Đức Thánh cha Phanxicô tiếp kiến chung 7/10/2020 | Vatican
Media
Vietnamese.rvasia.org
- 07/10/2020 - G.
Trần Đức Anh, O.P.
Lúc quá 9 giờ, Đức Thánh cha đã tiến vào Đại thính đường
và chào thăm những người ở gần lối đi, gần lễ đài. Các tín hữu đều mang khẩu
trang.
Như thường lệ, buổi tiếp kiến mở đầu với phần lắng nghe
Chúa, với bài đọc ngắn bằng tám thứ tiếng, trích từ sách Các Vua quyển thứ I,
chương 19 (19,11-13), ghi lại lời Chúa nói với ngôn sứ Elia: “Hãy đi ra ngoài
và dừng lại trên núi, trước sự hiện diện của Chúa”. Và này đây Chúa đi qua. Có
một cơn gió mạnh mẽ như vũ bão đến độ làm núi lở đá rơi, nhưng Chúa không ở
trong gió. Sau gió đến động đất, nhưng Chúa không ở trong động đất. Sau động
đất là lửa, nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có một cơn gió nhẹ. Khi
nghe thấy, Elia lấy áo choàng che mặt, đi ra ngoài và dừng lại trước cửa hang
động”.
Huấn dụ của Đức Thánh cha
Trong phần huấn giáo tiếp đó, Đức Thánh cha nối lại bài về
sự cầu nguyện, mà ngài đã tạm ngưng khi bắt đầu đại dịch để trình bày một loạt
chín bài về việc chữa lành thế giới sau đại dịch.
Nay ngài trình bày về đề tài: Kinh nguyện của ngôn sứ
Elia. Đức Thánh cha nói:
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
“Hôm nay, chúng ta tiếp tục giáo lý về sự cầu nguyện, và
chúng ta gặp một trong những nhân vật hấp dẫn nhất trong toàn thể Kinh thánh,
đó là ngôn sứ Elia. Người vượt qua các biên cương thời ngài và chúng ta có thể
nhận thấy sự hiện diện của ngôn sứ cả trong một số giai thoại Tin mừng. Ngài
xuất hiện cạnh Chúa Giêsu, cùng với Môisê, trong lúc Chúa hiển dung (Xc Mt
17,3). Chính Chúa Giêsu cũng nhắc đến hình ảnh ngôn sứ để đề cao giá trị chứng
tá của Gioan Tẩy giả (Xc Mt 17,10-13).
Trong Kinh thánh, Elia xuất hiện bất ngờ, một cách huyền
nhiệm, xuất phát từ một làng nhỏ hoàn toàn ở ngoài lề (Xc 1 V 17,1); và sau
cùng, người ra khỏi hiện trường dưới mắt của môn đệ Eliseo, trên một chiếc xe
bằng lửa đưa ngôn sứ lên trời (Xc 2 V 2,11-12). Vì thế, ngôn sứ là một người
không có nguồn gốc chính xác, và nhất là không có cùng tận, được đưa lên trời;
do vậy, sự trở lại của người được chờ đợi trước khi Đấng Thiên Sai đến.
Kinh thánh trình bày cho chúng ta Elia như một người có
đức tin tinh tuyền: chính tên của người có thể có nghĩa là “Yahvê là Thiên
Chúa”, danh xưng ấy hàm chứa bí mật sứ mạng của người. Và suốt đời của ngôn sứ
như thế: một người rất thanh liêm, không thể chấp nhận những thỏa hiệp nhỏ
nhen. Biểu tượng của người là lửa, hình ảnh quyền năng thanh tẩy của Thiên
Chúa. Ngôn sứ là người đầu tiên chịu thử thách cam go mà vẫn trung thành. Đó là
mẫu gương của tất cả những người có đức tin, phải chịu những cám dỗ và đau khổ,
nhưng không thiếu sót đối với lý tưởng vì đó họ sinh ra.
Kinh nguyện là nhựa sống liên lỷ nuôi dưỡng cuộc sống của
Elia. Vì thế, người là một trong những nhân vật được kính mến nhất trong truyền
thống đan tu, đến độ một số người đã chọn người như cha linh hướng của cuộc đời
thánh hiến cho Thiên Chúa. Elia là người của Thiên Chúa, người đứng lên bênh
vực quyền tối thượng của Đấng Tối Cao. Thế mà cả người cũng phải đương đầu với
những yếu đuối của mình. Thật là khó nói đâu là kinh nghiệm hữu ích nhất đối
với người: việc đánh bại các ngôn sứ giả trên núi Camêlo (Xc 1 V 18,20-40) hay
là sự ngỡ ngàng, trong đó người thấy “mình không hơn các cha ông” (Xc 1 V
19,4). Trong tâm hồn của người, cầu nguyện, cảm thức về sự yếu đuối của mình
thì quí giá hơn những lúc được tuyên dương, khi mà cuộc sống dường như một loạt
những chiến thắng và thành công. Trong kinh nguyện luôn xảy ra điều này: những
lúc cầu nguyện mà chúng ta cảm thấy được kéo lên, đầy phấn khởi, và những lúc
cầu nguyện đau thương, khô khan, thử thách. Kinh nguyện là như thế: để cho mình
được Chúa mang đi và cũng để cho mình bị “đánh đòn” vì những hoàn cảnh xấu và
cả những cám dỗ nữa. Đó là một thực tại ta thấy trong bao nhiêu ơn gọi trong
Kinh thánh, và cả trong Tân ước, chúng ta nghĩ tới thánh Phêrô và Phaolô chẳng
hạn. Đời sống của các vị cũng có những lúc phấn khởi vui mừng, và những lúc
“xìu xuống”, đau khổ.
Elia là một người có đời sống chiêm niệm, và đồng thời, có
đời sống hoạt động, quan tâm đến những biến cố thời người, có khả năng lên
tiếng chống lại vua và hoàng hậu, sau khi họ giết chết Nabot để chiếm đoạt vườn
nho của ông ta (Xc 1 V 21,1-24). Qua đó, ngôn sứ tỏ cho chúng ta thấy không có sự
tách biệt trong cuộc sống của người cầu nguyện: người đứng trước mặt Chúa và
người đi gặp gỡ anh chị em mà Chúa sai đi gặp. Cầu nguyện không phải là khép
kín mình với Chúa để tô điểm tâm hồn, đó không phải là cầu nguyện. Cầu nguyện
là một cuộc trao đổi, kiểm điểm với Chúa và để cho mình được sai đi phục vụ anh
chị em. Điều kiểm chứng kinh nguyện là tình yêu cụ thể đối với tha nhân. Và
trái lại, các tín hữu hành động trong thế giới, sau khi đã cầu nguyện trong
thinh lặng; chẳng vậy hoạt động của họ chỉ là điều bốc đồng, thiếu phân định,
và là một cuộc chạy trốn miệt mài mà không có mục tiêu.
Trang Kinh thánh cho chúng ta dự đoán thấy rằng cả đức tin
của Elia cũng có một sự tiến triển; cả ngôn sứ cũng tăng trưởng trong kinh
nguyện, người dần dần làm cho kinh nguyện được tinh tuyền hơn. Nhan Thiên Chúa
trở nên rõ rệt hơn đối với người trong hành trình, cho đến khi đạt tới tột đỉnh
trong kinh nghiệm đặc biệt, khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho Elia trên núi Horeb
(Xc 1 V 9,9-13). Chúa không tỏ mình ra trong bão tố mạnh mẽ, không phải trong
động đất hoặc ngọn lửa thiêu hủy, nhưng trong “tiếng rì rầm của cơn gió nhẹ”
(v.12). Chính qua dấu chỉ khiêm tốn đó mà Thiên Chúa đả thông với Elia, lúc đó
đang là một ngôn sứ tị nạn, bị mất an bình. Thiên Chúa đến gặp một người mệt
mỏi, một người nghĩ mình đã thất bại về mọi mặt, và với cơn gió nhè nhẹ, Chúa
làm cho an bình trở lại trong tâm hồn ngôn sứ.”
Và Đức Thánh cha kết luận: “Đó chính là cuộc sống của Elia,
nhưng dường như được viết cho tất cả chúng ta. Có một buổi tối nào đó, chúng ta
có thể cảm thấy vô ích và lẻ loi. Và khi ấy, kinh nguyện đến và gõ cửa tâm hồn
chúng ta. Một mảnh áo khoác của Elia có thể đón nhận tất cả chúng ta. Và cho dù
chúng ta có sai lỗi điều gì, hoặc chúng ta cảm thấy bị đe dọa và sợ hãi, nhưng
khi trở lại với Thiên Chúa qua kinh nguyện, thì thanh thản và an bình sẽ trở
lại với chúng ta như một phép lạ.”
Sau bài giáo lý bằng tiếng Ý trên đây, tám linh mục thông
dịch viên lần lượt tóm tắt bài huấn giáo và những lời chào thăm của Đức Thánh
cha qua các sinh ngữ khác nhau: Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Arập,
Ba Lan.
Khi chào các tín hữu nói tiếng Đức, Đức Thánh cha đặc biệt
nhắc đến các thanh niên người Thụy Sĩ, khoảng 15 người, đang tham dự một tuần
tìm hiểu về đoàn Vệ binh Thụy Sĩ để có thể gia nhập sau đó, nếu muốn và Đức
Thánh cha cũng nói đến kinh Mân côi, như một kinh nguyện chiêm niệm. Đức Thánh
cha nói: “Khi suy niệm các mầu nhiệm cứu độ, chúng ta càng được thấy rõ khuôn
mặt yêu thương của chính Thiên Chúa mà chúng ta được kêu gọi chiêm ngưỡng đời
đời. Xin Mẹ là vị hướng dẫn chắc chắn cho chúng ta trên con đường đến cùng
Chúa.”
Khi chào các tín hữu Ba Lan, Đức Thánh cha cũng nhắc nhở
rằng: “Hôm nay chúng ta kính nhớ Đức Mẹ Mân côi. Trong những lần hiện ra, Đức
Mẹ thường nhắn nhủ hãy đọc kinh Mân côi, nhất là đứng trước những đe dọa sắp đổ
ập trên thế giới. Ngày nay cũng vậy, trong thời kỳ đại dịch này, cần phải cầm
trong tay xâu chuỗi Mân côi, cầu nguyện cho bản thân chúng ta, cho những người
thân yêu và cho mọi người. Tôi phó thác tất cả anh chị em cho Nữ Vương Mân Côi
và tôi thành tâm chúc lành cho anh chị em”.
Sau cùng, bằng tiếng Ý, Đức Thánh cha nói: “Hôm nay là lễ
Đức Mẹ Mân Côi. Tôi mời gọi tất cả anh chị em, đặc biệt trong tháng Mười này,
hãy tái khám phá vẻ đẹp của kinh Mân côi, qua bao thế kỷ kinh này đã nuôi dưỡng
đức tin của các tín hữu Kitô.”
Sau cùng, Đức Thánh cha nói: “như thường lệ, tôi nghĩ đến
những người già, người trẻ, các bệnh nhân và các đôi vợ chồng mới cưới. Tôi phó
thác anh chị em cho sự phù giúp hiền mẫu của Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Chúa Kitô
và là Mẹ chúng ta, để mỗi người có thể trở thành chứng nhân vui tươi về tình
thương của Chúa Kitô.”
Buổi tiếp kiến kết thúc với Kinh Lạy Cha và phép lành của
Đức Thánh cha.