Vấn
Đề Tuân Giữ “Bí Mật Giáo Hoàng”
VATICAN.
Đức Thánh Cha đã bãi bỏ “bí mật giáo hoàng” trong những vụ giáo sĩ lạm dụng
tính dục, sẵn sàng cộng tác với các chính quyền trong nỗ lực bài trừ tệ nạn
này.
G. Trần Đức Anh OP – CTV Vatican News 22
tháng mười hai 2019
Trong
những ngày qua, báo chí đặc biệt nói đến và bình luận về việc hôm 17-12-2019,
Tòa Thánh đã bãi bỏ nghĩa vụ giữ “bí mật Giáo Hoàng” trong những vụ lạm dụng
tính dục và nhờ đó, cả nhà chức trách tư pháp dân sự cũng có thể tham khảo các
chứng từ trong các vụ xét xử lạm dụng theo giáo luật. Biện pháp này nhắm góp
phần bài trừ hữu hiệu hơn nạn giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên.
Sự thay
đổi này được trình bày trong huấn thị dưới dạng gọi là ”phúc chiếu”
(Rescrittum) đăng trên Báo ”Quan sát viên Roma” ngày 17/12 và có hiệu lực ngay,
và sau đó, sẽ được đăng trên Công báo của Tòa Thánh (AAS).
Bí mật
giáo hoàng
Các qui
luật về việc tuân giữ “bí mật giáo hoàng” được trình bày trong văn kiện gọi là
“Secreta continere” (Giữ các bí mật), được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phê chuẩn
cách đây 45 năm, ngày 4/2/1974, trong lời tựa có minh định rằng: “Trong một số
vấn đề quan trọng, cần tuân giữ bí mật đặc biệt, gọi là bí mật giáo hoàng, cần
được cẩn giữ như một nghĩa vụ hệ trọng”. Người phải tuân giữ bí mật giáo hoàng
phải coi mình bị cầm buộc, không phải do một luật bên ngoài, nhưng do một yêu
sách từ chính nhân phẩm của mình và phải coi như một vinh dự sự cam kết gìn giữ
những bí mật cần thiết cho công ích”.
Khoản
số 1 trong Văn kiện ”Giữ các bí mật” có liệt kê những vấn đề phải giữ bí mật
như bí mật giáo hoàng, trong đó có “những thông tri và những tố giác về đạo lý
và những thông báo của bộ giáo lý đức tin, cũng như việc cứu xét những điều đó,
do chính bộ này thi hành, ngoài ra có những tố cáo ngoài tòa án về những tội ác
chống lại đức tin và luân lý, những tội lỗi bí tích giải tội, cũng như những vụ
xét xử và quyết định về những lời tố cáo ấy, tuy vẫn luôn tôn trọng quyền của
những người bị tố cáo với nhà chức trách được biết về vụ tố cáo họ, nếu việc
biết như thế là cần thiết cho việc bênh vực họ. Chỉ được phép tiết lộ tên của
người tố cáo nếu nhà chức trách thấy là thích hợp nên để cho người bị cáo và
người tố cáo cùng trình diện”.
Khoản
số 2 trong văn kiện “Giữ các bí mật” xác định ai phải giữ bí mật giáo hoàng, đó
là “các hồng y, giám mục, các bề trên và nhân viên cấp cao và cấp nhỏ, các cố
vấn, chuyên gia và nhân sự cấp dưới có liên hệ tới việc xử lý các vấn đề cần
giữ bí mật giáo hoàng, các vị đại diện Tòa Thánh và các nhân viên thuộc quyền
có bàn về các vấn đề ấy, và tất cả những người được mời gọi góp ý kiến về những
vụ ấy, sau cùng là tất cả những người bị buộc phải giữ bí mật giáo hoàng trong
những công việc đặc biệt”.
Cũng
phải giữ bí mật giáo hoàng trong tiến trình bổ nhiệm giám mục và các chức sắc
khác của Tòa thánh.
Kỷ luật
cho đến nay
Trong
tự sách “Bảo vệ sự thánh thiêng của các bí tích” có qui định phải giữ bí mật
giáo hoàng về những vụ do Bộ giáo lý đức tin xét xử, đó là những tội chống lại
đức tin và luân lý, những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, thủ
đắc, lưu trữ hoặc phổ biến với mục đích thỏa mãn tính dục những hình ảnh dâm ô
trẻ em, v.v.
Một số
thay đổi theo luật mới
Quy
luật tuân giữ bí mật Giáo Hoàng vẫn được duy trì, nhưng nay, Đức Thánh Cha
Phanxicô cho phép ban huấn thị về sự kín đáo của các vụ tố cáo và xét xử những
tội lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên. Theo đó, không buộc phải giữ bí mật
Giáo Hoàng như trước đây về những vụ tố cáo, xét xử và quyết định về những tội
đã được nói đến trong điều số 1 của Tự Sắc “Các con là ánh sáng thế gian”:
nghĩa là những vụ hiếp dâm và những hành vi tính dục do sự đe dọa hoặc lạm
quyền đối với trẻ vị thành niên hoặc người dễ bị tổn thương; những vụ dâm ô trẻ
em, những vụ không tố giác hoặc che đậy những kẻ lạm dụng từ phía các giám mục
hoặc các bề trên tổng quyền của các dòng tu.
Bảo đảm
an ninh và thanh danh những người liên hệ
Huấn
thị mới xác định rằng “những thông tin phải được xử lý làm sao để bảo đảm an
ninh, sự toàn vẹn và kín đáo như giáo luật qui định để bảo vệ thanh danh, hình
ảnh và đời tư của những người liên hệ. Tuy nhiên, việc giữ bí mật theo chức vụ
không ngăn cản việc chu toàn các nghĩa vụ được luật pháp nhà nước qui định, kể
cả những nghĩa vụ phải trình báo, thi hành những yêu cầu của nhà chức trách tư
pháp dân sự. Ngoài ra, không thể áp đặt sự im lặng cho những người trình báo, cho
nạn nhân và cho các nhân chứng về các sự kiện.”
Cùng
với văn kiện trên đây, ngày 17/12, còn có văn kiện thứ hai cho biết Đức Thánh
Cha Phanxicô nâng hạn tuổi từ 14 lên 18 tuổi đối với tội giáo sĩ thủ đắc, giữ
và phổ biến những hình ảnh dâm ô với mục đích thỏa mãn tính dục, có liên quan
đến các trẻ vị thành niên cho tới 18 tuổi, thay vì 14 tuổi như trước đây. Ngoài
ra, một điều khoản khác trong Văn kiện thứ hai cho phép: trong những vụ trầm
trọng hơn, cả giáo dân có bằng tiến sĩ giáo luật, cũng có thể thi hành vai trò
luật sư và ủy viên công tố, chứ không phải chỉ dành cho linh mục như cho đến
nay.
Hậu quả
của qui luật mới
Tóm
lại, với qui luật mới, những văn kiện, chứng từ liên quan đến những vụ tố giác
hoặc xét xử lạm dụng tính dục trẻ em, giữ trong văn khố của các cơ quan Tòa
Thánh hoặc các giáo phận, có thể được thông báo hoặc chia sẻ với các pháp quan
điều tra của những nước yêu cầu, và không phải giữ kín bí mật giáo hoàng như
cho đến nay. Đó là một dấu chỉ cởi mở, sẵn sàng, minh bạch và cộng tác với các
chính quyền dân dự để bài trừ nạn giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên.
Qui luật mới không hề đả động gì đến bí mật tòa giải tội là điều tuyệt đối vẫn
phải tuân giữ theo giáo luật hiện hành.
Con
đường cụ thể
Trong
trường hợp một nhà chức trách dân sự của một nước khác xin tham khảo hoặc thông
tin về các vụ lạm dụng vừa nói, họ phải đi qua đường ngoại giao. Và trong
trường hợp hồ sơ về những vụ lạm dụng giữ trong văn khố giáo phận, vị pháp quan
điều tra thỉnh cầu trực tiếp với giám mục giáo phận.
Các qui
luật mới trên đây không có nghĩa là các văn kiện hoặc thông tin về các vụ lạm
dụng sẽ trở thành một lãnh vực công cộng hoặc trở thành những điều được phổ
biến cho công chúng. Cần luôn luôn bảo vệ sự kín đáo đối với các nạn nhân và
các chứng nhân.