Phần II – Bài 13

 

ĐỨC GIÊ-SU CHUẨN BỊ SỨ VỤ

 

        Trước khi đọc tiếp, bạn hãy suy nghĩ và hoàn tất hai câu sau đây:

1.      Nếu tôi có mặt lúc Đức Giê-su chịu phép rửa hoặc lúc Ngài bị cám dỗ trong sa mạc, tôi sẽ…, bởi vì…

2.      Khi nghĩ về những cám dỗ của Chúa trong sa mạc, tôi cho rằng tên quỷ giống như…, bởi vì…

 

ĐỨC GIÊ-SU CHỊU PHÉP RỬA

 

        Linda Marshall sửa soạn tắm.  Bà đưa tay ra thử độ ấm của nước, một chân trong bồn tắm, còn chân kia ở ngoài.  Đang đứng trong tư thế tức cười như vậy, bà chợt nghĩ về mình:  “Đây chính là một hình ảnh về cuộc đời tôi.”

        Linda vẫn ước ao có một đời sống đạo đức hơn, nhưng bà không làm sao tiến bước được.  Bà luôn luôn chân trong chân ngoài.  Hình như bây giờ là lúc cho bà quyết định.

        Cuối cùng bà nín thở, rồi la lớn lên:  “Lạy Chúa, con xin chọn Chúa.”  Sau lời ấy, bà bước vào bồn tắm, tựa như một cuộc rửa tội vậy.

        Nếu chúng ta có thể hiểu được lựa chọn khó khăn của Linda thì chúng ta cũng có thể hiểu được sự lựa chọn mà Gio-an Tẩy giả đã đề ra cho dân chúng khi ông nói với họ:  “Anh chị em hãy từ bỏ tội lỗi và lãnh nhận phép rửa” (x. Lc 3:3).

        Từ ngữ Gio-an sử dụng “Hãy từ bỏ tội lỗi” được dịch ra từ tiếng Do-thái, có nghĩa là “quay về để khỏi đi theo con đường lầm lỗi nữa.”  Nói khác đi, ông xin dân chúng hãy nhận thực những đường lối tội lỗi của họ và hãy thay đổi đời sống.  Để tỏ ra họ thành thực muốn làm như vậy, Gio-an mời gọi họ hãy lãnh nhận phép rửa.

 

Đức Giê-su xin chịu phép rửa

 

        Khi nhìn thấy Đức Giê-su lội xuống nước để chịu phép rửa, Gio-an hết sức ngạc nhiên.  Ông phải làm gì đây?  Gio-an cố xoay ngược lại tình thế, ông nói:  “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!”  Đức Giê-su trả lời ông:  “Bây giờ cứ thế đã.  Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 3:14-15).

 

Đức Giê-su hòa mình hoàn toàn với chúng ta

 

        Đức Giê-su đã xin chịu phép rửa, không phải vì Ngài là kẻ tội lỗi cần hối cải, nhưng vì Ngài là một người trong chúng ta, nghĩa là một phần tử bằng máu và thịt thuộc gia đình nhân loại.  Ngài hòa mình với chúng ta một cách hoàn toàn đến nỗi đã chấp nhận thân phận con người của chúng ta, ngay cả đến tình trạng tội lỗi.

        Ở đây cho ta một bài học quan trọng.  Chúng ta cũng là những phần tử của một nhân loại tội lỗi.  Chúng ta không thể đứng ngoài vòng nhân loại ấy, nhưng giữa những tội lỗi của nhân loại.  Thí dụ, chúng ta không thể nói:  “Tôi không chấp nhận việc chối bỏ nhân quyền.  Tôi cũng không chấp nhận những sách báo, phim ảnh hoặc những chương trình truyền hình như thế này.  Nhưng tôi không thể làm gì hơn đối với những điều tội lỗi này.”  Là môn đệ Chúa Ki-tô, chúng ta có bổn phận phải tìm ra những phương thức để làm một điều gì chứ!

 

BA HÌNH ẢNH

 

        Ngay sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa, thì “trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu.  Lại có tiếng từ trời phán rằng:  Con là Con của Cha;  ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3:21-22).

        Ba hình ảnh qua mô tả của Lu-ca về việc Đức Giê-su chịu phép rửa là:

                *  trời mở ra

                *  chim bồ câu đáp xuống, và

                *  tiếng nói phát ra từ trời.

 

Một “thời đại mới” hé mở

 

        Để hiểu việc trời mở ra trên Đức Giê-su, chúng ta cần biết người Do-thái thời xưa đã nhìn vũ trụ như thế nào.  Họ coi vũ trụ như là ba thế giới xếp chồng lên nhau.

        Bên trên là thế giới của Thiên Chúa.  Ở giữa là thế giới của người sống và dưới cùng là thế giới của người đã chết.

        Ranh giới ngăn cách thế giới của Thiên Chúa và thế giới người sống là bầu trời.  Nếu Thiên Chúa muốn đi vào thế giới người sống, thì Ngài phải đi qua ngăn cách này.

        Sau khi A-đam phạm tội, thế giới của người sống đã trở nên mỗi ngày một xấu xa thêm.  Những người thánh thiện cầu xin Thiên Chúa “xóa bỏ” ranh giới ngăn cách với thế giới của Ngài và làm một điều gì đó cho thế giới xấu xa của họ.  Thí dụ ngôn sứ I-sai-a đã cầu nguyện:  “Ước gì Ngài xé trời mà xuống” (Is 63:19).  Tác giả Thánh Vịnh kêu cầu:  “Lạy Chúa, xin Chúa hãy xé trời ra mà ngự xuống” (Tv 144:5).

        Hình ảnh trời mở ra có nghĩa là Thiên Chúa đã quyết định đi vào thế giới của chúng ta và làm một điều gì đó đối với tình trạng tội lỗi trong thế giới ấy.  Một “thời đại mới” trong lịch sử nhân loại đang khởi đầu.

 

Một “cuộc tạo dựng mới” bắt đầu

 

Hình ảnh thứ hai là hình chim bồ câu (Thánh Thần) đáp xuống trên Đức Giê-su.  Hình ảnh này gợi lại việc thần linh Chúa xuống trên nước trong ngày tạo dựng (St 1:1-2).

Những giáo sĩ Do-thái so sánh thần linh Chúa tựa như một chim bồ câu.  Lu-ca dùng hình ảnh này để dạy rằng một thời đại mới đang ló rạng.  Lời tiên tri của ngôn sứ I-sai-a đang được thể hiện:  “Thiên Chúa phán:  Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới…  Hãy vui mừng và luôn mãi hỷ hoan vì những gì chính Ta sáng tạo” (Is 65:17-18).

Hình ảnh chim bồ câu đáp xuống có nghĩa là một cuộc tạo dựng mới sắp sửa xảy ra.

 

Một “A-đam mới” xuất hiện

 

        Hình ảnh thứ ba là tiếng phát ra tự trời nói về Đức Giê-su:  “Con là Con yêu dấu của Cha.”  Tiếng nói mô tả Đức Giê-su là con đầu lòng của một cuộc tạo dựng mới.  Ngài chính là “A-đam mới” trong cuộc tạo dựng mới.  Phao-lô nói lên sự so sánh giữa “A-đam cũ” và Đức Giê-su là “A-đam mới”:

        “Con người đầu tiên là A-đam được dựng nên thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng (Đức Ki-tô) là thần khí ban sự sống…  Người thứ nhất (A-đam) bởi đất mà ra thì thuộc về đất;  còn người thứ hai (Đức Ki-tô) thì từ trời mà đến.  Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra;  còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến.  Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến.”  (1 Cr 15:45,47-49)

        Hình ảnh thứ ba chứa đựng một bài học quan trọng.  Vì chúng ta mang cả hình ảnh của “con người thuộc về đất” lẫn “con người thuộc về trời”, nên chúng ta cảm nghiệm một sự căng thẳng nội tại giữa xác thịt (con người thuộc về đất) và tinh thần (con người thuộc về trời).  Chính thánh Phao-lô đã cảm nhận sự căng thẳng này trong cuộc sống, nên ngài nói:  “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7:15).

 

Thời gian chờ đợi từ lâu nay đã tới

 

        Ba hình ảnh trong biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa có ý nghĩa như sau:

                *  một thời đại mới hé mở (trời mở ra),

                *  một cuộc tạo dựng mới bắt đầu (chim bồ câu đáp xuống), và

                *  một A-đam mới xuất hiện (tiếng nói từ trời).

        Thời gian chờ đợi từ lâu, giờ đây đã tới:  Thiên Chúa khởi sự “tái tạo” thế giới đã bị tội lỗi “hủy tạo.”

 

NHỮNG CÁM DỖ CỦA ĐỨC GIÊ-SU

 

        Doug Alderson đã mô tả một kinh nghiệm thích thú trong cuốn Campus Life.  Sau khi tốt nghiệp trung học, ông làm một chuyến đi bộ hai ngàn dậm trong mùa hè dọc theo đường mòn rặng Appalachian.  Ông viết:

        “Tôi vừa tốt nghiệp trung học xong.  Tôi có nhiều câu hỏi.  Mục đích của tôi trong đời là gì?  Tương lai của tôi?  Có Thiên Chúa không?  Tôi nghĩ những câu trả lời có thể tìm thấy ngay tại những vùng hoang dã trước mặt kia.

        “Đáng lẽ phải dành thời giờ cho sự sống hơn là cho tiền bạc, TV, chơi bời và chích choác.  Theo một ý nghĩa nào đó, cuộc đi bộ của tôi là một cuộc tìm kiếm bình an nội tâm, một hành trình để đi tìm chính mình.”

        Doug đã nói rằng những thời khắc lâu dài trên đường mòn đã cho ông cơ hội để biết chính mình hơn và hoạch định cho tương lai.

        Năm tháng sau, ông trở về nhà với một con người đã thay đổi.  Ngay cả con chó trong nhà cũng nhìn ông nghi ngờ như muốn hỏi:  “Anh đã ở đâu?  Đã làm gì?  Anh là người khác mất rồi.”

        Doug đã khác xưa.  Ông đã gặp thấy những gì ông tìm kiếm, đó là “bình an từ nội tâm, bình an từ Thiên Chúa.”  Ông tóm tắt kinh nghiệm của ông khi nói rằng:  “Tôi thành con người của chính tôi nhiều hơn.  Tôi thích những gì tôi khám phá nơi chính tôi.”

Doug Alderson là một thí dụ về con người đã đi ra ngoài một mình trong một thời gian để tìm lại chính mình.  Ông Mô-sê đã làm điều đó;  các ngôn sứ đã làm điều đó;  Gio-an Tẩy giả đã làm điều đó.  Đức Giê-su cũng làm điều đó.

 

Đức Giê-su chịu cám dỗ trong sa mạc

 

        Sau khi chịu phép rửa, Đức Giê-su đã được “Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa bốn mươi ngày.  Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy đói.  Bấy giờ, quỷ nói với Người:  “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho hòn đá này hóa bánh đi!”  Nhưng Đức Giê-su đáp lại:  “Đã có lời chép rằng:  Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.”

        Sau đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả các nước thiên hạ.  Rồi nó nói với Người:  “Tôi sẽ cho ông toàn quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tùy ý.  Vậy nếu ông bái lạy tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.”  Đức Giê-su đáp lại:  “Đã có lời chép rằng:  Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.”

        Quỷ đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người:  “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi!  Vì đã có lời chép rằng:  Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, để luôn luôn gìn giữ bạn.  Lại còn chép rằng:  Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”  Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại:  “Đã có lời rằng:  Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”

        Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.”

                                                                        (Lc 4:1-18)

 

BA ĐIỀU XÉT LẠI

 

        Những cám dỗ Đức Giê-su chịu có ý nghĩa sâu xa hơn là chúng ta thấy bề ngoài.  Để hiểu được ý nghĩa sâu xa này, hãy nghĩ những cám dỗ đây như là duyệt trước một cuốn phim.  Việc điểm phim chỉ nói cho chúng ta vừa đủ để thích cuốn phim, chứ không phải đủ để dẹp bỏ cuốn phim.  Những cám dỗ đối với Đức Giê-su cũng tương tự.  Chúng xét lại những câu trả lời cho ba câu hỏi quan trọng về Đức Giê-su:

                *  Ngài là ai?  (căn tính của Ngài),

                *  Ngài đến để làm gì?  (sứ mệnh của Ngài), và

                *  Ngài sẽ thi hành sứ mệnh ấy thế nào?  (lối sống của Ngài).

 

Đức Giê-su xét lại căn tính của Ngài

 

        Những cám dỗ của Đức Giê-su cho thấy Ngài đã cảm nghiệm một cuộc chiến nội tâm giữa chính tà mà ngay chúng ta cũng cảm nghiệm.  Nói khác đi, những cám dỗ của Ngài chứng tỏ Ngài là con người thực sự như chúng ta.

        Nhưng những cám dỗ còn cho thấy một điều gì hơn thế nữa.  Chúng cho thấy Đức Giê-su đã phản ứng lại ma quỷ như thế nào.  Ngài phản ứng khác hẳn với cách của chúng ta.  Chưa có ai tỏ ra cứng rắn trước cám dỗ như Đức Giê-su đã làm.

        Phản ứng của Đức Giê-su trước cám dỗ cho thấy Ngài không giống như những người khác.  Có một điều gì đặc biệt nơi Ngài.  Ma quỷ đã để lộ điểm đặc biệt ấy khi nó nói:  “Nếu ông là Con Thiên Chúa.”  Đức Giê-su là Con Thiên Chúa.  Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người.

 

Đức Giê-su xét lại sứ mệnh của Ngài

 

        Những cám dỗ Đức Giê-su chịu cũng xét lại câu trả lời cho câu hỏi “Đức Giê-su đến để làm gì?”  Chúng ta hãy nhớ lại hai điểm đã nói trước đây.

        Trước hết, việc Đức Giê-su chịu phép rửa cho thấy một cuộc tạo dựng mới, hoặc tái tạo thế giới đã bắt đầu.  Thứ hai, ngay sau cuộc tạo dựng thứ nhất, ma quỷ đã cám dỗ A-đam, con người thứ nhất, và làm cho ông phạm tội.  Tội lỗi ấy đã đem lại sự chết thiêng liêng cho thế giới.  Thánh Phao-lô viết:  “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết;  như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5:12).

        Vậy giờ đây ma quỷ lập lại trò cũ.  Nó cám dỗ Đức Giê-su, con người đầu tiên của cuộc tạo dựng mới và cố đưa Ngài vào đường tội.  Nhưng Đức Giê-su đứng vững.  Chiến thắng của Ngài trên ma quỷ phục hồi sự sống cho nhân loại.  Phao-lô nói:  “Tóm lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống.  Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5:18-19).

        Sứ mệnh của Đức Giê-su là làm A-đam mới của cuộc tạo dựng mới.  Ngài đã đến để dẫn đưa nhân loại ra khỏi vòng tội lỗi mà tiến vào vương quốc của Cha Ngài.  Ngài đã đến để cứu họ khỏi cái chết và phục hồi sự sống cho họ.  Đây chính là điều chúng ta hiểu từ ngữ cuộc tạo dựng mới nghĩa là gì.

 

Đức Giê-su xét lại lối sống của Ngài

 

        Sau cùng, những cám dỗ Chúa Giê-su chịu xét lại đường lối Ngài sẽ thi hành sứ mệnh của mình.

        Trước hết, việc Đức Giê-su từ chối không biến những viên đá trở nên bánh cho thấy Ngài sẽ không sử dụng quyền năng của mình để mưu lợi riêng hoặc để sống thoải mái.  Trái lại, Ngài sẽ phải đổ mồ hôi, đói khát, chịu khổ cực để chu toàn công việc của Ngài trên trần gian, chẳng khác gì chúng ta vậy.

        Thứ hai, việc Đức Giê-su từ chối gieo mình xuống từ đỉnh Đền Thờ và để cho thiên thần bảo vệ Ngài chứng tỏ Ngài đến để phục vụ chứ không để được phục vụ (Mc 10:44-45).

        Thứ ba, Đức Giê-su từ chối bái quỳ trước ma quỷ, dù là để đổi lấy cả thế giới này, cho thấy Ngài sẽ không đồng tình hoặc mặc cả với ma quỷ.  Cám dỗ này thực ra chứng tỏ rằng vào lúc ấy thế giới này đang nằm dưới quyền lực ma quỷ.  Ma quỷ có thể ban thế giới này cho bất cứ ai mong muốn.  Việc Đức Giê-su từ chối không muốn thần phục ma quỷ đã bẻ gẫy quyền lực của nó.  Đức Giê-su chứng tỏ rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa, đúng là đúng, sai là sai.  Đức Giê-su sẽ chịu đau khổ – cả đến chịu chết nữa – trong tay ma quỷ, nhưng Ngài sẽ không thương lượng với ma quỷ.

        Như vậy, khi từ chối những cám dỗ của ma quỷ, Đức Giê-su đã xét lại Ngài sẽ thi hành sứ mệnh của Ngài thế nào:

                *  Ngài muốn chịu đau khổ chứ không lẩn tránh đau khổ.

                *  Ngài muốn phục vụ chứ không muốn được phục vụ.

                *  Ngài muốn chịu chết chứ không muốn thương lượng với ma quỷ.

        Sau khi chịu cám dỗ, Đức Giê-su rời sa mạc và trở về đời để thi hành thánh ý Cha trên trời.

 

ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH

 

        1.  Lu-ca 3:1-22            Tiếng nói trong hoang địa

        2.  Đệ nhị luật 8:1-10             Bánh thôi không đủ

        3.  Đệ nhị luật 6:10-25    Đừng thử thách Thiên Chúa

        4.  Thánh Vịnh 91          Thiên thần sẽ bênh đỡ bạn

        5.  I-sai-a 65:17-25                Cuộc tạo dựng mới

 

THẢO LUẬN

 

        1.  Những hình ảnh và ý nghĩa của việc Đức Giê-su chịu phép rửa và việc bạn lãnh nhận Bí tích Rửa tội có những điểm nào giống nhau?

3.      Những cám dỗ Đức Giê-su chịu có ý nghĩa gì đối với riêng bạn?

 

CHIA SẺ     

 

1.      Thảo luận những tư tưởng sau đây:

        -  “Bạn bị cám dỗ không phải vì bạn xấu xa, nhưng bạn bị cám dỗ vì bạn là con người.”  (ĐGM Fulton Sheen)

        -  “Hầu hết những người lướt khỏi cơn cám dỗ thường để lại địa chỉ kế tiếp.”  (vô danh)

        -  “Cơn cám dỗ cuối cùng chính là cơn cám dỗ mãnh liệt nhất:  đó là làm điều trái với lý do phải.”  (T. S. Eliot)

        2.  Hãy cho một thí dụ để nói lên điều Daniel Wilson ngụ ý khi ông nói:  “Khi một người chống lại tội lỗi chỉ dựa trên những động lực loài người thôi, thì họ sẽ không chống được lâu đâu.”

        3.  Quintin Hogg là một cố vấn nổi tiếng cho giới trẻ tại Luân-đôn.  Khi người ta hỏi một em nhỏ đã rời Luân-đôn làm sao em có thể nghĩ ngay đến ông Hogg ở xa, thì em trả lời:  “Khi nào tôi bị cám dỗ, tôi liền ngồi xuống, lấy trong ví ra tấm ảnh của Hogg và tưởng tượng ông đang nói gì về cơn cám dỗ này.”  Bạn sống xa cha mẹ, ai sẽ là người có thể gợi ý cho bạn, hoặc ai đã ảnh hưởng lớn đối với bạn?  Hãy giải thích.

        4.  Bạn hãy nhớ lại lần nào đó, cũng giống như Linda Marshall, bạn cảm thấy Thiên Chúa đang ban cho bạn ơn sủng để làm một quyết định quan trọng trong khi bạn cứ chần chờ.

        5.  Hãy nhớ lại lần nào đó, cũng như Doug Alderson, bạn đã dành một thời gian (một ngày hoặc một buổi chiều) để đối diện với chính mình và để trả lời những câu hỏi về tương lai của bạn.

 

 

The Catholic Vision  II – 13

Chuyển ngữ:  Lm Trần đình Nhi

Mark Link SJ


Về Trang Mục Lục
Trở về trang Giáo Lý Công Giáo
Trở Về Trang Nhà