Tông Huấn Amoris Laetitia:
Sáu Điểm Trung Tâm
Vào sáng thứ Sáu ngày
mồng 08 tháng 04 vừa qua, Tòa Thánh Vatican đã chính thức giới thiệu bức Tông
Huấn mới của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô. Bức Tông Huấn này được Ngài viết dựa
trên những tư vấn từ hai phiên họp khoáng đại của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế
Giới về hôn nhân và gia đình, nên được gọi là Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng
Giám Mục về gia đình. Nó có tựa đề là Amoris Laetitia (tạm dịch sang tiếng
Việt: Niềm Vui Tình Yêu). Ngoài phần dẫn nhập và kết luận ra, bức Tông Huấn này
có tất cả 9 chương với 325 số.
Ngay ở phần mở đầu của
Tông Huấn Amoris Laetitia, cụ thể là ở số 7, Đức Thánh Cha đã nói rằng, Ngài „không khuyên đọc toàn bộ bức Tông Huấn một
cách vội vã“. Ngài đã hạn chế xu hướng muốn mau chóng đọc cho xong bức Tông
Huấn này, và Ngài đã giải thích lý do tại sao bản văn này là một bản văn rất
phong phú, và cảnh báo trước sự vội vàng khi đọc nó. Nhưng để có thể định hướng
trong văn kiện rất phong phú này – như đích thân Đức Thánh Cha đã nói - ở đây
xin giới thiệu một cái nhìn tổng quát về những điểm quan trọng nhất của nó.
1.Không luôn luôn chỉ có
Rô-ma:
„Không
phải tất cả các cuộc thảo luận về tín lý, luân lý hay mục vụ đều phải được
quyết định bởi một sự can thiệp thuộc huấn quyền“ (số 3). Ngay khi khởi đầu
văn kiện này, Đức Thánh Cha đã phác thảo một chìa khóa để tiếp cận thực tế:
Những giải pháp không chỉ đến „từ trên“. Đứng đàng sau đó là ý tưởng hội nhập
văn hóa, điều đó có nghĩa là, ở địa phương này thì những giải pháp có thể lại
khác với ở quốc gia bên cạnh hay trong một vùng văn hóa khác, vì những hoàn
cảnh rất khác nhau.
2.Tính thực tế:
Cần „ngăn
ngừa những thiên kiến mà chúng không lưu tâm tới tính phức tạp của những hoàn
cảnh khác nhau“. Đức Thánh Cha muốn hướng cái nhìn vào thực tế chứ không
phải chỉ nhìn vào những ý tưởng. Nếu không có sự lưu tâm tới thực tế, người ta
sẽ không hiểu được những nhu cầu hiện tại và cũng chẳng hiệu được lời mời gọi
của Chúa Thánh Thần – Đức Thánh Cha đã viết như thế. Ở đây, tính thực tế giúp
ngăn ngừa „một ý tưởng thần học trừu
tượng về hôn nhân (…), mà nó được hình thành nên một cách hầu như giả tạo, và
xa cách hoàn cảnh cụ thể cũng như xa cách những khả năng thực tế của các gia
đình thực tế“ (số 36). Chủ nghĩa duy ý tưởng sẽ dẫn tới chỗ là, đời sống
hôn nhân sẽ không còn được nhìn như điều mà nó là, mà thực ra „đó là con đường năng động của sự phát triển
và hiện thực hóa“ (số 37).
3.Vấn đề là Tình Yêu:
Chương trung tâm của văn
kiện này – như đích thân Đức Thánh Cha đã mô tả - chính là chương nói về Tình
Yêu, ở đó Đức Thánh Cha đã sử dụng cặp từ „amor“, chứ không phải là cụm từ mang
ý nghĩa Bác Ái nhiều hơn: „caritas“. Bản văn đã bàn đến tất cả mọi khía cạnh
của Tình Yêu: từ sự bền vững và trao hiến, từ niềm đam mê, sự luyến ái tới sự
thay đổi trong tuổi già và cái chết. Chẳng hạn như tính dục, nó được „sống như là một sự tham dự vào sự viên mãn
của một cuộc sống trong sự phục sinh của Chúa Ki-tô“ – một tông nền tích
cực chiếm ưu thế. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng, „trong
bản chất của chính Tình Yêu hôn nhân, việc mở ra cho sự dứt khoát vẫn luôn tồn
tại“ (số 123), và thực ra, trong toàn bộ không gian hôn nhân, trong „sự
đồng tồn tại của những niềm hạnh phúc và của những nỗ lực, của sự thỏa mãn và
sự khát khao, của sự thiếu hài lòng và của sự khoan khoái“ (số 126).
4.Sự liên kết tất cả:
„Vấn đề nằm ở chỗ là liên kết tất cả; người
ta phải giúp đỡ từng cá nhân để họ tìm thấy con đường riêng của mình trong việc
tham dự vào với cộng đoàn Giáo hội, để họ cảm thấy mình như là một người đón
nhận một Lòng Thương Xót vô vị lợi, vô điều kiện và tự do đáp đền“ (số
297). Mục vụ không có nghĩa là vơ tất cả mọi quy tắc vào trong thực hành, nó
phải xuất phát từ từng cá nhân một, trong hoàn cảnh riêng của họ. Triển vọng về
điều này chính là sự liên kết và hòa nhập tất cả - Đức Thánh Cha nhấn mạnh.
5.Lương tâm:
„Chúng
ta được kêu gọi phải đào tạo lương tâm, nhưng không nhắm tới mục đích đưa ra
yêu cầu nhằm thay thế nó“ (số 37). Cái nhìn hướng về giáo huấn của Chúa
Ki-tô và hướng về truyền thống của Giáo hội thuộc về một sự đắn đo suy nghĩ
trong lương tâm, những giải pháp quá dễ dãi hay quá nghiêm khắc, cũng đều là sự
phản bội đối với hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống. Nhưng ngoài ra, từng cá nhân
một đều phải được kính trọng, cá nhân ấy ở một mình với Thiên Chúa trong lương
tâm mình. Điều đó cũng giải thích cho biết tại sao văn kiện không đưa ra những
quy định mới: „Nếu
người ta lưu ý đến muôn vàn những khác biệt của những hoàn cảnh cụ thể (…), thì
người ta sẽ có thể hiểu được rằng, người ta không được phép mong chờ từ Thượng
Hội Đồng Giám Mục hay từ Tông Huấn này, bất cứ quy định mới nào có tính pháp lý
chung được áp dụng cho tất cả mọi trường hợp theo hình thức Giáo Luật. Chỉ có
thể diễn tả một sự khuyến khích mới nhằm thực hiện một sự biện phân đầy trách
nhiệm, cá nhân và mục vụ đối với từng trường hợp riêng biệt“ (số 300).
6.Chống lại việc chèo kéo
dư luận:
„Những
cuộc thảo luận, như chúng vẫn được thực hiện trên các phương tiện truyền thông
hay trong những thông cáo báo chí, và kể cả trong các cơ quan thuộc Giáo hội,
trải dài từ một sự khát khao không thể kìm nén trong việc muốn thay đổi mọi thứ
mà không bận tâm tới chuyện suy tư phản tỉnh một cách đầy đủ hay đưa ra những
cơ sở biện giải, cho tới quan điểm muốn giải quyết tất cả thông qua việc thay
đổi những nguyên tắc chung hay thông qua việc rút ra những kết luận phóng đại
từ một số những suy tư Thần Học“ (số 2). Đức Thánh Cha biết rất rõ về những
gì mà Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới đã có đối với một sự ồn ào đi kèm, cả
trong nội bộ Giáo hội lẫn nơi các phương tiện truyền thông. Trong cả hai bài
diễn văn bế mạc của Ngài, Đức Thánh Cha đã phê phán điều đó, và trong Tông Huấn
Amoris Laetitia, Đức Thánh Cha còn nói rõ thêm một lần nữa về sự việc đó. Đàng
sau những chỉ trích cũng cất giấu một đòi hỏi: không đọc Tông Huấn một cách vội
vã, không cường điệu những thảo luận, nhưng đọc kỹ từng đề tài một cũng như
từng phần một của bản văn trong sự thanh thản và trầm tư.
(theo de.rv 08.04.2015
ord)
Minh Tâm