Đức
Thánh Cha trong cuộc gặp gỡ vì hoà bình ở Hiroshima
Lúc 18
giờ 40 ngày 24/11, ĐTC tham dự cuộc gặp gỡ vì hoà bình tại đài tưởng niệm hòa
bình tại Hiroshima, với sự hiện diện của khoảng 1.300 người. Sau khi ký vào sổ
lưu niệm, ĐTC đến quảng trưởng nhỏ và chào 20 lãnh đạo tôn giáo và gặp các nạn
nhân hiện diện. Sau khi nghe lời chứng của hai nạn nhân bom nguyên tử, ĐTC có
một bài diễn văn trước những người hiện diện.
Văn Yên, SJ -
Vatican News 24
tháng mười một 2019
ĐTC mở
đầu bài diễn văn với một lời cầu nguyện trích từ Thánh Vịnh 122:
“Nghĩ
tới anh em cùng là bạn hữu, tôi nói rằng: ‘chúc thành đô an lạc’” (Tv 122,8).
Thiên
Chúa giàu lòng thương xót và Chúa của lịch sử, chúng con ngước nhìn lên Chúa từ
nơi đây, nơi giao nhau giữa sự chết và sự sống, giữa sụp đổ và tái sinh, giữa
đau khổ và từ bi.
ĐTC
tiếp tục bài diễn văn:
Tại
đây, trong vụ nổ sét và lửa, rất nhiều người nam và người nữ, rất nhiều giấc mơ
và hy vọng, đã biến mất, chỉ còn lại bóng tối và sự im lặng. Ngay lập tức, mọi
thứ bị nuốt chửng bởi một lỗ đen hủy diệt và chết chóc. Từ vực thẳm của im
lặng, ngay cả hôm nay chúng ta tiếp tục nghe tiếng khóc của những người không
còn nữa. Họ đến từ các nơi khác nhau, có tên khác nhau và một số người nói các
ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, tất cả họ hợp nhất trong cùng một số phận, trong
một giờ kinh hoàng để lại dấu ấn mãi mãi không chỉ trong lịch sử của đất nước
này, mà còn trên bộ mặt của cả nhân loại.
Tại
đây, tôi bày tỏ sự kính nhớ đến tất cả các nạn nhân, và tôi cúi đầu trước sức
mạnh và phẩm giá của những người sống sót sau những giây phút đầu tiên, rồi
trong nhiều năm sau đó họ phải mang nơi thân xác những nỗi đau tột cùng, và nơi
tinh thần những hạt giống chết chóc không ngừng bào mòn sức sống của họ.
Tôi cảm
thấy có bổn phận phải đến đây như một người hành hương của hòa bình, để đứng
đây trong cầu nguyện, tưởng nhớ những nạn nhân vô tội của bạo lực này, và cũng
mang trong tim những lời cầu nguyện và khao khát của những người nam nữ thời
đại chúng ta, đặc biệt là giới trẻ, những người khao khát hòa bình, những người
làm việc vì hòa bình và hy sinh bản thân vì hòa bình. Tôi đến nơi đầy ký ức và
hy vọng về tương lai này, mang theo tiếng khóc của những người nghèo. Họ luôn
là nạn nhân bất lực nhất của sự thù hận và xung đột.
Tôi
khiêm tốn ao ước là tiếng nói của người không có tiếng nói, của người đang nhìn
bằng sự âu lo và thống khổ vì những căng thẳng đang gia tăng của thời đại chúng
ta: sự bất bình đẳng và bất công không thể chấp nhận được đang đe dọa sự chung
sống của con người, gây ra sự bất lực nghiêm trọng liên quan đến ngôi nhà chung
của chúng ta và sự bất ổn bùng nổ xung đột vũ trang, như thể những điều này có
thể đảm bảo một tương lai hòa bình.
Với
niềm tin sâu sắc, tôi mong muốn một lần nữa tuyên bố rằng việc sử dụng năng
lượng nguyên tử cho mục đích chiến tranh, ngày nay hơn bao giờ hết, là một tội
ác không chỉ chống lại con người và phẩm giá của con người, mà còn chống lại
mọi khả thể tương lai trong ngôi nhà chung của chúng ta. Việc sử dụng năng
lượng nguyên tử cho mục đích chiến tranh là vô đạo đức, tương tự, việc sở hữu
hạt nhân cũng vô đạo đức, như tôi đã từng nói hai năm trước. Chúng ta sẽ bị xét
xử về điều này. Các thế hệ tương lai sẽ đứng lên xét xử sự thất bại của chúng
ta nếu chúng ta nói về hòa bình nhưng lại không hành động để thực hiện nó giữa
các dân tộc trên trái đất. Làm thế nào chúng ta có thể nói về hòa bình khi
chúng ta chế tạo vũ khí chiến tranh mới và đáng sợ? Làm thế nào chúng ta có thể
nói về hòa bình khi chúng ta biện minh cho các hành động bất hợp pháp bằng các
bài phát biểu chứa đầy sự phân biệt đối xử và thù hận?
Tôi tin
rằng “hòa bình” không hơn kém là một lời sáo rỗng nếu nó không được thiết lập
dựa trên sự thật, được xây dựng theo công lý, nếu nó không được linh hoạt và
hoàn thiện bởi đức ái, và nếu không được thực hiện trong tự do (x. Thánh Giáo
Hoàng Gioan XXIII, Pacem in Terris, 37).
Xây
dựng hòa bình trong sự thật và công lý có nghĩa là phải thừa nhận rằng “con
người thường khác nhau về tri thức, đức hạnh, tư duy và sở hữu vật chất” (sdd.,
87), và điều này không bao giờ có thể biện minh cho mưu toan áp đặt ý muốn của
mình lên người khác. Thật vậy, những khác biệt đó đòi hỏi trách nhiệm và sự tôn
trọng lớn hơn. Các cộng đồng chính trị có thể khác biệt về sự phát triển văn
hóa hoặc kinh tế, nhưng tất cả đều được kêu gọi dấn thân làm việc “vì mục đích
chung”, vì lợi ích của tất cả mọi người (sđd., 88).
Thật
vậy, nếu chúng ta thực sự muốn xây dựng một xã hội công bằng và an toàn hơn,
thì chúng ta phải để vũ khí rời khỏi tay chúng ta. “Không ai có thể yêu với vũ
khí tấn công đang cầm trong tay” (Th. Phaolô VI, Diễn văn tại Liên Hợp Quốc,
4/10/1965, 5). Khi chúng ta dựa vào logic của vũ khí và tránh đối thoại, thì
chúng ta quên mất rằng, ngay cả trước khi gây ra các nạn nhân và hủy hoại, vũ
khí có khả năng tạo ra ác mộng: “Chúng tiêu tốn các khoản chi phí khổng lồ, làm
gián đoạn các dự án liên đới và công việc hữu ích, và gây tâm lý sợ hãi nơi các
quốc gia (sđd., 5). Làm thế nào chúng ta có thể đề xuất hòa bình nếu chúng ta
liên tục sử dụng mối đe dọa chiến tranh hạt nhân như một cách đòi hỏi hợp pháp
để giải quyết các cuộc xung đột? Có thể vực thẳm nỗi đau chịu đựng ở đây nhắc
nhở chúng ta về những ranh giới không bao giờ được vượt qua. Một nền hòa bình
thực sự chỉ có thể là một nền hòa bình không vũ trang. Đối với hòa bình, không
chỉ đơn thuần là sự vắng mặt của chiến tranh ... nhưng nó là một toà nhà không
ngừng được xây dựng (Gaudium et Spes, 78). Đó là thành quả của công lý, phát
triển, liên đới, chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta và thúc đẩy lợi ích
chung, như chúng ta đã học được từ những bài học lịch sử.
Nhắc
nhớ, đi cùng nhau và bảo vệ. Đây là ba mệnh lệnh đạo đức mà, ngay tại đây, ở
Hiroshima này, có ý nghĩa mạnh mẽ và phổ quát hơn, và có thể mở ra một con
đường thực sự cho hòa bình. Vì lý do này, chúng ta không thể cho phép các thế
hệ hiện tại và tương lai mất đi ký ức về những gì đã xảy ra tại đây. Đó là một
ký ức đảm bảo và khuyến khích việc xây dựng một tương lai công bằng và huynh đệ
hơn; một ký ức mở rộng, có khả năng đánh thức lương tâm của tất cả mọi người nam
nữ, đặc biệt là những người ngày nay đóng một vai trò quan trọng trong vận mệnh
của các quốc gia; một ký ức sống giúp chúng ta nói từ thế hệ này sang thế hệ
khác: không bao giờ nữa!
Đó là
lý do tại sao chúng ta được kêu gọi bước đi cùng nhau, với một ánh mắt thấu
hiểu và tha thứ, mở ra chân trời để hy vọng và mang đến một tia sáng giữa nhiều
đám mây làm tối bầu trời hôm nay. Chúng ta hãy mở ra với hy vọng, và trở thành
công cụ của hòa giải và hòa bình. Điều này sẽ luôn luôn có thể nếu chúng ta có
thể bảo vệ lẫn nhau và nhận ra rằng chúng ta là anh em trong cùng một số phận
chung. Thế giới của chúng ta, liên kết với nhau không chỉ bởi toàn cầu hóa mà
còn bởi chính trái đất mà chúng ta luôn chia sẻ, đòi hỏi, ngày nay hơn bao giờ
hết, loại bỏ những lợi ích dành riêng cho một số nhóm hoặc lĩnh vực nhất định,
để đạt được sự cao cả của những người chiến đấu một cách có trách nhiệm để đảm
bảo một tương lai chung.
Cuối
cùng, ĐTC dâng một lời cầu nguyện, xin cho thế giới không còn chiến tranh nữa,
không còn những xung đột và những đau khổ nữa.
Kết
thúc buổi gặp gỡ, ĐTC ra sân bay Hiroshima cách đó 53km để bay về Tokyo trong
gần 1 giờ rưỡi bay.