh đạo của thánh Gioan Avila. Ngài
sẽ là vị Tiến sĩ thứ 34 của Giáo hội. ĐTC Biển Đức XVI bày tỏ hy vọng rằng “lời
nói và gương sáng của vị mục tử xuất sắc này sẽ soi sáng cho tất cả các linh mục,
và cho những người mong đến ngày truyền chức linh mục của họ”.
Thánh Gioan thành
Sau khi chịu chức linh mục, ngài đi
đến Seville để chuẩn bị đi truyền giáo ở Châu Mỹ. Trong lúc chờ khởi hành, vị
tân linh mục này dấn thân vào việc dạy giáo lý và rao giảng. Quá ấn tượng về
ngài, Cha Fernando Contreras đã thúc giục vị tổng giám mục Sevil-le giữ Gioan
lại Tây Ban Nha. Vâng phục đấng bản quyền, Gioan Avila đã bắt đầu dấn thân vào
sứ mạng ở miền Nam Tây Ban Nha.
Thành công đến dường như ngay lập tức,
nhiều người đã đến và nghe ngài giảng. Nhưng không may, chính sự thành công này
dẫn đến những mối ghen tương và hiểu lầm, và Gioan
Gioan Avila mất vào ngày 10 tháng 5 năm
1569, hợp với mong ước của ngài, thánh nhân đã được chôn cất trong nhà thờ Dòng
tên tại Montilla. Ngài được phong chân phước vào ngày 15-9-1894 và được tôn
phong làm bổn mạng các linh mục giáo phận tại Tây Ban Nha vào ngày 2-7-1946 và
được ĐTC Phaolo VI phong thánh vào 31-5-1970.
Là một linh mục giáo phận, nhưng Gioan
Avila lại có một đời sống thánh thiện trổi vượt, mang âm hưởng của một vị ẩn
sĩ. Đối với thánh nhân, cầu nguyện là chiều kích quan trọng nhất trong đời sống
của mình. Cầu nguyện là một sự đáp trả chính yếu của niềm tin. Chúng ta nhận ra
điều này qua nhiều lá thư ngài viết. Khi nhận được những lá thư liên quan đến
những vấn đề về thiêng liêng, ngài không vội trả lời ngay không phải vì quá bận
rộn hay vì một sự bất cẩn nào đó, đúng hơn ngài cần thời gian để cầu nguyện.
Chỉ sau khi đã cầu nguyện và suy xét cẩn thận, ngài mới viết thư trả lời và
thường kèm theo đó là một lời xin lỗi vì sự chậm trễ của mình. Đời sống cầu
nguyện của ngài không tách khỏi đời sống thường ngày, cầu nguyện luôn dẫn đến hành
động và biến đổi.
Là một linh mục giáo phận nhưng thánh
nhân lại hết sức yêu mến và sống triệt để tinh thần của 3 lời khuyên phúc âm.
Chính sự ôm ấp và yêu mến đời sống nghèo khó, khiết tịnh và vâng phục cho phép
thánh nhân giúp đỡ và có mối tương giao với nhiều tu sĩ. Chính vì việc trở nên
giống Đức ki-tô đã giúp trổ sinh hoa trái nơi những người mà ngài phục vụ. Đời
sống của ngài không gì khác là một sự phản ánh tình yêu thương và khao khát
dành cho Đức ki-tô bị đóng đinh. Ngài ôm ấp các lời khuyên phúc âm trong một
thời đại mà hầu hết các linh mục giáo phận đang làm điều ngược lại.
Thật vậy, theo truyền thống ở TBN,
trong thời đại của ngài, một vị tân linh mục sẽ mở một bữa tiệc, mời bạn bè và
những người thân của mình đến tham dự. Thay vì làm theo truyền thống, Gioan đã
đi ra các đường phố, chọn lấy 12 người nghèo, rửa chân cho họ và xem họ như
những vị khách quý. Tình yêu của ngài đối với đời sống nghèo cũng được thể hiện
trong đời sống thường ngày. Ngài thường từ chối ở lại các khách sạn hay những
nơi ở sang trọng. Thánh nhân nhận thấy nghèo khó là một điều rất cần thiết đối
với đời sống linh mục. Đức khiết tịnh được ngài gìn giữ một cách chắc chắn
ngang qua tình yêu mạnh mẽ dành cho Thiên Chúa. Tuy nhiên, thánh nhân cũng
không bao giờ thiếu đi sự thận trọng cần thiết. Ngài chưa bao giờ gặp gỡ một
phụ nữ ở một nơi riêng tư. Đời sống của ngài cũng được ghi dấu mạnh mẽ về sự
vâng phục. Ngài đã vâng phục vị linh mục dòng Phanxico để trở nên một người
phục vụ Chúa thay vì trở nên một ẩn sĩ như ước muốn ban đầu. Sau khi chịu chức,
dù khao khát truyền giáo, nhưng ngài dã vâng phục giám mục để ở lại TBN, nơi có
nhiều điều để làm. Thái độ đáp trả không một chút đắn đo thể hiện một sự quy
phục mạnh mẽ mà Ngài dành cho Thiên Chúa, một sự tin tưởng tuyệt đối với Chúa
Quan Phòng. Như vậy, chính việc giữ đời sống khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục
mà đời sống của Gioan
Thánh Gioan Avila cũng được nhắc đến
như là một người có những đóng góp quan trọng trong việc đổi mới đời sống của
các linh mục. Thánh nhân đã liên kết chức vụ tư tế với bí tích Thánh Thể và xem
sự thánh thiện như là một phẩm chất trỗi vượt của một vị linh muc, người đóng
vai trò là trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Ngang qua chức vụ tư tế,
“bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Ki-tô, Chúa chúng ta.” Ngài
khẳng định rằng không có một sức mạnh nào trên thế gian có thể mạnh hơn sức
mạnh của các linh mục, vì “họ có sức mạnh của chính Thiên Chúa”. Vì các linh
mục phải là người có phẩm giá trổi vượt như là vị trung gian giữa Thiên Chúa và
con người nên ngài phải trở nên thánh thiện. Đức Ki-tô là trung gian duy nhất
và là Vị Thượng Tế Tối Cao, nhưng các linh mục cũng được chia sẻ chức vụ này
trong Đức Ki-tô và trên bàn thờ, Linh mục là đại diện của Đức Ki-tô khi ngài
dâng chính mình lên Chúa Cha. Vì thế, linh mục phải là người kết hợp thân mật
với Thiên Chúa và phải trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Ngoài ra, chức vụ
tư tế cũng là món quà Thiên Chúa trao ban cho Giáo Hội, và không ai có thể lãnh
chức vụ này ngoại trừ những người được Thiên Chúa kêu gọi, được Giáo hội phê
chuẩn ngang qua vị Giám mục bản quyền.
Thánh Gioan Avila cũng là một người có
lòng nhiệt thành và có những đóng góp lớn lao trong việc cải cách Giáo hội.
Ngài cho rằng để có thể cải cách Giáo hội, mỗi người phải hoán cải đời sống của
mình. Mỗi người trong chức vụ của mình phải hoán cải đời sống không ngừng. Các
Giám mục nên đưa những đề tài thảo luận vào đời sống thực tiễn. Thánh nhân mời
gọi các Giám mục xem xét đời sống của chính mình và những thái độ nền tảng của
họ khi thực thi nhiệm vụ và thái độ mà họ có đối với các linh mục. Họ phải đảm
bảo rằng thái độ của họ phải xứng hợp với thái độ của Đức Ki-tô, Đấng mà họ là
đại diện. Để có thể thực thi điều đó, các Giám mục phải đồng hành với các linh
mục và lấy tình yêu phụ tử mà đối xử với các ngài. Ngài mời gọi các giám mục
hãy trở thành những người tôi tớ trong khi đối xử với các linh mục, chứ không
như những ông chủ với những người tôi tớ. Nếu các GM khởi đi từ thái độ này,
con đường phía trước sẽ trở nên sáng lạng và đó chính là con đường của Đức
Ki-tô, Đấng là lớn nhất nhưng đã tự ý trở nên rốt hết.
Để thực hiện một sự đổi mới nới hàng
giáo phẩm, thánh Gioan Avila cho rằng các giám mục cần thực thi hai điều: thứ
nhất, không chấp nhận những người không phù hợp vào ơn gọi linh mục và thứ hai,
phải đổi mới chương trình huấn luyện quá nghèo nàn dành cho các ứng viên linh
mục.
Thật vậy, nguyên nhân chính làm hủy
hoại hàng giáo phẩm chính là việc một số người ước muốn chọn lựa ơn gọi này vì
những tham vọng hết sức trần thế. Do đó, trước hết, thánh nhân đề nghị các linh
mục phải cẩn trọng trong việc tuyển lựa các ứng viên. Thánh nhân nhấn mạnh rằng
các ứng viên không phù hợp không thể được nhận dưới bất kỳ điều kiện nào.
Phẩm chất qua trọng nhất của ứng sinh
phải là khả năng trí thức và thiêng liêng. Thánh nhân nói rằng các ứng sinh
phải có khả năng để đạt được những kết quả tốt nhất trong việc học, nhưng điều
đó cũng không bỏ qua khía cạnh đồng hành cá nhân, nghĩa là tùy theo khả năng
của từng người mà giúp họ dấn thân trọn vẹn vào việc đào luyện tri thức. Khả
năng tri thức rất quan trọng nhưng khả năng về thiêng liêng còn quan trọng hơn.
Kế đến, thánh nhân đề nghị các giám mục cần phải thiết lập các chương trình
huấn luyện và giáo dục chặt chẽ. Chương tình huấn luyện dành cho các linh mục
theo khuôn mẫu của ngài đã ảnh hưởng sâu sắc đến quyết định của Công đồng
Nhiều người nghĩ rằng việc đọc về hạnh
các thánh giống như đọc những câu chuyện cổ tích hay thần thoại vì nó không thể
áp dụng vào đời sống thực tiễn. Với họ, những điều mà các vị thánh làm quá phi
thường và vượt sức con người. Chỉ có những người được đặc ân mới có thể sống
như vậy. Nếu nghĩ như vậy thì sẽ không đúng với trường hợp của thánh Gioan
Avila. Thánh Gioan Avila không được phong Tiến Sĩ Hội Thánh vì những việc thực
hành đạo đức của ngài như việc đánh tội, ăn chay lâu ngày… Ngài chỉ là một linh
mục, sống và thi hành sứ mạng của mình với một tình yêu lớn lao dành cho Đức
Ki-tô và cho con người. Đời sống của ngài được nuôi dưỡng bằng đời sống cầu
nguyện và tình yêu dành cho Đức Ki-tô. Chính tình yêu này đã làm sống động toàn
bộ đời sống của Ngài: cầu nguyện, giảng dạy, hướng dẫn thiêng liêng, và sống những
gì mình giảng dạy. Chính tình yêu dành cho Đức Ki-tô và con người đã thúc đẩy
ngài dấn thân vào sứ mạng cải cách hàng giáo sĩ. Chân phước Gioan Phaolo II đã
nói về thánh nhân rằng: “Thánh Gioan Avila đã làm việc một cách can đảm để các
linh mục có thể đáp lại với những dự án đổi mới đầy tham vọng của thời đại với
một đời sống nội tâm sâu xa, một nền tảng huấn luyện trí thức vững chắc và một
sự trung tín không bao giờ cạn đối với Giáo hội và một khao khát liên lỉ mang
Đức Ki-tô đến cho người khác. Trong thời đại mà giáo hội đang bị suy sụp bởi
Phong trào cải cách thì Gioan Avila đã dấn thân phục vụ Giáo hội không biết mệt
mỏi”.
Augustine Nguyễn Minh Triệu S.J
Tài liệu:
1. La Figura Del Maestro
San Giovanni D'avila
2. The Eminent Doctrine of
3.
2. thánh
nữ Hildegard thành Bingen
Trong bài huấn dụ thứ tư ngày 01/9/2010, Đức
Thánh Cha đã giới thiệu một gương mặt nữ giới có ảnh hưởng lớn trên lịch sử
Giáo Hội: đó là thánh nữ Hildegard thành
Bingen, người Đức, sống vào thời Trung Cổ.
Ngài
mở đầu bài huấn dụ như sau:
Anh chị em thân mến, năm 1988 nhân dịp Năm
Thánh Mẫu, Đấng Đáng Kính Gioan Phaolô II đã viết một Tông thư tựa đề “Mulieris
dignitatem” Phẩm giá nữ giới nói về vai trò qúy báu mà phụ nữ đã và
tiếp tục nắm giữ trong đời sống Giáo Hội. Chúng ta đọc thấy rằng “Giáo Hội cám
ơn tất cả mọi biểu lộ của thiên tài nữ giới xuất hiện dọc dài lịch sử, giữa mọi
dân tộc và mọi quốc gia; Giáo Hội cám ơn vì tất cả mọi đặc sủng mà Chúa Thánh
Thần rộng ban cho các phụ nữ trong lịch sử dân Chúa, vì tất cả các chiến thắng
mà Giáo Hội có nhờ đức tin, đức cậy đức mến của họ; Giáo Hội cám ơn về tất cả
mọi hoa trái sự thánh thiện của nữ giới” (31).
Cả trong các thế kỷ mà chúng ta thường gọi là
thời Trung Cổ, cũng có các gương mặt nữ giới khác nhau, nổi bật vì cuộc sống
thánh thiện và giáo huấn phong phú của họ. Hôm nay tôi muốn bắt đầu giới thiệu
với anh chị em một trong các gương mặt ấy: đó là thánh nữ Hildegard thành
Bingen, sống bên Đức vào thế kỷ XII.
Rồi
Đức Thánh Cha tóm tắt tiểu sử thánh Hildegard như sau:
Thánh nữ sinh năm 1098 tại Bermersheim gần Alzey vùng sông Rhein, và qua đời
ngày 17.9 năm 1179 lúc 81 tuổi, mặc dù có sức khỏe thường xuyên mong manh.
Hildegard thuộc một gia đình thượng lưu đông con, và ngay từ khi mới chào đời
đã được cha mẹ dâng cho Thiên Chúa. Vì muốn cho con có được nền giáo dục nhân
bản và kitô thích đáng, năm Hildegard lên 8 tuổi cha mẹ giao chị cho cô giáo
Giuditta thành Spanheim chăm nom dậy dỗ. Cô giáo này đã rút lui vào dòng kín
Biển Đức thánh Disibodo; và một tu viện nhỏ được thành lập, trong đó các nữ tu
sống theo quy luật dòng thánh Biển Đức. Hildegard đã nhận lúp từ tay Đức Cha
Othon thành Bamberg; và khi viện mẫu Giuditta qua đời năm 1136, chị được các
chị em bầu làm Bề trên cộng đoàn.
Hildegard đã chu toàn nhiệm vụ và khai triển các ơn của một phụ nữ thông thái,
có cuộc sống thiêng liêng cao độ và có khả năng chuyên môn đương đầu với các
khía cạnh tổ chức cuộc sống dòng kín. Vài năm sau vì số nữ tu gia tăng chị
Hildegard thành lập một cộng đoàn khác tại Bingen, dâng kính thánh Ruperto và
đã sống các năm cuối đời tại đây. Cách thế chị thi hành sứ vụ quyền bính nêu
gương cho mọi cộng đoàn tu sĩ: Nó khơi dậy một sự ganh đua thánh thiện trong
việc thực thi sự thiện, đến độ theo chứng tá của nhiều người đương thời, mẹ và
các con gái thi đua nhau trong việc qúy trọng và phục vụ nhau.
Đức
Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: Ngay từ khi còn làm Bề trên tu viện thánh Disibod, thánh nữ
Hildegard đã bắt đầu đọc cho cha linh hướng, là dan sĩ Volmar, và nữ tu thư ký
là chị Richardis thành Strade, ghi chép các thị kiến mà chị đã có từ lâu trước
đó. Như vẫn thường xảy ra trong cuộc đời của các nhà thần bí đích thực, cả chị
Hildegard cũng muốn tuân phục quyền bính của các người khôn ngoan để phân định
nguồn gốc các thị kiến ấy, vì sợ rằng chúng là hậu quả của các ảo tưởng và
không bắt nguồn từ Thiên Chúa. Vì thế, chị thổ lộ với người có uy tín nhất
trong Giáo Hội thời bấy giờ là thánh Bênađô thành Clairveaux. Thánh nhân trấn
an và khích lệ chị. Nhưng năm 1147 chị đã nhận được một sự phê chuẩn rất quan
trọng khác nữa. Đức Giáo Hoàng Eugenio III, khi đó đang chủ tọa một Công nghị tại
Trève, đã đọc được một văn bản của thánh nữ Hildegard, do Đức Cha Enrico Tổng
Giám Mục Mainz, đệ trình lên. Đức Giáo Hoàng cho phép chị viết các thị kiến và
công khai nói trước công chúng. Kể từ đó uy tín tinh thần của chị Hildegard
ngày càng gia tăng, đến độ người đương thời gọi chị với tước hiệu là “nữ ngôn
sứ Đức – prophétesse teutonique”. Đó là dấu ấn của một kinh nghiệm đích thực
của Chúa Thánh Thần, suối nguồn mọi đặc sủng: người nhận được các ơn siêu nhiên
không bao giờ khoe khoang, không phơi bầy chúng ra ngoài, và nhất là tỏ ra hoàn
toàn vâng phục quyền bính giáo hội. Thật thế, mọi ơn Chúa Thánh Thần ban đều
được chỉ định xây dựng Giáo Hội; và qua các Mục Tử của mình Giáo Hội thừa nhận
tính cách đích thực của các đặc sủng đó.
Kết
thúc bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Thứ tư tới tôi sẽ còn đề
cập tới gương mặt của người phụ nữ “ngôn sứ” lớn lao này, là người rất thời sự
và nói với cả chúng ta ngày nay nữa. Thánh nữ can đảm lên tiếng phân định các
dấu chỉ thời đại với tình yêu thương chị dành cho thụ tạo, với y khoa, thơ văn
và nhạc của chị, ngày nay được dựng lại, cũng như với tình yêu thương đối với
Chúa Kitô và Giáo Hội Ngài. Thời đó, Giáo Hội cũng đau khổ bị thương tích vì
tội lỗi của các linh mục và tín hữu giáo dân, và Giáo Hội lại càng được yêu thương
như thân mình của Chúa Kitô hơn.
Trong
bài huấn dụ (08/9/2010)
Đức Thánh Cha đã giới thiệu thêm về gương mặt thánh nữ Hildegard thành Bingen,
một phụ nữ nổi tiếng khôn ngoan và thánh thiện thời Trung Cổ. Một cách đặc
biệt thánh nữ Hildegard đã là một người được Thiên Chúa cho có các thị kiến
thần bí, giống các thị kiến của các ngôn sứ trong Kinh Thánh Cựu ước. Qua các
phạm trù văn hóa và tôn giáo thời đó thánh nữ giải thích Kinh Thánh dưới ánh
sáng của Thiên Chúa, và áp dụng vào các trạng huống khác nhau của cuộc sống.
Nhờ vậy, những người nghe thánh nhân cảm thấy được khích lệ sống cuộc đời kitô
trung thực và dấn thân. Trong một bức thư viết cho thánh Benađô thánh nữ thú
nhận rằng: “Thị kiến cuốn chặt lấy toàn con người tôi: tôi không trông thấy với
con mắt của thân xác, nhưng các mầu nhiệm xuất hiện trong trí khôn... Tôi hiểu
biết ý nghĩa sâu xa của những điều được trình bầy trong các Thánh Vịnh, các
Phúc Âm và các sách khác, được chỉ cho tôi thấy trong thị kiến. Nó đốt cháy như
một ngọn lửa trong lồng ngực và trong linh hồn tôi, và dậy tôi hiểu văn bản một
cách sâu xa” (Epistolarium pars prima
I-XC: CCCM 91).
Các thị kiến của thánh nữ Hildegard rất giầu
nội dung thần học, liên quan tới các biến cố chính của lịch sử cứu độ, có thứ
ngôn ngữ thơ phú và biểu tượng. Chẳng hạn như trong tác phẩm nổi tiếng nhất của
chị là “Scivias – Hãy hiểu biết các
con đường”, chị tóm tắt trong 35 thị kiến toàn lịch sử cứu độ từ việc tạo dựng
cho tới ngày tận thế. Với các nét đặc thù nơi sự nhạy cảm của nữ giới, trong
phần chính của tác phẩm, thánh nữ Hildegard khai triển đề tài hôn nhân nhiệm
mầu giữa Thiên Chúa và nhân loại, được hiện thực trong việc Nhập Thể. Trên cây
Thánh Giá thành toàn hôn lễ giữa Con Thiên Chúa với Giáo Hội, hiền thê của
Người, được tràn đầy ơn thánh và có khả năng trao an cho Thiên Chúa các người
con mới trong tình yêu cảu Chúa Thánh Thần (Visio
tertia PL 197,453c).
Chỉ vài yếu tố đó cho chúng ta thấy nền thần
học có thể nhận được một đóng góp đặc thù của nữ giới, bởi vì họ có khả năng
nói về Thiên Chúa và các mầu nhiệm của đức tin với sự thông minh và nhậy cảm
của nữ giới. Vì thế, tôi khích lệ tất cả những người phục vụ trong lãnh vực này
chu toàn điều ấy với tinh thần giáo hội sâu xa, dưỡng nuôi suy tư bằng lời cấu
nguyện, và nhìn vào sự phong phú một phần vẫn chua được khám phá của truyền
thống thần bí thời Trung Cổ, nhất là nơi các mẫu gương sáng ngời như thánh nữ
Hildegard thành Bingen.
Thánh Hildegard (1098 – 17/9/1179) còn là tác
giả của nhiều sáng tác khác nữa: đặc biệt quan trọng còn có “Sách các công
nghiệp của cuộc sống (Liber vitae
meritorum), và “Sách các công trình của Thiên Chúa” (Liber divinorum operum, De operatione Dei). Cuốn đầu miêu tả thị
kiến Thiên Chúa làm cho vũ trụ được sống động với sức mạnh và ánh sáng của
Ngài. Thánh nữ nhấn mạnh tương quan sâu xa giữa con người và Thiên Chúa, và
nhắc cho chúng ta biết rằng toàn thụ tạo trong đó con người là tuyệt đỉnh, nhận
được sự sống từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Cuốn sách nói về tương quan giữa các nhân
đức và các thói xấu, vì vậy, con người phải hằng ngày đương đầu với thách đố
của các thói xấu lôi kéo nó xa rời con đường dẫn đến Thiên Chúa và các nhân đức
giúp nó tới gần Thiên Chúa. Và thánh nhân mời gọi con người tránh xa sự dữ để
làm vinh danh Thiên Chúa và để sau một cuộc sống đạo hạnh, được bước vào trong
cuộc sống “tất cả là niềm vui”. Cuốn sách thứ hai miêu tả thụ tạo trong tương
quan với Thiên Chúa và tập trung nơi con người, biểu lộ khuynh hướng lấy chúa
Kitô làm trung tâm điểm và có mùi vị kinh thánh giáo phụ. Nó trình bày 5 thị
kiến lấy hứng từ phần dẫn nhập Phúc Âm thánh Gioan, và ghi lại lời Chúa Con nói
với Chúa Cha: “Toàn công trình Cha đã muốn và đã giao cho Con, Con đã hoàn tất
và này đây, Con ở trong Cha và Cha ở trong Con, và chúng ta là một” (Pars III, Visio X; PL 197, 1025a).
Trong các bút tích khác thánh Hildegard cho
thấy sức sinh động của các đan viện nữ thời Trung Cổ, trái với thành kiến của
nhiều người. Thánh Hildegard nghiên cứu y khoa và khoa học thiên nhiên cũng như
âm nhạc và phát triển tài năng nghệ thuật. Người sáng tác các thánh thi, các
đoản ca, và thánh ca được thu thập lại với tựa đề Symphonia Harmoniae
Caelestium Revelationum (Symphonie de l'harmonie des révélations célestes)
và còn lưu truyền cho tới ngày nay. Theo ngài, toàn thể công trình tạo dựng là
bản giao hưởng (symphonie) của Chúa Thánh Thần, Đấng ban niềm
vui và hân hoan.
Đức
Thánh Cha nói về sự kiện thánh nữ nổi tiếng và có ảnh hưởng tốt với người thời
đó như sau: Các cộng đoàn đan tu nam nữ, các Giám mục và
Viện phụ hướng tới thánh nữ để tham khảo ý kiến. Nhiều câu trả cũng lời vẫn còn
có giá trị đối với cả chúng ta ngày nay nữa. Chẳng hạn thánh Hildegard viết trả
lời một cộng đoàn dòng nữ như sau: “Đời sống thiêng liêng phải được trau đồi
với nhiều tân tụy. Ban đầu sự mệt nhọc đắng cay lắm. Bởi vì nó đòi hỏi từ bỏ
tính hay thay đổi, thú vui xác thịt, và các điều khác giống như vậy. Nhưng nếu
để cho sự thánh thiện hấp dẫn, thì một linh hồn thánh thiện sẽ tìm thấy việc
khinh rẻ thế gian là êm dịu và dễ mến. Chỉ cần chú ý một cách thông minh để
linh hồn đừng tàn phai” (E. Gronau, Hildegard.
Vita di una donna profetica alle origini dell'età
moderna, Milano 1996,
tr.402). Khi hoàng đế Federico Barbarossa gây ra một cuộc ly giáo, bằng cách
dùng ba ngụy giáo hoàng để đối đầu với Đức Giáo Hoàng hợp pháp là Alessandro
III, thánh nữ Hildegard được các thị kiến linh hứng đã không ngần ngại nhắc cho
hoàng đế biết ông sẽ bị Thiên Chúa phán xử. Với sự táo bạo của mọi ngôn sứ thánh
nữ viết thư cho hoàng đế với các lời lẽ đến từ Thiên Chúa: “Khốn thay, Khốn
thay cho cung cách hành xử của những kẻ gian ác khinh rẻ Ta! Hỡi nhà vua, hẵy
lắng nghe, nếu muốn sống. Nếu không, thì gươm của Ta sẽ đâm thâu ngươi” (Ibid, tr. 412).
Mặc dù sức
khỏe yếu kém và đều kiện đi lại khó khăn thời đó, trong những năm cuối đời
thánh nữ Hildegard vẫn đi đây đó để nói với dân chúng về Thiên Chúa. Mọi người
sẵn sàng vui lòng lắng nghe lời thánh nữ, cả khi thánh nữ có giọng điệu cứng
rắn, họ vẫn coi người như là nữ sứ giả của Thiên Chúa. Người kêu gọi các cộng
đoàn đan tu và giáo sĩ sống phù hợp với ơn gọi của mình. Đặc biệt thánh nữ đã
chống lại phong trào catari tại Đức,
là phong trào của những người tự coi mình là “trong sạch”, nên chủ trương một
cuộc canh tân Giáo Hội một cách triệt để, nhất là để đánh đổ các lạm dụng của
hàng giáo sĩ. Thánh nữ quở trách họ nặng nề là đã muốn lật đổ chính bản chất
của Giáo Hội. Và người nhắc cho họ biết rằng việc canh tân Giáo Hội đích thật
không có được bằng cách thay đổi các cơ cấu cho bằng có tinh thần sám hối chân
thành và hoán cải cụ thể. Đó là sứ điệp mà chúng ta không bao giờ được quên.
Chúng ta hãy khẩn nài Chúa Thánh Thần để Ngài khơi dậy trong Giáo hội các phụ
nữ thánh thiện và can đảm như thánh nữ Hildegard thành Bingen, biết đánh giá
cao các ơn Thiên Chúa ban và góp phần đặc thù quý báu cho sự lớn mạnh thiêng
liêng của các cộng đoàn và của Giáo hội thời đại chúng ta.
Hiện nay
(9/2012) có 33 thánh Tiến Sĩ Hội Thánh, trong số này có 3 thánh nữ là Thánh nữ
Catarina thành Siena, Thánh Têrêsa d'Avila (1970), và Thánh Têrêsa Hài Đồng
Giêsu được tôn phong ngày 19-10-1997. Ngày 07/10/2012 có thêm hai Thánh Tiến sĩ
mới là linh mục Gioan Avila và nữ tu Hildegard thành Bingen.
Trong
Giáo hội Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông phương, một Tiến sĩ Hội thánh
(tiếng Latinh từ chữ docere, giảng
dạy) là một vị thánh mà các bài viết được toàn thể Giáo hội công nhận là có ảnh
hưởng và lợi ích lớn, cũng như "sự hiểu biết nổi bật" và "sự
thánh thiện rộng lớn" đã được tuyên bố bởi Đức Giáo hoàng hoặc bởi một
công đồng đại kết. Vinh dự này ít được trao ban, chỉ người ấy đã chết và đã
được phong thánh. Chưa có một Công Đồng đại kết nào sử dụng đặc quyền để tuyên
bố tước hiệu Tiến sĩ Hội thánh. Thánh Ambrôsiô,
thánh Augustinô, thánh Giêrônimô và thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả là những vị được phong Tiến sĩ Hội thánh tiên khởi vào năm 1298.
Các ngài được biết đến như các Đại Tiến sĩ Hội thánh của Giáo hội Tây phương. Bốn
Đại Tiến sĩ Hội thánh của Giáo hội Đông phương – thánh Gioan Kim khẩu, thánh Basiliô
Cả, thánh Grêgôriô thành Nazien và thánh Athanasiô – được tuyên bố tước hiệu vào năm 1568 bởi Thánh Giáo
hoàng Piô V.