Đức
Thánh Cha Cử Hành Thánh Lễ Tôn Phong 5 Vị Hiển Thánh Mới
Đức Thánh Cha cử hành thánh lễ tôn
phong 5 vị hiển thánh mới | Vatican Media
RVA 13/10/2019 G. Trần Đức Anh, O.P.
Lúc 10
giờ sáng Chúa nhật 13/10/2019, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng
thể tại Quảng trường Thánh Phêrô trước sự tham dự của hơn 100 ngàn người để tôn
phong 5 vị hiển thánh mới của Giáo Hội.
Năm vị thánh mới
Đứng
đầu 5 vị là Đức Hồng y John Henry Newman (1801-1890) người Anh, vốn là một nhà
thần học nổi tiếng của Anh giáo, đã trở lại Công Giáo, thụ phong linh mục, tiếp
tục con đường phục vụ chân lý cứu độ và vào cuối đời được phong Hồng y như một
dấu chỉ sự xác nhận của Giáo Hội đối với công trình phục vụ của Ngài. Đức Hồng
y Newman vẫn luôn là người quyết liệt hỗ trợ sự khiết tịnh và sự độc thân linh
mục, đến độ ngài định nghĩa sự độc thân này là “một bậc sống cao hơn mà đại đa
số người nam không thể mong ước”.
3 thánh
nữ kế tiếp là Mẹ Giuseppina Vannini (1859-1911), người Italia, sáng lập dòng Nữ
tử thánh Camillo, chuyên săn sóc các bệnh nhân. Mẹ thường nhắc nhở các nữ tu
trong dòng: “Chị em hãy nhìn nơi các bệnh nhân hình ảnh của đức Kitô đau khổ”.
Thứ hai
là Mẹ Maria Teresa Chiramel Mankidiyan (1876-1926), người Ấn độ, sáng lập dòng
nữ tu Thánh Gia, chuyên giáo dục các thiếu nữ và những người túng thiếu, cũng
như thăng tiến gia đình. Mẹ có nhiều nét giống như Mẹ Têrêxa Calcutta, tận tụy
săn sóc những người cùng khổ, tàn tật, phong cùi. Mẹ cũng là một nhà thần bí,
được mang các dấu thánh giống như Cha Piô ở Italia. Trong đời, Mẹ Chiramel
Teresa nhiều lần bị ma quỷ quấy phá và hành hạ, cũng như bị giáo quyền thử
thách nhiều cách, nhưng chị cũng được rất nhiều ơn lạ khác.
Thứ ba
là Nữ tu Dulce Lopes Pontes (1914-1992), thuộc dòng Nữ Thừa Sai Đức Mẹ Vô Nhiễm
nguyên tội Mẹ Thiên Chúa, quen được gọi là “Mẹ Têrêsa của Giáo Hội tại Brazil”,
vì những hoạt động của chị trong việc chăm sóc những người nghèo khổ. Ngay từ
khi còn nhỏ, chị đã chứng tỏ lòng bác ái đặc biệt và đã mở cửa căn nhà khiêm hạ
của gia đình cho những người đang cần lương thực và nơi trú ngụ. Như một nữ tu,
chị Dulce đã có những sáng kiến và vượt thắng bao nhiêu chướng ngại để săn sóc
giúp đỡ những người kém may mắn nhất trong xã hội.
Sau
cùng là thánh nữ Marguerite Bays (1815-1879), giáo dân người Thụy Sĩ, dòng Ba
thánh Phanxicô Assisi, nên thánh trong cuộc sống đơn sơ, thường nhật. Chị chỉ
được học 3, 4 năm bậc tiểu học, rồi sau đó học nghề may vá, nhưng đã nổi bật
trong đời sống thánh thiện, âm thầm phục vụ trong công tác giảng dạy giáo lý
cho các trẻ em, vượt thắng những khó khăn trong đời sống gia đình chị. Chị được
ơn lạ mang 5 dấu thánh, phải đeo găng tay suốt năm để che các dấu thánh của
Chúa Giêsu xuất hiện trên bàn tay và thân thể của chị, nhưng dân chúng vẫn hay
biết. Thánh nữ Marguerite chịu đau khổ đều đặn như vậy suốt 25 năm trời, trong
niềm kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, cho đến khi qua đời vào ngày
27/06/1879, đúng ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu như ước nguyện của chị, hưởng thọ
64 tuổi.
Cộng đoàn tín hữu hiện diện
Hiện
diện tại Quảng trường Thánh Phêrô có hơn 100 ngàn tín hữu, nhiều người đứng
tràn ra đường Hòa Giải vì trong Quảng trường không còn chỗ. Họ đến từ 5 châu,
đặc biệt từ các quốc gia nguyên quán của vị thánh mới: trong đó đông nhất là từ
Italia, tiếp đến có 20 ngàn người từ Anh quốc và Ai Len.
Phía
bên tay phải bàn thờ từ dưới nhìn lên là nơi dành cho các phái đoàn chính phủ
đến dự lễ: đứng đầu là Tổng thống Cộng hòa Italia, Ông Sergio Mattarella, thứ
hai là Thái Tử Charles của Anh quốc, thứ ba là Ông Hamilton Martins Mourão, Phó
Tổng thống Brazil, thứ tư là Phó Tổng Thống Trần Kiến Nhân của Đài Loan. Ba phái
đoàn còn lại do ông Joe McHugh, Bộ trưởng giáo dục của Cộng hòa Ai Len, Bà
Karin Keller-Sutter, Cố Vấn Liên Bang Thụy Sĩ, cũng là một bộ trưởng. Sau cùng
từ Ấn độ có phái đoàn do Thứ trưởng ngoại giao V Muraleedharan, hướng dẫn. Cùng
với các vị trưởng đoàn có đoàn tùy tùng.
Các
phái đoàn này được Đức Thánh Cha chào thăm trước thánh lễ, lúc 9 giờ 45 tại khu
vực ở bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô, trước nhà nguyện Đức Mẹ Sầu Bi.
Các vị đồng tế
Lễ
phong thánh diễn ra trong khuôn khổ Thượng Hội đồng Giám mục về miền Amazzonia
nên cũng có số hồng y, giám mục và linh mục đồng tế đông đảo nhất trong số các
thánh lễ do Đức Thánh Cha cử hành năm nay. Theo Ban phụng vụ của Đức Thánh Cha,
có hơn 300 hồng y và giám mục, và 2.400 linh mục đồng tế. Đứng cạnh Đức Thánh
Cha tại bàn thờ là 4 vị giám mục bản quyền các giáo phận nguyên quán của 4 tân
hiển thánh, cùng với cha Ignatius Harrison, Bề trên cộng đoàn dòng giảng thuyết
thánh Philiphê Neri do Đức Hồng y Newman thiết lập ở Birmingham, Anh quốc.
Nghi thức phong thánh
Nghi thức
tôn phong hiển thánh diễn ra vào đầu thánh lễ: sau khi cộng đoàn hát kinh cầu
xin Chúa Thánh Thần, Đức Hồng y Angelo Becciu, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, cùng
với 5 vị thỉnh nguyện viên, tiến lên trước mặt Đức Thánh Cha xin ngài ghi tên 5
vị chân phước vào sổ bộ các vị hiển thánh của Giáo Hội, rồi Đức Hồng y lược
thuật tiểu sử 5 vị.
Sau khi
cộng đoàn hát kinh cầu các thánh, Đức Thánh Cha long trọng đọc công thức: do
quyền của Chúa Giêsu Kitô, của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô cũng như quyền
của ngài, sau khi suy nghĩ, cầu nguyện và tham khảo ý kiến của nhiều anh em
trong hàng giám mục, ngài truyền ghi tên 5 vị chân phước vào sổ bộ các hiển
thánh của Giáo Hội và truyền phải tôn kính các vị trong Giáo Hội hoàn vũ theo
các qui luật của Hội Thánh.
Bài giảng thánh lễ
Trong
bài giảng Thánh Lễ, Đức Thánh Cha đã diễn giải ý nghĩa bài Tin Mừng kể lại sự
tích Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi và ngài phân tích hành trình đức
tin của họ qua 3 giai đoạn, họ cầu khẩn, rồi tiến bước, và sau cùng là cảm ơn.
Trước
tiên, những người phong cùi ấy ở trong một tình trạng kinh khủng, không những
vì thứ bệnh ngày nay vẫn còn lan tràn, cần phải được bài trừ bằng mọi nỗ lực,
nhưng còn vì họ bị loại khỏi xã hội. Vào thời Chúa Giêsu, những người phong cùi
bị coi là ô uế, vì thế họ phải ở một nơi cách biệt (Lv 13,46). Thực vậy, chúng
ta thấy khi họ đến gặp Chúa Giêsu, “họ dừng lại ở đàng xa” (Xc 17,12). Nhưng dù
thân phận bị cách biệt như thế, họ vẫn lớn tiếng cầu khẩn Chúa Giêsu (v.13). Họ
không để mình bị tê liệt vì sự loại trừ của loài người và đã kêu lên cùng Chúa
là Đấng không loại trừ ai. Và thế là sự cách biệt được thu ngắn, như thể họ
trỗi dậy từ tình trạng cô lập: không khép kín vào mình và không co cụm trong
tình trạng than thân trách phận, không nghĩ đến những xét đoán của người khác,
nhưng kêu cầu Chúa, vì Chúa lắng nghe tiếng kêu của người cô độc.
Đức
Thánh Cha nhận xét rằng: “Giống như những người phong cùi ấy, cả chúng ta cũng
cần được chữa lành, tất cả chúng ta. Chúng ta cần được chữa trị khỏi thái độ
thiếu tự tín trong cuộc sống, thiếu tin tưởng nơi tương lai; chúng ta cần được
chữa lành khỏi nhiều thứ sợ hãi, những tật xấu biến chúng ta thành nô lệ cho
chúng; chúng ta cần được chữa lành khỏi bao nhiêu thứ khép kín, nghiện ngập và
quyến luyến: như nghiện cờ bạc, quyến luyến tiền bạc, truyền hình, điện thoại
di động, sự phán đoán của người khác. Chúa giải thoát và chữa lành con tim, nếu
chúng ta cầu khẩn Chúa, nếu chúng ta thưa: “Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa có thể
chữa lành con; xin chữa lành con khỏi những thái độ khép kín, xin giải thoát
con khỏi sự ác và sợ hãi [...]
Giai
đoạn thứ hai là tiến bước. Trong bài Tin Mừng ngắn hôm nay, có khoảng 10 động
từ về sự di chuyển. Mừng điều đáng để ý hơn cả là những người phong cùi không
được chữa lãnh khi họ đứng im trước Chúa Giêsu, nhưng là sau đó, khi họ bước
đi. Tin Mừng kể: “Trong khi họ đi đàng, họ được lành sạch” (v.14). Họ được lành
khi tiến bước về Jerusalem, nghĩa là trong khi họ thực hiện cuộc hành trình lên
dốc. Chính trên con đường của cuộc sống mà họ được lành lặn, đó là con đường
thường là lên dốc vì dẫn đến nơi cao hơn. Đức tin đòi một hành trình, một cuộc
đi ra ngoài, đức tin làm phép lạ nếu chúng ta ra khỏi những chắc chắn thoải mái
của mình, nếu chúng ta rời bỏ những cửa khẩu trấn an chúng ta, những cái ổ
thoải mái. Đức tin gia tăng với sự cho đi và tăng trưởng với rủi ro. Đức tin
tiến triển khi chúng ta bước đi trong niềm tín thác nơi Thiên Chúa [...]
Đức
Thánh Cha nêu nhận xét:
“Có một
khía cạnh đáng chú ý trong hành trình của những người phong cùi: họ cùng nhau
bước đi và họ đã được thanh tẩy, như câu 14 trong bài Tin Mừng đã nói, luôn
luôn ở số nhiều. Đức tin là đồng hành, không bao giờ đơn độc... Nhưng sau khi
được lành sạch, 9 người ra đi theo hướng riêng của họ và chỉ có một người trở
lại cám ơn. Bấy giờ Chúa Giêsu biểu lộ tất cả sự cay đắng của ngài: “Vậy 9
người kia đâu?” (v.17), như thể ngài “hỏi tội” người duy nhất trở lại về hành
động của 9 người kia. Quả thực, nghĩa vụ của chúng ta, giống như ở đây là “thực
hiện Thánh Lễ”, nghĩa là cảm tạ: bổn phận của chúng ta là chăm sóc những người
ngưng tiến bước, những người lạc đường: chúng ta là những người gìn giữ những
anh chị em xa cách. Chúng ta là những người chuyển cầu cho họ, có trách nhiệm
đối với họ, nghĩa là chúng ta được kêu gọi trả lời về họ, quan tâm đến họ. Bạn
có muốn tăng trưởng trong đức tin không? Bạn hãy chăm sóc một người anh chị em
xa cách.
Đức
Thánh Cha nói tiếp:
Cầu
khẩn, tiến bước và sau cùng giai đoạn chót là cảm tạ. Chúa Giêsu chỉ nói với
người cảm tạ: “Đức tin của con đã cứu con” (v.19). Người ấy không những được
lành bệnh, nhưng còn được cứu rỗi. Điều này nói với chúng ta rằng đích điểm
không phải là sức khỏe, là lành lặn, nhưng là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu. Ơn
cứu độ không phải là uống một ly nước để được khỏe mạnh, nhưng là đi tới tận
nguồn là Chúa Giêsu. Chỉ có Chúa mới giải thoát khỏi sự ác và chữa lành tâm
hồn, chỉ có cuộc gặp gỡ với Chúa mới làm cho đời sống sung mãn và đẹp đẽ...
Từ tâm
tình biết ơn ấy, Đức Thánh Cha áp dụng vào bối cảnh ngày lễ phong thánh và nói:
“Hôm
nay, chúng ta cảm tạ Chúa vì các vị Thánh mới, đã bước đi trong đức tin và giờ
đây chúng ta cầu khẩn các ngài như những vị chuyển cầu. Trong số các vị có 3 nữ
tu, chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng đời sống tu trì là một hành trình yêu
thương nơi những khu vực ngoại ô của cuộc sống. Trái lại thánh nữ Marguerite
Bays là một thợ may và chị tỏ cho chúng ta thấy sức mạnh dường nào của kinh
nguyện đơn sơ, kiên nhẫn chịu đựng và dâng hiến trong âm thầm: qua những điều
ấy, Chúa đã hồi sinh nơi chị sự huy hoàng của Lễ Phục Sinh. Đó là sự nên thánh
hằng ngày mà Thánh Hồng y Newman đã nói: “Kitô hữu có một niềm an bình sâu xa,
thầm lặng, kín đáo mà thế gian không thấy [...]. Tín hữu Kitô vui mừng, yên
hàn, tốt lành, dễ mến, lịch sự, chân thành, khiêm tốn; không tự phụ, [...] thái
độ của họ không hề có vẻ khoa trương và kiểu cách, và khi nhìn họ, người ta dễ
dàng thấy họ là một người bình thường” (Parochial and Plain Sermons, V,5).
Và Đức
Thánh Cha kết luận rằng: “Chúng ta hãy cầu xin được như vậy, được trở thành
“những ngọn đèn dịu dàng giữa tăm tối của trần thế. Lạy Chúa Giêsu, “xin ở lại
với chúng con và chúng con sẽ bắt đầu chiếu sáng như Chúa chiếu sáng, chiếu
sáng để trở thành một ngọn đèn cho tha nhân” (Meditations on Christian
Doctrine, VII, 3). Amen.
Lời cám ơn và kêu gọi cuối lễ
Cuối
thánh lễ, lúc 12 giờ, trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha đã chào thăm
và cám ơn tất cả mọi người hiện diện: các hồng y, giám mục, linh mục cũng như
các tu sĩ nam nữ từ các nơi về dự lễ, đặc biệt những người thuộc các gia đình
thiêng liêng của các vị thánh mới.
Đức
Thánh Cha cũng chào thăm các phái đoàn chính thức của các nước, đặc biệt là
Tổng Thống Italia và Thái Tử xứ Wales của Anh quốc.
Đức
Thánh Cha không quên nhắc đến tất cả các tín hữu hành hương cũng như những
người tham dự thánh lễ qua các đài phát thanh và truyền hình, đặc biệt là các
tín hữu Ba Lan, hôm nay cử hành Ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Ngài
cũng nói rằng: “Hôm nay một lần nữa tôi nghĩ đến Trung Đông, nhất là nước Siria
yêu quý và đau thương, từ đây lại mới có những tin thê thảm về số phận của dân
chúng ở miền đông bắc nước này, đang phải bỏ gia cư vì các hoạt động quân sự:
trong số những người dân ấy cũng có nhiều gia đình Kitô. Tôi tái kêu gọi các
tác nhân liên hệ và Cộng đồng quốc tế hãy chân thành dấn thân trên con đường
đối thoại để tìm kiếm những giải pháp hữu hiệu”.
Cùng
với tất cả các thành viên Thượng Hội đồng Giám mục về miền liên Amazzonia, đặc
biệt những vị đến từ Ecuador, tôi lo lắng theo dõi những gì đang xảy ra tại
nước này trong những tuần lễ gần đây. Tôi phó thác đất nước này cho kinh nguyện
chung và sự chuyển cầu của các thánh mới, và hiệp với sau khổ vì những người
chết và bị thương. Tôi khuyến khích tìm kiếm hòa bình trong xã hội, đặc biệt
quan tâm đến những người dân dễ bị tổn thương và tới các quyền con người”.
Tại
Ecuador xảy ra những vụ đình công, biểu tình phản đối, và bạo động, phản đối
chính phủ tăng giá xăng dầu. Chính phủ ra lệnh thiết quân và di chuyển các trụ
sở chính quyền từ thủ đô Quito đến thành phố Guayaquil ven bờ biển. Hàng trăm
thổ dân bị trục xuất khỏi quốc hội...”