MỘT
SUY TƯ THẦN HỌC VÀ TU ĐỨC VỀ ÂN SỦNG
“Không có gì tách được chúng ta ra khỏi
tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô” (Rm 8:38)
Dẫn
Nhập
Cộng Đoàn Kitô hữu tiên khởi đã cảm thức về ân
sủng như là “hồng ân” bao la và nhưng không của Thiên Chúa; hồng ân đó chứa
đựng tất cả mọi phúc lành khác và được mạc khải trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô (Rm
8:32). Vì Người là Thiên Chúa đã nhận lấy bản tính nhân loại và sống trọn kiếp
người, nên con người được nâng cao, được kết hợp với bản tính Thiên Chúa, và
nhờ đó được thánh hóa. Ân sủng dẫn đưa người tín hữu đến với Thiên Chúa như đến
với tình yêu của một Người Cha, làm cho họ trở nên thụ tạo mới, trở thành con
cái của Người và công dân Nước Trời (Rm 8:14-17). Do đó, sống trong ân sủng là
sống trong mầu nhiệm Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với Cộng Đoàn các Ngôi Vị
Thần Linh. Vì chính nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng là “ân sủng và chân lý” (Ga 1:17)
đã đến trong trần gian, nên con người được “tiền định” sinh ra trong một cuộc
sống mới (Ga 3:3-4); đó là cuộc sống làm con cái Thiên Chúa nhờ bởi Thần Khí
được ban tặng cho chúng ta (Rm 5:5). Quả thực, đời sống người Kitô hữu sinh ra
từ dòng suối ân sủng là một đời sống theo Thần Khí, vì “phàm ai được Thần Khí
Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8:14).
Trung thành với
truyền thống suy tư đó một cách sáng tạo, chúng ta có thể triển khai, nói về ân
sủng theo nhãn quan, cảnh giới thời đại, và cách thức cảm nhận trong cuộc đời
của chúng ta. Và như thế, khi tiếp cận với mầu nhiệm ân sủng như một kinh
nghiệm thiết thân nhất, chúng ta cố gắng thảo luận phần nào ý nghĩa của ân
sủng: Thế nào là ân sủng và tác động dạt dào của ân sủng? Sau đó, chúng ta sẽ
bày tỏ một vài suy nghĩ về ân sủng như là mối hiệp thông thân thuộc giữa Thiên
Chúa với con người, trong đó ân sủng qui chiếu đến bản chất tự do và hoàn toàn
nhưng không của một tình yêu vô điều kiện. Theo nghĩa này, ân sủng có liên hệ
đến toàn thể hiện hữu nhân linh trong đời người, thế giới và lịch sử; ân sủng
trở thành một biến cố “nhận biết” và là một “gặp gỡ” sống động, một ân tình.
Chúng ta sẽ kết luận với một cảm nghiệm khi mở lòng đón nhận và chìm sâu vào ân
sủng, vào nguồn tình yêu vĩnh hằng, nhờ đó chúng ta được biến đổi, có thể sống
những khoảnh khắc siêu việt và yêu mến những gì là chân thật, cao quý và thiện
hảo.
1.
Sự tuần hoàn của dòng máu: Thiên Chúa như là Trái Tim
Là thực thể sống động trong thế giới, con
người không ngủ yên với thân phận, vì năng lực tinh thần tự bên trong đã bao
lần thúc giục chúng ta đặt vấn đề căn bản về cùng đích của mọi thực tại. Tại
sao cứ phải tìm hiểu ý nghĩa cuộc đời một cách không cùng và tranh đấu hoài để
vươn lên mãi, để càng ngày càng trở nên người nhiều hơn? Thế nhưng, có nhiều
khi ý thức mình chỉ là những thực thể tương đối, chúng ta chờ đợi một sự hiệp
thông vô điều kiện và cởi mở lòng ra với Đấng là Thực Thể Tuyệt Đối. Trong mọi
sinh hoạt nhân linh, nỗi khát vọng sâu thẳm đó thuộc về cấu tố cơ bản của con
người và nói lên ý nghĩa cao thượng về cuộc sống. Nhưng trong ánh sáng của niềm
tin Kitô giáo, khát vọng đó khiến chúng ta là kẻ đi tìm chân tính và hạnh phúc
trong Thiên Chúa, vì Người là “Khởi Đầu” và “Cùng Đích” của mọi thực thể. Điều
này giải thích tại sao cuộc đời vẫn là câu hỏi của những câu hỏi, và chúng ta
không bao giờ thỏa mãn với mọi thành quả và mọi thứ đạt được trên trần gian,
cho dù dư đầy tiền của, tình cảm, công danh và lợi lộc. Tất cả những gì chúng
ta “sở hữu” trong thời gian chỉ như thoáng mây trôi trong bầu trời của đời
sống, chứ không thuộc về bản chất “hiện hữu”. Kinh nghiệm đó diễn tả cơn “đói
khát” phổ quát của con người về ý nghĩa và mục đích của đời sống siêu vượt trên
những thèm khát vật chất tức thời. Trong thân phận mong manh giới hạn, chúng ta
không thể hoàn toàn “thoả mãn” với chính mình, cũng như tìm thấy sự “hoàn tất”
cho chính đời mình. Chẳng có ai, chẳng có sự gì trên cuộc đời này có thể “giải
quyết” thoả đáng mọi nhu cầu nhân linh, đồng thời là “tất cả” cho chúng ta. Vì
vậy, chúng ta luôn luôn đặt vấn đề, phản tỉnh trên mọi vấn đề và có một cảm
thức trống vắng sâu lắng trong thâm tâm. Như từ trong “giấc mơ nguyên thuỷ” của
con người, chúng ta cần đến một “lẽ sống” vô biên, qui chiếu về một cùng đích
tối hậu.
Nếu đúng là cảnh
tượng tâm hồn chứa đầy những nỗi băn khoăn về cội rễ, thì chính ở đây ân sủng
khải mặc cho chúng ta biết con người là “hữu thể chưa trọn vẹn” hay “dở dang”
bao lâu còn hành hương trên đường trần. Chúng ta vì thế sống trong sự cởi mở
liên tục với Đấng Siêu Việt, Đấng được quan niệm như là “Quê Hương” và “Đất
Hứa” của mọi thực tại.[1] Thánh Augustinô đã mô tả nỗi khát vọng tối hậu này
một cách hiện thực và sâu sắc trong cuốn Tự Thú: “Tâm hồn con không hề an nghỉ
và băn khoăn xao xuyến cho đến khi được nghỉ an trong Chúa.”[2] Như thế, con
người tự thâm sâu vẫn luôn khát vọng hướng về Thiên Chúa, mang niềm mơ ước tìm
kiếm và gặp gỡ Người như là cứu cánh của đời mình.
Sự khắc khoải mãnh liệt đó là tính nhân văn
đặc thù của con người. Theo quan điểm của K. Rahner, vì tự căn bản là “siêu
việt”, là sự mở rộng tới chân trời vô tận, nên con người muốn vượt qua chính
mình và tất cả để hy vọng sống lấy tất cả. Chúng ta mong biết đường về cõi
sống, cố tìm đến miền đất hứa của nguồn bình an tuyệt đối.[3] Bởi vì được dựng
nên để sống cho yêu thương, chúng ta chẳng bao giờ có thể dập tắt được nỗi khát
mong được hội ngộ và kết hiệp với Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của mọi tình
yêu và sự sống vốn bùng lên từ đáy sâu tâm hồn. Vì thế, ân sủng tiên vàn là
kinh nghiệm sâu xa về một tình yêu dâng hiến, mở rộng, phát xuất từ Thiên Chúa,
tác động bởi Thiên Chúa, qui hướng về Thiên Chúa. Chính do sự dâng hiến này mà
ân sủng đi vào thế giới lịch sử, đưa lịch sử thế giới vào nhiệm cục cứu độ, mở
lối đi qua những sa mạc cô đơn của cuộc đời, giải thoát, khẳng định những mong
mỏi cơ bản và đích thực nhất của cõi lòng chúng ta.[4] Điều này cũng giống như
sự tuần hoàn chuyển lưu của dòng máu để nuôi sống toàn thân, mà Thiên Chúa được
ví như là một “Trái Tim” dạt dào ân sủng, đong đầy tình mến, không ngừng hoạt
động trong mỗi tâm hồn, hiện diện trong toàn thể lịch sử của nhân loại cũng như
của vũ trụ.
2.
Aân sủng như là sự Hiệp Thông Sống Động của Tình Yêu
Khi yêu nhau tha thiết, con người tự nhiên
muốn chia sẻ những gì chất chứa trong lòng với nhau. Tình yêu không bao giờ
“chiếm giữ,” nhưng luôn luôn biết “cho đi và đón nhận”. Chúng ta khát khao gặp
gỡ, tìm đến hiệp thông liên tục trên bình diện hiện hữu và trao ban cho nhau
tất cả những gì mình có và mình là. Khởi đi từ kinh nghiệm nhân linh ấy, có thể
nói, vì yếu tính của “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8) nên Người đến với
chúng ta trong sáng kiến riêng biệt của Người như nguồn Tình Yêu sung mãn tuôn
đổ vào lòng đời và chờ đợi tạo vật đáp ứng. Khái niệm ân sủng, theo lối suy
nghĩ của E. Schillebeeckx, là “chủ yếu hướng đến lời mời gọi bước vào sự hiệp
thông sống động và thân mật với Thiên Chúa”[5] Trong viễn tượng đó, ý nghĩa nền
tảng của ân sủng biểu thị một lối sống, một lẽ sống hay một cách thức hiện hữu
đặc biệt trong cấu trúc thông hiệp.
Chính nơi một tương giao chủ vị như thế mà con
người có thể cảm nghiệm được ơn cứu độ, được thánh hóa trong niềm vui và chìm
đắm vào nguồn phúc bất tận. Dĩ nhiên chúng ta chỉ có thể cảm nhận được ân sủng
khi ân sủng đến với chúng ta từ Thiên Chúa nhờ Đức Kitô trong Thần Khí, và cũng
nhờ Đức Kitô trong Thần Khí mà ân sủng dẫn đưa chúng ta đến với Thiên Chúa. Nói
cách khác, nếu lịch sử ân sủng là một tình sử bao hàm những ân huệ tuyệt vời
trong mọi hoạt động cứu độ và ban phát của Thiên Chúa Cha, là “Nguồn-Tình Yêu,”
nơi Đức Kitô, là “Tình Yêu Tự-Hiến,” và trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần,
là “Tình Yêu Thông-Truyền,” thì ân sủng là một khả năng âu yếm kỳ diệu trong
trái tim con người, thúc đẩy chúng ta vượt qua chính mình để hướng tới Thiên
Chúa, thao thức liên kết bản thân và gắn
bó với Người. Do đó, phát xuất từ Thiên Chúa là nguồn Tình Yêu, ân sủng không
cằn khô (1 Cor 15:10), nhưng sống động phong nhiêu và là nguyên lý biến đổi về
thân phận cũng như ý nghĩa làm người, khiến cho con người có thể cư ngụ trong
chân trời thực sự siêu việt. Nếu tự do đáp trả những thôi thúc của ân sủng,
chúng ta có thể trưởng thành trong đức tin, đức cậy, đức mến và trổ sinh những
hoa trái thánh thiện cho cuộc đời (Col 1:10). Theo nghĩa này, có thể nói, được
kêu gọi trong ân sủng (Gal 1:6), được tái tạo trong ân sủng (Rm 5: 2), và sinh
họat chuyển động trong bầu trời ân sủng (Rm 5:21; 6:14), đời người Kitô hữu là
một cuộc hành hương trong lòng mến, trong niềm “khát vọng một cuộc sống mai hậu
đã được in sâu trong lòng người” (GS #18)[6].
Chính trong kinh nghiệm “tin, yêu, hy vọng”
vượt trên những giới hạn của thế giới sự vật đó mà chúng ta có thể phát hiện
sức sống thiêng liêng ngay trong tâm hồn hay giữa cuộc đời khi biết kín múc và
ngụp lặn trong nguồn ân sủng. Dù làm người “bình thường” giữa muôn người trong
thân phận “giới hạn”, nhưng mỗi người, như mỗi thực thể cá biệt trong thế giới,
đều có tiềm năng “lạ thường” là mở lối cho tình yêu “vô điều kiện” của Thiên
Chúa bước vào và chạm đến. Trong ý nghĩa này, ân sủng là nguồn hoạt động không
hề cạn của một tình yêu không hề vơi, và chỉ có tình yêu tuyệt đối mới có thể
biến đổi chúng ta thành những con người mới, những con người đã cùng chết với
Đức Kitô và sống lại vinh hiển với Người. Chính Người đã đến như “hồng ân” tối
cao và khởi đầu mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta. Người đã sống, đãø chia sẻ
trọn vẹn kiếp người, đã trải qua cuộc hành trình “tự hủy” (Phi 2:6) vì tình yêu
cho thế giới của con người, để dẫn đưa con người của thế giới vào mối tương
quan sống động, tín thác và hy vọng nơi Thiên Chúa.
Khi ân sủng “ở trong” chúng ta và chúng ta “ở
trong” ân sủng như ở trong tình yêu thảo hiếu với Thiên Chúa, chúng ta mới có
thể tiếp hiện sự sống thần linh, mặc được những tâm tình từ bi nhân hậu của Đức
Kitô (Ph 1:8; Phm 20), và lòng thương xót vô biên của Người (Col 3:12; Eph
4:32). Bởi thế, tùy theo cách thức cụ thể, thái độ đón nhận ơn cứu độ nơi chúng
ta, mỗi cuộc đời đều mang dấu ấn thánh thiêng, mỗi con người đều có thể thăng
hoa từ những sinh hoạt tự nhiên, “hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới”
(Cl 3:2) nhờ được dự phần vào sự phong nhiêu của ân sủng. Do đó, ân sủng tự bản
chất là nguồn sức mạnh nâng đỡ, là động lực thúc đẩy chúng ta đổi mới cuộc
sống, mở rộng đời người ra với những chiều kích khác. Ân sủng trở thành cơ may
cho con người có thể thành đạt chính bản ngã như nhất của mình cùng với toàn
thể tạo vật trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
3.
Ân sủng được trao ban tự do và nhưng không
Vì ân sủng mang cấu trúc hiệp thông ân tình
với Thiên Chúa, trong bản chất đích thực của Người là Tình-Yêu vô điều kiện,
nên ân sủng được trao ban cho chúng ta như là tặng phẩm hoàn toàn tự do và nhưng
không (gratia Dei gratuita).[7] Chiều kích nhưng không của ân sủng là khởi đầu
sự tuyển chọn phát xuất từ lòng độ lượng của Thiên Chúa (Rm 11:5), đi trước mọi
ưng thuận của con người (Rm 1:5; Gal 1:15), vì “Thiên Chúa đã yêu thương chúng
ta trước” khi chúng ta vào đời (1 Ga 4:19). Tình yêu đó dẫn đưa chúng ta vào
nguồn mạch phong phú của ơn cứu độ (Gal 1:6; 2 Tim 1:9), thánh hiến chúng ta
trong sự thật, để sự thật giải phóng chúng ta, đưa chúng ta đến với tự do làm
con cái Thiên Chúa. Như thế, ân sủng là ân huệ nhưng không, chứ không phải là
ân thưởng mà con người được thừa hưởng
do công đức riêng của mình (Rm 4:4). Thiếu tự do thì ân sủng không còn là ân
sủng (Rm 11:6), đức tin mất hết ý nghĩa, tình yêu biến thành chiếm hữu lợi lộc
và hy vọng vào cứu cánh mai hậu chỉ là viễn ảnh hão huyền. “Quả vậy, chính do
ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em,
mà là một ân huệ của Thiên Chúa” (Eph 2:8). Từ chính cảm nghiệm sống của mình,
chúng ta có thể ý thức được tự do để mở cửa lòng ra với ân sủng, hoặc chối từ
ân sủng, chứ không thể đòi hỏi, khống chế, mua bán, mặc cả hay đổi chác ân sủng
theo não trạng của nền kinh tế thị trường. Hiện hữu trong ân sủng không phải là
hiện hữu “lập công” hay “phô diễn” thành tích, nhưng là hiện hữu “làm con” với
tất cả yêu thương và ý thức tương thuộc: “những gì của Cha đều là của con” và
“những gì của con đều phát xuất từ Cha” (Ga 17:10).
Nếu ân sủng được trao ban và đón nhận trong
cách thức đó, ân sủng sẽ củng cố, tăng cường tự do và khơi dậy nguồn hứng thú
say mê những điều thiện hảo, để chúng ta sống tự do trong quỹ đạo yêu thương,
thoát khỏi những hạn chế, những biên giới của bản thân, tự do nhìn ngắm thế
giới và mọi thực thể như là đối tượng được Thiên Chúa hằng quan tâm chiếu cố.
Nói khác đi, vì hành vi yêu thương chính là hành vi tự do nhất, nên ân sủng hội
tụ sự tự do chân chính bằng cách xua tan những lo sợ thầm kín, thôi thúc chúng
ta (sum) vượt qua chính bản thân mình (sur-sum) để thực hiện lịch sử đời mình
(esse) trong mối liên hệ thân tình mật thiết với Thiên Chúa và tha nhân
(co-esse). Như thế, hiệp thông trong ân sủng biểu hiện lý do hiện hữu của toàn
thể thụ tạo.[8] Nhờ ân sủng chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi và sự dữ để
tái sinh vào cuộc sống mới trong tự do, khai mở, bao dung và công chính.
Hơn nữa, khi thực sự đảm nhận tinh thần tự do,
đời sống thường của chúng ta là một dự án bao gồm những nỗ lực, những phấn đấu
đan quyện với nhau. Con người, do đó, có khả năng phác họa nên cuộc đời mình
trong ý lực sống tràn đầy sung mãn và trưởng thành khi dám chịu trách nhiệm về
đời mình cũng như đời người. Với ân sủng như nguồn ơn trợ lực thiêng liêng của
Thiên Chúa, chúng ta có thể sống trong tự do, và tự do cho phép chúng ta có cảm
thức toàn vẹn về những sáng kiến, những khả năng và ước muốn khuôn đúc nên cách
hiện diện, cách sống của người Kitô hữu hay hiện hữu Kitô.[9] Theo nhãn quan
của nhà thần học Plaskow, chúng ta “cần một học thuyết ân sủng giải quyết cái
tôi trong sự mất tự do, để rồi từ đó có thể soi sáng quá trình sống của cái tôi
ấy được hình thành trong trách nhiệm với chính mình, tha nhân và Thiên
Chúa.”[10] Trong sự hòa điệu đó, chức năng của ân sủng là bảo đảm tự do, phát
hiện thực chất của tự do trong mối liên hệ, không phải là “chủ với tớ,” nhưng
là “bạn hữu” thân tình với Thiên Chúa. Hay nói đúng hơn, tự do làm cho chúng ta
có thể dấn thân hợp tác với Thiên Chúa, hiện hữu trước mặt Người như con cái
trước mặt Cha mình (Rm 8:14-17; 1 Ga 3:1-2), nghĩa là được ơn tái sinh và tự do
bước vào sự hiệp thông với Thiên Chúa trong tâm tình hiểu biết và mến yêu. Như
sự chọn lựa cơ bản của Đức Giêsu: “Lương thực của tôi là thi hành ý muốn của
Đấng đã sai tôi, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4:34).
Trong suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa là
Đấng duy nhất tốt lành đã tìm mọi lối đường để kết thân với con người và dư đầy
ơn phúc để ban phát cho chúng ta. Người không phải là Đấng cạnh tranh chèn ép
hay cản trở tự do của con người. Qua cách diễn tả của Kinh Thánh, chúng ta có
thể hiểu được điều này, nhất là khi chiêm nghiệm trong ngữ cảnh tình yêu hơn là
dựa vào những lý giải của ngôn ngữ triết học. Vì tôn trọng tự do và hiện hữu
của con người, nên một cách nào đó Thiên Chúa đã muốn “tự giới hạn” quyền năng
vô biên của Người, hay “thu mình lại” để làm cho chúng ta hiện hữu và trở thành
người tự do (Lc 15:11-32). Là Thiên Chúa
của Lời Hứa, Người tuyệt đối trung thành với con đường tình yêu dù con người có
nhiều lần bội phản. Là Tình Yêu, Người luôn mời gọi và hy vọng “chờ mong” con
người đáp ứng. Người khao khát chúng ta trước khi chúng ta khao khát Người, và
chính sự khao khát của Người đã làm khơi dậy niềm khát khao bất tận nơi chúng
ta. Là Đấng Công Chính, nhưng Từ Bi Nhân Hậu, Thiên Chúa đã chấp nhận sự “liều
lĩnh” hay “may rủi” của tình yêu, nên Người không thi thố hay bảo vệ quyền uy
bằng cung cách hành xử đi ngược lại mầu nhiệm tự do của con người. Tự do chính
là danh xưng khác của một tình yêu chân thực và khiêm nhu. Tình yêu vô biên
nhưng khiêm hạ ấy, không bị “không gian và thời gian” giới hạn, đã làm cho
Thiên Chúa có thể chịu nhiều “đau khổ” từ nơi sâu thẳm của Người để thông ban
chính mình cho tạo vật một cách “điên rồ” mà lý trí con người không thể thấu
hiểu được (1 Cor 1:18-25). Thiên Chúa đã “hạ mình” xuống để nâng hiện hữu con
người lên.
Trong Tân Ước, chúng ta cũng có thể chiêm ngắm
thái độ tiêu biểu của Đức Maria vào ngày Truyền Tin để tìm thấy được sự hài hòa
giữa ân sủng và tự do. Lời đáp trả “Fiat” của Người tuy đơn sơ, nhưng là một
hành vi chủ vị, hàm chứa một quyết định lịch sử, thuận tình lắng nghe, sẵn sàng
cộng tác với sáng kiến của Thiên Chúa, theo kế hoạch “lạ thường” của Thần Khí,
với tất cả lòng thành và ý chí tự do (Lk 1:26-38). Đây là mầu nhiệm Thiên Chúa
toàn năng, vô biên, thông biết mọi sự, nhưng cũng là Tình Yêu biết quan tâm,
quan phòng, uyển chuyển và quán xuyến mọi sự trước những tình huống cũ thể của
nhân loại. Ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa vì vậy không hề xóa bỏ hay đụng chạm
đến tự do của tạo vật, nhưng tôn trọng chờ đợi một ngày nào đó trái tim của
chúng ta hoàn toàn hướng về Người. Trong ý nghĩa đó, ân sủng là sự gặp gỡ của
hai tự do: Thiên Chúa tự do yêu thương con người và con người được tự do đáp
trả tình yêu Thiên Chúa. Như thế, nhờ kết hiệp với ân sủng Thiên Chúa mà cuộc
đời con người được thành tựu sung mãn. Càng phối hợp với ân sủng một cách sáng tạo
bao nhiêu, tự do và phẩm gía nhân loại của chúng ta càng được nâng cao, Thiên
Chúa càng được tôn vinh. Và chính vì yêu thương con người trong tự do tuyệt đối
như thế mà Thiên Chúa đã tạo dựng muôn loài, làm nên lịch sử cứu độ, hiện diện
trong ân sủng thánh hoá, để dẫn đưa tất cả vào nguồn tình yêu thông hiệp với
Người.
4.
Aân sủng và chiều kích “vượt qua” trong đời người
Được sống trong bầu trời của ân sủng, chúng ta
nghiệm thấy rằng mọi sự trong thế giới vô thường này, trong những vui buồn
sướng khổ hay bất trắc của đời người đều có thể là cơ may hay yếu tố làm cho ân
sủng tỏ lộ. Như mặt trăng, thực chất chỉ là một vệ tinh khô cằn, một khối đá
khổng lồ tăm tối trong thinh không, nhưng nhờ tiếp thu và phản chiếu ánh sáng
mặt trời, nên có thể xuất hiện như một vầng hào quang giữa muôn ngàn tinh tú
khi màn đêm buông xuống. Chúng ta chỉ tìm được gía trị trọn vẹn và trở về với
hiện hữu chân thực khi đối chiếu với cùng đích tối hậu là Thiên Chúa. Giá trị
và vẻ đẹp đó chính là ánh sáng của ân sủng hiện lên trong đời chúng ta. Vì
Thiên Chúa “là nền tảng và nội dung, là nguồn gốc của sự siêu việt nơi chúng
ta”.[11] Quả thực, nhờ ân sủng con người tồn tại, không chỉ đơn thuần là hữu
thể trong thời gian, trong thế giới, nhưng còn có ý thức “dự phóng”, triển nở và
thể hiện chính mình như là hình ảnh của Thiên Chúa (imago Dei) khát vọng mở ra
cho Thiên Chúa (capax Dei), để rồi cuối cùng đạt đến sự viên mãn cánh chung của
con người (ultimus finis hominis) trong viễn cảnh lịch sử cứu độ.
Chúng ta một lần
được sinh ra làm người, đón nhận hiện hữu như một quà tặng, nhưng bao lâu còn ở
nơi trần gian, bấy lâu còn sống giữa trông chờ và hy vọng. Dù đã được giải
thoát trong nguồn ơn cứu độ nhờ sự chết và phục sinh của Đức Kitô, nhưng chúng
ta vẫn còn “mang nơi thân mình cuộc Thương Khó của Người” (2 Cor 4:10). Chúng
ta ôm ấp niềm hy vọng hồng phúc vào ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang cho con
cái Người (Rm 8:19-21), nhưng hiện tại lại phải gánh vác bao nhiêu nỗi đau
thương thử thách của kiếp sống. Vì thế, chúng ta có thể diễn tả kinh nghiệm về
ân sủng trong các “nghịch lý” cuộc đời, nhất là trong bối cảnh mầu nhiệm Vượt
Qua của Đức Kitô, cũng là mầu nhiệm của mỗi hữu thể tại thế.
Có nhiều khi chúng ta thấy cuộc đời vắn vỏi và
choáng váng vì những lo âu, nhưng cuộc đời cũng là một huyền nhiệm bao gồm
nhiều sắc thái, phức tạp và phong phú khôn lường. Biết bao lần có thể cảm
nghiệm được những thời điểm của ân sủng, những khoảnh khắc vô tận, chẳng hạn
khi chúng ta lắng nghe được tiếng mời gọi thực thi tự do như lời thôi thúc sống
vươn lên và trở về với hiện hữu chân thực. Chúng ta cố gắng bươn chải qua mọi
tình huống và không muốn phó mặc cho số phận hay đổ lỗi cho thân phận, để rồi
uổng phí cả một đời mình. Lúc đó, chúng ta cảm thấy hiện hữu có ý nghĩa và can
đảm đối diện với cuộc đời đầy sóng gió để nói tiếng “xin vâng”. Chính khi chấp
nhận thân phận là lúc chúng ta sống mầu nhiệm “nhập thể” và “nhập thế” của con
người hơn nữa. Đồng thời, đây cũng là lúc chúng ta có thể tiếp cận với chiều
kích siêu việt của niềm hy vọng khi sẵn lòng nhận lãnh trách nhiệm về những
chọn lựa của mình, khai mở một lối đi, xác định cho mình một thái độ sống và
một cách cư xử mới trong cuộc đời.
Thế nhưng, có những lần thấm thía sự cô đơn
cùng cực, chúng ta ý thức mình chỉ là những hữu thể mỏng manh, mang thân phận
yếu đuối, bé nhỏ trước sức mạnh huyền bí của vũ trụ. Từ thâm tâm chúng ta cảm
thụ rõ hơn về tính hữu hạn khi giáp mặt với mọi nghịch cảnh và những thảm kịch
trong thế giới khả giác. Kinh nghiệm chủ vị trong những cơn thử thách đó có thể
đưa chúng ta vào sâu trong kinh nghiệm hiện sinh về con đường Thập giá của Đức
Kitô. Có khi chúng ta chỉ biết im lặng trước những hoàn cảnh cùng tột: yếu đau,
bệnh tật, chết chóc, chiến tranh, tội lỗi và sự dữ tràn lan trên thế giới.
Trong những hoàn cảnh ấy, câu hỏi: “Tại sao phải như thế?” và “Còn bao lâu nữa,
lạy Chúa?” chất chứa trong các Thánh Vịnh than vãn vẫn còn là những vấn đề
thách đố hiện hữu và vượt xa mọi lý giải triết học. Có nhiều khi phải mang nặng
gánh đau thương, nhất là lúc cảm thấy như bị xô xuống lòng vực thẳm, chúng ta
đã phải thôát lên lời của Đức Giêsu trước giờ tử nạn: “Lạy Thiên Chúa, lạy
Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46). Cuộc đời chẳng còn ai,
chẳng có gì có thể giải thoát chúng ta nữa. Vì thế, có nhiều người ra đặt vấn
đề: Có Chúa và có ơn Chúa hay không? Và nếu có thì tại sao đời người thật là
phi lý, vô nghĩa, bất công vì những mâu thuẫn ngược lại với ước mơ tốt đẹp tự
nhiên mà con người hằng khao khát.
Tuy nhiên, trong kinh nghiệm sống ở đời, chúng
ta không thể chỉ giới hạn tầm nhìn vào những điều xem ra rất “hợp lý”, và không
phải cứ hợp lý là hoàn toàn đúng và không hợp lý là hoàn toàn sai. Chúng ta còn
có thể nghiệm thấy rằng thực tại cũng có tính “nghịch lý”, nếu được nhìn và
minh giải dưới ánh sáng của niềm tin. Có khi rơi vào những khoảng trời hữu hạn,
mà con người được đánh thức và ngộ ra: đời vẫn còn một “lẽ sống” trong chân
trời vô hạn, cao vời hơn những gì con người có thể thực hiện được trong tầm
tay. Có khi bị chất vấn như thế, chúng ta mới hiểu được thế nào là tự do và cởi
bỏ được những thành kiến cố hữu, những quan niệm sai lầm hay phiếm diện về
Thiên Chúa, con người và thế giới, để rồi từ đó cảm nghiệm được một niềm tin
thích đáng và chủ vị hơn từ trong thân phận, trước mọi thách thức giữa cuộc đời.
Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ, mến yêu và chúc tụng là một Ngôi Vị sống động,
là nguyên lý và cùng đích vạn vật, chứ không phải là một ý niệm trừu tượng, một
thần tượng mơ hồ phi chủ vị. Chính Người là Đấng không những đã sáng tạo vũ trụ
này, đã tự mạc khải chính mình trong lịch sử vĩnh cửu của tình yêu mà còn tìm
mọi lối đường để đối thoại và cứu độ con người. Vì thế, lẽ sống của niềm tin
không phải chỉ là dựa trên một giáo thuyết, một hệ thống luân lý, nhưng tin
(Credere) tiên vàn là một tương quan thân thiết, một chọn lựa trao tặng tấm
lòng mình (Cordare) vào Đấng là Sự Sống, là Thiên Chúa yêu thương và thành tín,
một Thiên Chúa là cho chúng ta.
Nếu sống bằng
niềm tin với tất cả thân tâm như một kinh nghiệm mãnh liệt về tình yêu với Đấng đã đưa chúng ta vào sâu trong diễn
tiến lịch sử, chúng ta có thể kiên tâm gánh chịu qua những đêm tối hoài nghi,
giữa mọi cám dỗ tuyệt vọng để vùng đứng lên khi “Vầng Đông tự chốn cao vời đến
viếng thăm chúng ta” (Lk 1:78 -79). Vì thế, những lời của Đức Giêsu trong chính
“giờ” của Người: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha,” là tiếng
nói cuối cùng của kinh nghiệm về sự giới hạn của thân xác cũng như về sự giới
hạn trong tâm hồn để làm sáng tỏ bí ẩn về đau khổ, cái chết và sự sống. Do đó,
ân sủng không cất đi tính bi đát cũng như mộng tưởng của cuộc đời, nhưng có thể
mở cho chúng ta cơ hội để hiểu biết, sống, và khám phá ra ý nghĩa sâu xa hơn
của niềm tín thác trước mọi tình huống giới hạn mà chúng ta phải đối diện trong
đời. Về kinh nghiệm bi thương khốn cùng của kiếp người như một kinh nghiệm mở
ra với ân sủng, D. Bonhoeffer có lần viết: “Chúa yêu ai, thì Người đẩy người ấy
vào cõi chết.” Bởi vì chính khi đối diện với cái chết mà chúng ta ý thức rõ hơn
về thân phận cát bụi cũng như khát vọng về một cuộc sống vĩnh cửu đã được in
sâu trong lòng. Chúng ta không thể sống trọn vẹn lịch sử đời mình nếu không can
đảm vật lộn với đau khổ và trực diện với cái chết. Nói cho cùng, nếu không từng
trải nghiệm đau khổ và thử thách, làm sao có thể hiểu được ý nghĩa của niềm hy
vọng Kitô giáo là niềm hy vọng vượt trên mọi hy vọng khác nơi con người và lịch
sử. Tư tưởng của M. Luthêrô có thể diễn nghĩa điều này: “Nếu Chúa muốn làm cho
chúng ta sống, Người giết chết chúng ta. Chính khi dẫn chúng ta đến thung lũng
tối tăm hiểm nguy mà Người ban xuống trên chúng ta nguồn ánh sáng của Người.”
Aùnh sáng đó là gì nếu đó không phải là ánh sáng của nguồn ân sủng, trợ giúp
chúng ta không ngừng giáp mặt với sự chết trong mọi chiều kích, mọi thực tế
cuộc đời, và tạo điều kiện cho việc tái sinh. Nói cách khác, Thiên Chúa thánh
hoá, thanh luyện chúng ta trong mọi gian khổ để chúng ta được ân sủng đổi mới,
được thông dự vào sự sống với Người, hoàn toàn thuộc về Người, và không còn một
ước mơ hay bám víu gỉa tạo nào khác ngoài tình yêu của Người. Tất cả chỉ còn
lại một niềm cậy tin duy nhất tuyệt đối vào một mình Thiên Chúa, Đấng ban lời
hứa và tình yêu, như lời Thánh Vịnh:“Dầu cha mẹ có bỏ rơi con đi nữa, thì hãy
còn có Chúa đón nhận con” (Tv 27: 10).
Ở đây, kinh nghiệm về ân sủng cũng là kinh
nghiệm về tình yêu: chính tình yêu làm cho chúng ta biết đau khổ và cũng nhờ
đau khổ mà chúng ta mới biết tình yêu. Trong tình yêu chúng ta không còn sống
cho riêng mình, với những chờ đợi đơn lẻ hay thoả mãn nhất thời, nhưng chấp
nhận tiến trình “chết đi” và “hiến dâng” chính mình, ngõ hầu có thể mở lòng đón
nhận một cách thức hiện hữu mới trong tình yêu. Như vậy, kinh nghiệm về ân sủng
không phải là kinh nghiệm về sự khuất phục của lý trí cho bằng là kinh nghiệm
về sự gặp gỡ ánh sáng huyền nhiệm xuyên qua những đám mây mù, những nỗi thống
khổ âu lo, để hướng lòng chúng ta về một thực tại “hoàn toàn khác,” siêu vượt
trên những điều kiện của thế giới sự vật ấy. Như Phaolô đã minh nhiên biểu lộ
kinh nghiệm đó: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ
trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cor 12:9). Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể
“cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt
nghèo” vì khi “yếu chính là lúc mà chúng ta mạnh” (2 Cor 12:9), bởi vì Thiên Chúa,
với muôn ơn lành ban xuống cho lòng chúng ta, được tỏ lộ như là “Đấng đã làm
cho kẻ chết được sống và khiến những gì không thành có” (Rm 4:17).[12]
Qua mọi thăng trầm của cuộc sống, Người đưa
chúng ta vào chiều sâu của hiện hữu, chiều cao của niềm tin, chiều dài của hy
vọng, chiều rộng của tình yêu, để đạt đến sự khôn ngoan của tâm hồn. Sống trong
ân sủng, do đó, cũng đồng nghĩa với việc trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức
Kitô, cùng chịu đóng đinh, cùng chia sẻ sự phục sinh với Người. Nếu như biến cố
phục sinh là nụ cười chiến thắng của tình yêu thần thánh trên hết mọi thất bại,
cô đơn, buồn phiền của Thập gía, thì kinh nghiệm về ân sủng cũng là kinh nghiệm
về nguồn mạch hoan lạc bình an trong Đức Kitô vinh hiển. Đó là niềm vui vừa sâu
thẳm vừa đơn sơ chân thành trước mọi cảnh đời. Niềm vui ấy đưa bước chúng ta
vào bình minh của “Mùa Phục sinh” để dự phần vào toàn bộ công cuộc giải thoát
của Thiên Chúa. Như thư Ephêsô diễn tả:
Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân
giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Ki-tô, Người
đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên
tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái
của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để ta
hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử
yêu dấu… Ân sủng này, Thiên Chúa đã rộng
ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu. Người cho ta được biết
thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ
trước trong Đức Ki-tô” (Eph 1:3-10).
Hiểu như thế, không phải ngẫu nhiên hay tình
cờ mà chúng ta xuất hiện. Chính tình yêu của Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta vào
hiện hữu để được tự do chia sẻ sức sống vô biên của Người.[13] “Thiên Chúa đã
tuôn đổ tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”
(Rm 5: 5). Trong cảnh ngữ đó, như Thánh Âugustinô quan niệm, ân sủng là ơn “soi
sáng của Thiên Chúa” chiếu toả nội tâm,[14] giúp cho con người tìm ra ý nghĩa
về tất cả, hạnh phúc lẫn thương đau, cuộc sống lẫn cái chết. Ân sủng tỏ lộ cho
chúng ta biết rằng “vì sao” chúng ta sống và đến trong cuộc đời, để rồi cuộc
đời có “ra sao” đi nữa chúng ta cũng có thể chịu đựng trong yêu thương hài hòa.
Như thế, nhìn ân sủng từ góc cạnh của mầu nhiệm tình yêu là nhìn từ lăng kính
của một “lẽ sống” tuyệt đối cho đời
chúng ta, đó là vì tình yêu “tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả,
và chịu đựng tất cả” (1 Cor 13:7). Chúng ta sẵn lòng tiếp nhận hay chính thức
khước từ ân sủng được thông ban từ tình yêu tự hiến của Thiên Chúa. Nhưng không
ai có thể xóa bỏ được hiện hữu, điều khiển hay khống chế được ảnh hưởng của
tình yêu thần thánh đó đã đổ xuống trên mọi tạo vật như cơn mưa vào mùa.
5.
Aân sủng trong Thế giới và Lịch sử
Ân sủng vì thế đã mở ra khả thể cho nhịp điệu
thăng tiến tự nhiên của đời sống con người (nhân hóa) tan hoà vào nhịp vận hành
của siêu nhiên (thần hóa). Thế nhưng vận hành siêu nhiên không phải là một chu
trình vạn thuở khép kín, làm cho nhân tính tan biến vào một dòng sông siêu việt
“không tên” của thần tính. Ân sủng là cả một “biến cố” hiệp nhất tạo nên sự
sống và tình yêu trong mối tình tương tri, tương tại giữa Thiên Chúa và con
người. Giáo phụ Irênê cũng đã từng viết: Đức Kitô “đã trở thành điều chúng ta
là, để Người có thể làm cho chúng ta thành điều mà chính Người là.”[15] Ngay cả
Giáo phụ Athanasiô cũng xác tín rằng: “Vì Người đã làm con người để con người
chúng ta được trở nên con Chúa.”[16] Quả thật ân sủng không những định hướng
cho cuộc sống mà còn làm thay đổi cuộc sống của chúng ta cách toàn diện và
triệt để theo với ý nghĩa của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu sáng tạo cho
thế giới thành hình, một tình yêu cứu độ khi con người sa ngã, một tình yêu xót
thương cho những mảnh đời bất hạnh, một tình yêu thánh hóa cho toàn thể vũ trụ
hồi sinh.
Thánh Tôma Aquinô tiếp nối tư tưởng truyền
thống của các Giáo Phụ khi bàn luận về ân sủng như “năng lực siêu nhiên nội
tại” của Thần Khí, trong đó con người được nâng cao giữa mọi công trình sáng
tạo, được thánh hóa để yêu thương, để trở thành đại lượng và đến phiên mình có
thể tự chủ thi hành việc chia sẻ ân phúc cho trần gian (1 Ga 3:16).[17] Đó là ý
nghĩa phong nhiêu của ân sủng, mà Rahner nhận định: “ân sủng được trao ban và
biểu lộ... tự nguồn gốc trong kinh nghiệm siêu việt của chúng ta, như điều kiện
và khoảnh khắc của mọi hoạt động hướng về thế giới hiện đại mà chúng ta đang
sống.”[18] Vì thế, khi được ân sủng bồi dưỡng, chúng ta được lôi kéo vào hành
động tự hiến của Thiên Chúa (1 Ga 3:16), và từ đó mới có thể nói đến sự xả thân
vô vị lợi, nói đến khả năng thể hiện ân sủng trong một thế giới còn đói khát
tình yêu vượt trên mọi hận thù.
Theo nghĩa này, không ai có thể lãnh nhận ân
sủng để rồi chiếm giữ như một quà tặng cho riêng mình, nhưng chỉ có thể đón
nhận để sinh hoa kết quả, tạo nên cảnh tượng “thiện hạnh” trong trần thế (Ga
15:4-5; 15:8; Mt 25:15-30; Lk 13:7). Nói đúng hơn, chúng ta chỉ là những người
“quản lý” được mời gọi và giao phó các ân thiêng của Thiên Chúa để phục vụ tha
nhân, đem sứ điệp Tin Mừng về cứu độ, tự do, giải thoát đến cho mọi người. Như
dòng sông hiền hoà tuôn chảy cho bao nhiêu thung lũng xanh tươi, bao nhiêu cánh
đồng lúa chín, ân sủng như một mầu nhiệm chỉ có thể được đón nhận trong quá
trình ban tặng ở cõi đời, và điều đó làm thay đổi cuộc sống của chúng ta. Nếu
niêm phong dấu kín chỉ vì lợi ích cá nhân, ân sủng sẽ như tình yêu chết trong
tàn tạ và cằn cỗi. Chính khi biết cho đi, biết yêu thương dâng hiến, biết sống
công chính rộng mở mà chúng ta cảm nghiệm được thế nào là ban phát, thế nào là
nhận lãnh, là niềm vui đích thực, và thế nào là ân sủng.
Tấm lòng đại lượng của Đức Kitô mà Phaolô đã
cảm thức là chiều kích căn bản của ân sủng: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng
đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh
em trở nên giầu có” (2 Cor 8: 9). Từ tinh thần ấy, các biểu lộ của ân sủng trở
nên rõ ràng, cụ thể hơn khi chúng ta nỗ lực phát huy các tài năng về mọi phương
diện để làm vinh danh Thiên Chúa và phục vụ con người trong thế giới (Mt
5:13-16; Ga 17:4). Như Phaolô đã hết lòng nhắn nhủ các tín hữu trong Cộng Đoàn
Côrintô:
Đấng cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh
làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ
làm cho đức công chính của anh em sinh hoa kết quả dồi dào. Anh em sẽ được sung
túc mọi bề để làm mọi việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ
khiến người ta dâng lời cảm tạ Thiên Chúa. Thật thế, việc phục vụ cho công ích
này … là nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa … là một bằng cớ
cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và tuyên xưng Tin Mừng của
Đức Kitô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn sàng chia sẻ với họ và với
mọi người … bởi nhận thấy ân huệ tuyệt vời Thiên Chúa đổ xuống trên anh em. Xin
cảm tạ Thiên Chúa vì phúc lộc khôn tả Người ban (2 Cor 9: 6-15).
Cứ như thế, cuộc
đời tiếp tục phúc lộc tình yêu, để rồi tình yêu trở nên “phổ quát” làm cho thế
giới được sống và triển nở. Hơn nữa, khi
nhìn lịch sử thế giới trong viễn tượng của lịch sử cứu độ, vì vĩnh cửu đã đi
vào dòng thời gian, Ngôi Lời Thần Linh “đầy ân sủng” đã trở nên người phàm để
đồng hành với nhân loại, chúng ta thấy rõ ân sủng siêu nhiên không thể tách
biệt khỏi con người và cuộc sống tự nhiên. Không có tình huống nào của thế
giới, nhất là trong tình huống đó, có nhiều con người đang quằn quại vì đói ăn
thiếu mặc, vật vã với chà đạp, nô lệ, áp bức, bóc lột, khước từ và khinh chê,
mà chúng ta lại có thể vô tâm hững hờ. Như thế dự phần vào ân sủng hay đáp ứng
với tác động của ân sủng là đi vào sự hiệp nhất của một tình yêu khai mở và tạo
nên sự sống (1 Cor 3:10; Gal 2:8; Col 1:10; Eph 2:10). Chính trong sự hiệp nhất
đó, Thiên Chúa và con người sống cho tình yêu, nên tình yêu không chỉ có ý
nghĩa “co cụm” trong hoạt động “cho và nhận” giữa Thiên Chúa với từng cá nhân,
mà còn mang chiều kích xã hội, là trở thành suối nguồn ân phúc lan rộng đến mọi
chân trời của thế giới. Hơn nữa, ơn cứu độ được ban cho nhân loại “bây giờ và ở
đây”, nghĩa là mang tính chất hiện sinh, vì thế phát sinh ra tình yêu như động
lực thúc đẩy chúng ta dấn thân vì ích lợi chung (1 Cor 12:7), góp phần thực
hiện yêu thương, công lý và hoà bình. Hiện hữu trong ân sủng vì thế là sống
trong ý thức trách nhiệm đối với thế giới lịch sử và thời đại như “tình yêu
kiểu mẫu của người Samaritanô nhân hậu,” không chỉ biểu lộ trong tình cảm rung
động xót thương mà con trong hành động nữa. (Lc 10:33; Col 3:12; Eph 4:42; 1
Pet 3:8).
Với đức tin trưởng thành trong mọi hoạt động
của đức mến (Gal 5:6), chúng ta nhận biết một Thiên Chúa đã đi bước đầu trong
sáng kiến ban tặng ân sủng của Người, và chúng ta đáp ứng trong niềm tin vâng
phục. Vấn đề chính yếu ở đây không phải là tin và đón nhận trong thái độ thụ
động, nhưng là tin và đón nhận trong tinh thần sáng tạo, để làm sao cho sáng
kiến của Thiên Chúa trở thành sáng kiến của con người, để ân sủng trở thành
nhịp cầu đưa lịch sử Thiên Chúa vào lịch sử nhân loại, và đưa lịch sử trần thế
vào lịch sử cứu độ. Tuy có nhiều ân huệ hay đặc sủng khác nhau trong đời sống,
nhưng tất cả đều tham dự vào một Thần Khí, tất cả đều mở rộng ra cho công việc
thánh hóa của Người nơi trần gian. Phaolô hiểu và xác tín điều đó: “Vì được
cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận các
ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu,” vì “đây là thời Thiên Chúa
thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cor 6:12). Như thế ân sủng vừa là lời
diễm phúc của Thiên Chúa nói với con người trong lịch sử, vừa là tiếng xin vâng
cộng tác của con người thưa lên cùng Thiên Chúa. Tất cả lịch sử của từng con
người cũng như của toàn thể nhân loại đều có thể được nhìn và suy niệm trong
chân trời ý nghĩa của lòng tin, lòng mến và niềm hy vọng cánh chung, vì tất cả
vũ trụ sẽ được giải thoát khỏi cảnh nô lệ hư nát mà “cùng với con cái Thiên
Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8: 20-21).
6.
Kết luận: một cảm nghiệm về Aân sủng
Viễn tượng thần học tu đức này vừa giúp cho
chúng ta có một lối nhìn rộng rãi và sâu xa hơn về hoạt động của ân sủng trong
đời người, thế giới và lịch sử, vừa mời gọi một thái độ chân tình đón nhận hiện
hữu và nhiệt tình sống tự do trong tinh thần liên đới, trách nhiệm đối với tha
nhân cũng như với toàn thể tạo vật. Theo như Brian Dermott nhận định thì khi
con người “biết chấp nhận chính mình, biết đón nhận Thiên Chúa và anh em đồng
loại, đó cũng là cách thế nhận lãnh ân sủng, là khởi điểm cho một tiến trình mà
tình yêu Thiên Chúa cuốn hút, dẫn đưa con người ra khỏi tình trạng cô đơn do
tội lỗi để đi vào mối tương quan chân thật”.[19] Hơn nữa, nếu Thiên Chúa muốn mọi người được
cứu độ và đi đến hiểu biết chân lý (1 Tm 2:4), thì Người vẫn luôn mở rộng tấm
lòng để tuôn tràn muôn ân phúc cho trần gian (2 Cor 4:15; 9:4; 1 Cor 1:7; Eph
1:7; 2:7). Tình yêu Thiên Chúa không phân biệt hay loại trừ con người, nhưng
chỉ có con người phân biệt, đáp ứng hay từ khước tình yêu Thiên Chúa, vì “Đức
Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người là duy nhất”
(GS # 22).[20] Và như thế, ân sủng đã được ban xuống cho mọi thụ tạo, trong đó
Thiên Chúa tự hiến và tự thông truyền chính Người như ân huệ “thần hóa”
(theopoièsis) trong Đức Kitô (Rm 8:32), để “đưa thời gian tới hồi viên mãn”
(Eph 1:10), là đưa tất cả chúng ta cũng như toàn thể vũ trụ vật chất vào vận
mệnh vinh quang, vào cõi phúc bất diệt.
Như đã nói trên,
Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô là khuôn mẫu toàn diện cho sự hiểu biết về hiện
hữu Kitô giáo, để từ đó chúng ta có thể vừa đặt câu hỏi, vừa giải thích về ý
nghĩa sâu xa của ân sủng. Ngay trong ý thức tự nhiên muốn sống cho ra lẽ sống,
muốn làm người cho ra chất người trong toàn diện cuộc sống, chúng ta có thể
khám phá và cảm thức nơi bản thân mình một khát vọng “vượt qua” đến với nguồn
mạch của hữu thể, đến với ý nghĩa tròn đầy của hiện hữu.[21] Cho dù nhìn thấy
gì trong lịch sử loài người, trong xã hội hôm qua cũng như hôm nay, hay phải
đối mặt với những biến cố xảy ra hằng ngày trên thế giới: những thành công,
những vất vả nhọc nhằn, những thất bại, những tiêu cực yếu đuối, khổ đau, chết
chóc và tội lỗi, thậm chí là vô nghĩa, chúng ta cũng thực sự đang sống trong
môi trường được “bao bọc” bởi ân sủng của Thiên Chúa. Từ một cảm thức rất tự
nhiên, cuộc sống chung quanh ta đầy những huyền nhiệm như “trong đầm gì đẹp
bằng sen”, tươi nở ngay trên bùn đen xình lầy, hay như hạt lúa gieo vào lòng
đất, có trải qua quá trình “chết đi” trong bóng tối mới có thể “nẩy sinh” nhiều
bông lúa mới cho cánh đồng phì nhiêu (Ga 12:24). Nhìn thấy nhiều, nhưng trong
mọi thử thách của đời sống, trong thân phận mỏng dòn hay những hoàn cảnh giới
hạn, tất cả đều có thể trở thành “dấu hiệu” của ân sủng mời gọi chúng ta đọc ra
ý nghĩa của một tình yêu vô điều kiện. Lời của Gióp đã đẩy bi kịch niềm tin này
đến chỗ tột cùng: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại
không biết đón nhận sao?” (Job 2:10).
Như thế, tất cả hiện hữu nhân linh đã hàm ẩn
sự chuyển động “vượt qua” chính mình để “khai mở” ra với chân trời siêu việt
đó. Tất cả cùng đi tìm về một cõi như “lá rụng về cội, như nước chảy về nguồn,
như máu chảy về tim”. Trong ý nghĩa đó, sự sống vẫn “tự nhiên” hơn sự chết, sự
thiện vẫn “vượt trên” sự dữ, và tình yêu vẫn “tồn tại” đến muôn đời. Thập gía
Đức Kitô là biểu hiệu độc nhất và khẳng định của một tình yêu vượt qua mọi đau
thương, để cứu độ chúng ta, “để chúng ta được tự do mà Người đã giải thoát
chúng ta” (Gal 5:1). Tội lỗi và sự dữ đã đóng đinh Người trên thập gía, nhưng
nhờ Người chấp nhận bị treo lên giữa trời đất mà Thập gía đã trở thành Thánh
Gía, trở thành nguồn ân sủng cứu thoát
muôn người (Ga 3:14). “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi
sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32).
Với niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng tốt lành,
hằng ấp ủ mọi tạo vật trong tình yêu, nên mỗi người trong mọi hoàn cảnh lịch sử
với thiện chí của mình đều có khả năng thực hiện những lựa chọn nghiêm túc và
đáp trả hữu hiệu cho lời mời gọi của ân sủng. Chỉ sợ chúng ta cố tình khước từ
ân sủng, chạy trốn tự do và phong toả sự triển nở của bản thân. Tuy vậy, với
chiều dài của thời gian, ân sủng là tình yêu của Thiên Chúa vẫn luôn hoạt động
cách kỳ diệu trong lịch sử thế giới, để mưu ích cho sự sống đời đời của chúng
ta cũng như của toàn thể vũ hoàn.[22] Chính nguồn suối siêu nhiên đó, như các
nhà thần học ngày nay nhận định, là sự “tự thông ban chính mình” của Thiên Chúa
đã khơi dậy nơi con người niềm “khát vọng tự nhiên đối với Người” (H. de Lubac)
hay là một “khát vọng bất khả kháng” muốn hiểu biết, muốn yêu mến Người (B.
Lonergan). Chúng ta có thể tin rằng tất cả đời sống tự nhiên đều hiện hữu trong
“văn mạch siêu nhiên,” hay tất cả hiện hữu tự bản chất là “hiện sinh thể siêu
nhiên” (K. Rahner), vì được chia sẻ vào tình yêu “vô điều kiện” của Thiên Chúa.
Nói cách khác, sự khắc khoải của tình yêu trong trái tim Thiên Chúa luôn tìm
kiếm trái tim con người để dẫn đưa con người vào trái tim của Thiên Chúa, Trong
nỗi tha thiết khôn cùng đó, ân sủng bao trùm, diễn ra, thể hiện nơi tự nhiên,
hoà điệu và thăng hoa tự nhiên: “gratia perfecit naturam”,[23] như một năng
động vô biên khai mở con người ra với tất cả, hướng tất cả về Chân, Thiện, Mỹ.
Chúng ta can đảm tiếp tục cuộc hành trình
trong thế giới lịch sử, vì xác tín Thiên Chúa là Tình Yêu, một “tình yêu mạnh
hơn sự chết,” và chính Người, như Phaolô khẳng định, “làm cho mọi sự đều sinh
ích lợi cho những ai yêu mến Người” (Rm 8:28; 1 Cor 2:7). Như Sách Khôn Ngoan
đã viết:
Thiên Chúa không làm ra cái chết,
Chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong,
Vì Người sáng tạo muôn loài cho chúng hiện
hữu.
Mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích
cho sinh linh
Chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại,
Aâm phủ không thống trị địa cầu (1:13-15).
Từ lối nhìn này, chúng ta có thể tìm được con
đường để sống và yêu tha nhân như chính mình, vì yêu thương là “đặc ân” của con
người. Chúng ta đón nhận, vì trước hết chúng ta là kẻ đã “được yêu” (1 Ga
4:10), được mời gọi để trở nên hồng ân yêu thương cho đời. Chính đó là lý do
sâu xa của ân sủng thúc đẩy chúng ta tôn trọng cuộc sống toàn diện, biết đón
nhận vẻ đẹp và gía trị cao quý của mọi thụ tạo, biết cởi mở triệt để với thế
giới lịch sử, biết tiếp xúc, trao đổi và đối thoại với các truyền thống tôn
giáo, các nền văn hoá, các bối cảnh kinh tế xã hội khác biệt của mọi dân tộc,
để cùng nhau phát huy những “ân huệ” Chúa ban mà cải tiến điều kiện sinh sống
vì tất cả cho hạnh phúc của từng người cũng như toàn thể nhân loại. Như lời
khẳng định chân thực của Hiến chế Vui mừng và Hy vọng: “Các hoạt động cá nhân
cũng như tập thể của loài người, hoặc những nỗ lực vĩ đại của con người vất vả
qua các thế kỷ nhằm cải thiện môi trường sinh sống, tự nó là phù hợp với ý định
của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã muốn cho con người tiếp tục công trình tạo
dựng của Người” (GS #34).
Chính trong bối cảnh này mà niềm tin tỏ lộ ý
nghĩa hiện thực: như một “chọn lựa căn bản,” một quyết định của tất cả con
người muốn ôm trọn mọi thách đố vì cuộc sống, vì tình yêu và niềm hy vọng hướng
về “Trời mới, đất mới” (Kh 21:1), nơi “Thiên Chúa sẽ là mọi sự cho tất cả” mọi
loài (1 Cor 15:28). Có như thế, chúng ta mới có thể nối kết chặt chẽ niềm hy
vọng tương lai vào Nước Thiên Chúa với những nỗ lực cho hiện tại, vì “đón nhận
ân sủng” và “sống ân sủng” giữa đời phải trở nên một kinh nghiệm duy nhất trong
mọi hoạt động yêu thương và kiến tạo hòa bình.
Tôi còn nhớ một trưa nắng xế kia, khi đi xe
điện ngầm từ Manhattan đến Đại học Fordham ở New York, có một phụ nữ và cô con
gái nhỏ bước lên toa xe và đến ngồi cạnh tôi. Cả hai đều là người Mỹ da đen. Ít
phút sau, cô bé đó hát lên một bài ca mà tôi chẳng hiểu gì. Dường như cô bé
đang vui và hớn hở lắm. Vừa hát xong, cô bé tự nhiên bỏ chỗ ngồi và ra giữa mọi
hàng ghế nhảy múa trước mặt mọi người. Ai cũng thấy lạ, nhưng đều mỉm cười và
không tỏ ra bực bội chi cả, ngoại trừ bà mẹ hơi bối rối và to tiếng khiển trách
con mình. Cô bé xịu mặt và trở lại chỗ ngồi nghiêm chỉnh. Tôi nhìn cô bé tươi
cười nói: “Cô hát và múa hay lắm! Cô đã giúp vui cho mọi người, cám ơn nhá!” Cô
bé mở to đôi mắt quay sang phía tôi. Tuy không nói gì, nhưng trong đôi mắt ấy
có sự hiện diện chân tình đáp ứng. Cô bé gợi lên trong tôi lời của Cựu Ước: “Da
tôi đen, nhưng tôi xinh đẹp mặn mà” (Dc 1:5). Lúc đó, tự nhiên tôi cảm thấy
mình “không còn là kẻ xa lạ trên chuyến xe này nữa”. Một sự ấm áp rất nhẹ nhàng
trong tim như một cành hoa của tình người. Khoảnh khắc đó làm cho tôi hiểu rằng
không ai tầm thường, “vô duyên” hay “vô nghĩa” trước mặt Thiên Chúa cả. Mỗi
người đều có một nét gì đó “rất riêng” và cũng “rất thiêng”, là một kiệt tác kỳ
diệu của Người. Chỉ có con người “kỳ thị” đối xử phân biệt với nhau, nhưng đối
với Thiên Chúa: “Con người sống động là vinh quang của Người” (Irênê). Và như
thế, nếu tôi không bị tù đày trong tâm hồn hay tự nhốt mình trong sợ hãi và
thiên kiến, tôi sẽ cảm nhận được tự do và có thể nhìn ngắm biết bao điều nhiệm
mầu và vẻ đẹp tuyệt vời chất chứa trong thế giới nhỏ bé của chúng ta. Từ cách
nhìn của đôi mắt tình yêu, chúng ta sẽ luôn khám phá ra những điều cao qúy, thú
vị, và mới mẻ của cuộc sống.
Ân sủng vì thế không phải chỉ là “ân ban” như
một tặng vật, một đặc sủng, một nhân đức thiên phú hay một phẩm chất tốt lành
nơi con người (ơn thụ tạo), nhưng ân sủng tiên vàn là chính
Thiên-Chúa-trong-Tình-Yêu-Tự-Hiến của Người (ơn phi tạo) mạc khải cho chúng
ta.[24] Qua ân sủng chúng ta có thể “nhận biết” và “gặp gỡ” được “Đấng Ban Ơn”,
và khi đã nhận biết và gặp gỡ được Người, chúng ta sẽ nhận lãnh tất cả những gì
phát xuất từ “Nguồn Ơn” vô giới hạn của Người (Mt 6:33). Như thế, “tất cả là
hồng ân”, tất cả “từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa”, nhờ đó mà
tinh thần con người mới có thể được cất lên khỏi “không gian” và “thời gian”
trong thế giới hiện tượng để bước vào trật tự siêu nhiên, vào sự sống vĩnh
hằng.
Nếu tiếng nói cuối cùng của hiện hữu phải
thuộc về sự sống tràn đầy yêu thương, và tiềm năng hiện hữu của con người không
thể bị tiêu huỷ do sức mạnh của tội lỗi, đau khổ và chết chóc, chúng ta có lý
do để tin rằng ân sủng ở khắp nơi và “tất cả đều là ân sủng.” Khi dường như
“không thấy” ân sủng ở đâu cả, chúng ta nhớ rằng ân sủng như tình yêu đang chờ
đợi được “tìm thấy”, “cảm thụ” và “gặp gỡ”.
Bởi vì ân sủng không có giới hạn trong mọi hoạt động yêu thương và sáng
tạo của Thiên Chúa, và “không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của
Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:38). Chúng ta có
thể nhớ lại câu chuyện Anthony De Mello về một con cá nhỏ trong biển khơi mênh
mông. Con cá nhỏ hỏi con cá lớn: “Xin lỗi nhá, em đang đi tìm đại dương. Xin
làm ơn chỉ cho em biết đại dương ở đâu?” Vậy đâu là câu trả lời, khi tất cả
đang bơi lội trong lòng đại dương? Vì thế, có lẽ chỉ cần mở mắt, mở lòng và
tỉnh thức nhìn ngắm thật sâu vào lòng sự vật, chúng ta sẽ hiểu biết và cảm thấy
“hạnh phúc” vẫn đang ở chung quanh ta. Cho dù “ở đâu tội lỗi lan tràn”, thì
biết đâu “ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Trên tất cả mọi nỗi
niềm của thân phận và thế sự, “chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng
ta” (Rm 8:37). Thánh vịnh 139 có thể soi chiếu những suy tư về sự biểu lộ của
ân sủng trong mọi cảnh giới cuộc đời:
Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ,
biết cả khi con đứng con ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa,
đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét,
mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả.
Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài,
lẩn nơi nào cho khuất được Thánh Nhan?
Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,
nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.
Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện,
đến ở nơi chân trời góc biển,
tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn,
cánh tay hùng mạnh giữ lấy con.
(Tv 139: 1-3, 7-10)
Phaolô Vũ Chí Hỷ sss
[1] Cf. Thomas
Aquinas, Summa Theologiae, vol I-II, Q 119, E. Fairweather, 1954, 139-43.
[2] Cf. Tự thú,
“Confessions”, H. Chadwick, 1991, 3.
[3] Cf. Stephen
J. Duffy, The Grace Horizon: Nature and Grace in Modern Catholic Thought,
Liturgical Press, 1992, 67
[4] Cf. “Grace
as the Heart’s desire: Henri de Lubac’s Surnatural” trong Duffy, The Graced
Horizon: Nature and Grace in Modern Catholic Thought, 80
[5] E.
Schillebeeckx, Christ: The Experience of Jesus as Lord, Seabury Press, 1980,
464.
[6] Hiến Chế Vui
Mừng và Hy Vọng, #18.
[7] Cf.
Augustine, Against Julian 2.8.23. “Non
enim in potestate nostra, et nostrae cogitationes” in The Fathers of the
Church, vol. 35, Matthew A. Schumacher (Washington, D.C.: Catholic University
of America, 1957), p. 84
[8] Cf. Augustine,
“On the Spirit and the letter,” trong Basic Writings of St Augustine, W. J.
Oates (1948), 461-418
[9] Cf.
Elizabeth Dreyer, Manifestations of Grace, Michael Glazier, 1990, 177-78
[10] Cf. J.
Plaskow, Sex, Sin and Grace: Women’s Experience and The Theologies of R.
Neibuhr anh Paul Tillich, University Press of America, 1980, 93
[11] Cf. Karl
Rahner, Foundations of Christian Faith: An Introduction to the Idea of
Christianity, Crossroad, 1999, 60
[12] Cf. Roger
Haight, The Experience and Language of Grace, Paulist Press, 1979, 128, 131
[13] Cf. Karl
Rahner, the Practice of Faith, Crossroad 1992, 59
[14] Cf.
Augustine, On Original Sin, in Nicene and Post-Nicene Fathers, 1st series,
5:237-55
[15] Against
Heresies 5, preface, in Ante-Nicene Fathers, 1:526
[16] De
Incarnatione Verbi Dei, in Nicene and Post-Nicene Fathers, 2nd series, 4:65.
Cf. Orationes Contra Arianos, Oratio II, 70.
[17] Cf. (Summa
Theologiae II – II, q. 26, a 13). Aidan Nichols, Discovering Aquinas: An
Introduction to His Life, Work and Influence (London: Darton, Longman &
Todd, 2002)
[18] Karl
Rahner, “Nature and Grace”, bản dịch Karl H. & B. Kruger, Theological
Investigations, tập VI, The Seabury Press, 1974, 181
[19] Brian O. McDermott, S. J. What are they
saying about the grace of Christ, tr. 23
[20] Hiến Chế
Vui Mừng và Hy Vọng (Gaudium et Spes), # 22
[21] Karl
Rahner, “Nature and Grace”, bản dịch Karl H. & B. Kruger, Theological
Investigations, tập IV, Helicon Press, 1966, 177
[22] Ibid.
[23] Karl
Rahner, Foundations of Christian Faith: An Introduction to The Idea of
Chriatianity, 126
[24] Cf. E.
Dreyer, Manifestations of Grace, 162