Trước khi đọc tiếp, bạn hãy suy nghĩ
và hoàn tất hai câu sau đây:
1.
Một câu hỏi tôi muốn hỏi về
Đức Ma-ri-a, Mẹ Chúa Giê-su là ...
2.
Một câu hỏi về vai trò của các
thánh trong cuộc sống người Công giáo tôi muốn được trả lời là...
MẪU GƯƠNG
Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di sinh trưởng
trong một gia đình giàu có tại Ý. Khi
còn là một thiếu niên, cậu lêu lổng và ăn chơi. Năm 1202, Phan-xi-cô đi lính và phải ra mặt trận. Anh bị bắt làm tù binh và năm sau bị xiềng
xích.
Sau khi được thả ra, Phan-xi-cô phải
mất cả năm trời mới hồi phục sức khỏe.
Biến cố ấy đã thay đổi anh vĩnh viễn.
Anh rời bỏ nơi chốn giàu có của gia đình, khoác bộ quần áo nông dân và
ra đi tìm Chúa. Nơi ở mới của anh là
ngôi thánh đường bị bỏ hoang bên ngoài thành phố Át-xi-di. Anh đã dành nhiều thì giờ ở lại đó một mình
để cầu nguyện.
Đặc biệt có hai điều giáo huấn từ Kinh
Thánh bắt đầu ám ảnh anh. Điều thứ nhất
là mọi người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1:26-27). Điều thứ hai là những gì chúng ta làm cho
người hèn mọn nhất, đó là chúng ta làm cho chính Đức Giê-su (Mt 25:40). Suy niệm những giáo huấn này, Phan-xi-cô đã
tăng thêm lòng yêu mến sâu xa những gì bị xã hội chối bỏ.
Ngày kia anh gặp một người cùi. Dù Phan-xi-cô rất sợ bệnh cùi, nhưng anh ôm
lấy người ấy. Cử chỉ cảm động này nói
lên mức độ những giáo huấn của Đức Giê-su đã bén rễ sâu nơi tâm hồn Phan-xi-cô.
Sau đó không lâu, Phan-xi-cô đi dự
Thánh lễ. Bài đọc Tin Mừng hôm ấy nói
về việc Đức Giê-su dạy các môn đệ hãy tới các làng mạc và thành phố miền
Pha-lét-tin mà rao giảng Tin Mừng. Đức
Giê-su bảo các môn đệ đừng mang theo tiền bạc, nhưng hãy tin tưởng Thiên Chúa
sẽ lo liệu cho họ những nhu cầu vật chất (Mt 10:5-15).
Huấn dụ này đã khiến Phan-xi-cô hết
sức cảm động. Anh đã sống giữa một thời
đại người ta xa tránh những giáo huấn của Đức Giê-su. Thế là Phan-xi-cô, không một xu trong túi, đã đi tới các làng mạc
trong nước Ý để rao giảng Tin Mừng. Cá
tính hoạt bát của anh đã lôi cuốn những thanh niên khác đến tham gia công cuộc
anh khởi xướng. Đó là việc thành lập
Dòng tu Phan-xi-cô (cộng đoàn tu sĩ).
Ngày nay cả ngàn Phan-sinh đang sống
trong hằng trăm cộng đoàn, phục vụ người nghèo và rao giảng Tin Mừng gần như
tại hầu hết những quốc gia lớn trên thế giới.
Trong cuốn tiểu thuyết Anthony
Adverse, Hervey Allen nói về Phan-xi-cô và những vị thánh giống như ngài:
“Anh Phan-xi-cô và những người giống
như anh... luôn luôn làm cho Ki-tô giáo
thành một tôn giáo nguy hiểm. Ngay khi
Giáo Hội sắp sửa trở thành một tổ kén trông đẹp mắt và ấm áp... thì eo ơi, tổ kén lại bung ra và một tinh thần
tuyệt vời của Ki-tô giáo xuất hiện.”
Cái “tâm” nảy sinh nơi Phan-xi-cô được
diễn tả qua kinh nguyện cảm động do chính ngài viết:
“Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ
bình an của Chúa.
Để con đem yêu thương vào nơi oán thù;
Đem thứ tha vào nơi lăng nhục;
Đem tin kính vào nơi nghi nan;
Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng;
Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm;
Đem niềm vui đến chốn u sầu.
Lạy Chúa, xin hãy dạy con
Tìm an ủi người hơn được người ủi an;
Tìm hiểu biết người hơn được người
hiểu biết;
Tìm yêu mến người hơn được người mến
yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được
nhận lãnh;
Chính khi thứ tha là khi được tha thứ;
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn
đời.”
Một vị thánh cũng chỉ là một con người
như chúng ta, nhưng đã quyết tâm đáp lại lời mời gọi của Đức Giê-su: “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh
em” (Ga 15:12). Một vị thánh là một
nhắc nhở sống động rằng ân sủng Chúa có thể thực hiện những phép lạ nơi chúng
ta nếu chúng ta biết mở lòng đón nhận ân sủng.
Từ thánh là do từ La-tinh sanctus,
có nghĩa là “thánh thiện.” Theo nghĩa
văn chương, từ thánh nghĩa là “một người thánh thiện.” Nó gợi lên lệnh truyền của Thiên Chúa: “Hãy giữ mình thánh thiện, vì Ta là Đấng
Thánh” (Lv 11:44).
Những Ki-tô hữu tiên khởi gọi nhau là
“các thánh.” Tân Ước sử dụng từ này hơn
sáu mươi lần (thí dụ Mt 27:52, Cv 9:13, và Cl 1:4). Tuy nhiên theo dòng thời gian, từ thánh được đặc biệt dành
cho những Ki-tô hữu đã chịu chết vì đạo hoặc những Ki-tô hữu đã sống cuộc sống
thánh thiện.
Trước hết, một người được xác nhận là
một vị thánh do những ai đã nhìn thấy vị ấy chịu tử đạo hoặc do những ai đã làm
chứng đời sống của vị ấy thánh thiện.
Tuy nhiên, khoảng năm 1000, Đức Giáo Hoàng Gio-an XV đã ấn định một thể
thức quy củ hơn để xác nhận một người là thánh. Thể thức ấy được gọi là việc phong thánh, gồm có việc điều
tra kỹ lưỡng về mọi phương diện thuộc đời sống của vị ấy.
Tại sao người Công giáo không cầu
nguyện thẳng với Thiên Chúa? Tại sao họ
lại cầu xin với các thánh? Người ta
thường hỏi những câu hỏi ấy.
Người Công giáo có cầu nguyện thẳng
với Thiên Chúa đấy chứ. Chúng ta cầu
nguyện thẳng với Thiên Chúa trong các Thánh lễ. Không có mối quan hệ nào quan trọng cho bằng quan hệ giữa chúng
ta với Thiên Chúa.
Nhưng quan hệ giữa chúng ta với anh
chị em Ki-tô hữu cũng quan trọng nữa.
Chúng ta hết thảy đều là chi thể của thân thể Đức Ki-tô. Chúng ta là một gia đình. Do đó, nếu chúng ta xin tất cả gia đình
Ki-tô tại thế này cầu nguyện cho chúng ta, thì tại sao chúng ta lại không nên
xin những anh chị em trên trời cầu nguyện cho chúng ta nữa? Không phải vì họ đang ở trên trời nên không
còn thuộc về gia đình nhân loại nữa.
Tóm lại, là một gia đình để làm gì nếu không đến với nhau trong những
lúc cần thiết?
MẸ ĐỨC GIÊ-SU
Ngay từ thời Ki-tô giáo khai sinh, có
một vị thánh trổi vượt trên mọi vị thánh khác.
Vị thánh ấy là Đức Ma-ri-a, Mẹ Chúa Giê-su. Ma-ri-a cao quý là vì Thiên Chúa đã chọn Ngài làm mẹ Chúa
Giê-su. Sứ thần Gáp-ri-en nói với Mẹ:
“Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng,
Đức Chúa ở cùng bà... Này đây bà sẽ thụ
thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su...’
“Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: ‘Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không
biết đến việc vợ chồng?’
“Sứ thần đáp: ‘Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền
năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh,
và được gọi là Con Thiên Chúa...’
“Bà Ma-ri-a nói: ‘Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa
cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói’” (Lu-ca
1:28-31, 34-35, 38).
Những lời của Đức Ma-ri-a “Tôi không
biết đến việc vợ chồng” chứng minh cho sự trinh khiết của Mẹ. Người con Mẹ cưu mang trong lòng không phải
do người đàn ông, nhưng là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Như vậy theo truyền thống, Đức Ma-ri-a được
xưng hô là Mẹ Đồng Trinh của Thiên Chúa.
MẸ THIÊN CHÚA
Tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” khiến cho
một số người thắc mắc. Từ ngữ này không
có nghĩa Đức Ma-ri-a là Mẹ của Thiên Chúa từ đời đời. Nó chỉ có nghĩa là Đức Giê-su là Thiên Chúa làm người, cho nên
đúng là Đức Ma-ri-a được gọi là Mẹ Thiên Chúa.
Xét theo lịch sử, tước hiệu “Mẹ Thiên
Chúa” đã có từ Công Đồng chung Ê-phê-xô (năm 431 sau công nguyên). Đó là vào lúc Công Đồng gặp phải khó khăn
khi công bố rằng Đức Giê-su có hai bản tính (thiên tính và nhân tính), nhưng
không phải là hai ngôi vị theo như một số thần học gia chủ trương.
Để sửa lại lầm lỗi này, Công Đồng
tuyên bố rằng nơi Đức Giê-su có hai bản tính, nhưng chỉ có một ngôi vị. Muốn nhấn mạnh rằng Đức Giê-su chỉ có một
ngôi vị, Công Đồng đã thêm vào điều này là Đức Ma-ri-a vì thế đã được gọi là Mẹ
Thiên Chúa.
ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Để hiểu được những điều người Công
giáo tin sự kiện Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Ma-ri-a, chúng ta hãy nhớ lại hậu
quả do tội của A-đam để lại cho nhân loại.
Nó đã đặt chúng ta ở trong tình trạng bị thương. Đôi khi chúng ta gọi tình trạng bị thương
này là mắc tội tổ tông. Suy tư về tội
nguyên tổ, thánh Phao-lô viết:
“Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã
xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết. Như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã
phạm tội” (Rô-ma 5:12).
Khi người Công giáo nói về việc Vô
Nhiễm Nguyên Tội của Đức Ma-ri-a, thì họ hiểu là Thánh truyền đã để lại cho họ
niềm tin rằng giữa toàn thể nhân loại, Mẹ là người duy nhất không bao giờ bị
vết nhơ do tội lỗi. Chỉ mình Mẹ đã được
gìn giữ khỏi ảnh hưởng của tội nguyên tổ.
Nói theo ngôn từ của thi sĩ Wordsworth, Đức Ma-ri-a là “niềm kiêu hãnh
duy nhất vượt trên bản chất đã mang vết nhơ của chúng ta.”
Việc giữ gìn Đức Ma-ri-a khỏi tội lỗi
là một ân huệ riêng Thiên Chúa ban cho Mẹ trước khi làm mẹ Đức Giê-su. Vì thế, Kinh Thánh đã gọi Ma-ri-a là “Đấng
đầy ân sủng” (Lu-ca 1:28), “được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (Lu-ca 1:42).
ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
Khi người Công giáo nói về Đức Mẹ Hồn
Xác Lên Trời thì có nghĩa là họ tin rằng theo Thánh truyền Mẹ đã được đem lên
trời với nguyên vẹn con người của Mẹ vào lúc cuối đời. Nói khác đi, Mẹ đã đi từ trạng thái trần thế
để đến thẳng trạng thái thiên đàng, mà thân xác của Mẹ vẫn không bị hư nát do
hình phạt của tội lỗi (Sáng Thế 3:19).
Niềm tin này là điều đi song song với
tín điều Đức Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Đó là mặt kia của cùng một đồng bạc cắc. Nói khác đi, vì Đức Ma-ri-a đã được gìn giữ khỏi ảnh hưởng tội
lỗi nên Mẹ cũng được gìn giữ khỏi hình phạt của tội lỗi.
Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời là một
nhắc nhở tuyệt vời rằng ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được dự phần trên trời –
cả linh hồn lẫn thân xác. Chúng
ta cũng sẽ ở trên trời với toàn diện con người chúng ta.
Suy tư về mầu nhiệm này, thánh Phao-lô
so sánh thân xác trước khi chết của chúng ta giống như một hạt giống; ngài so sánh thân xác sau khi chết của chúng
ta như cây nảy sinh từ hạt giống (1 Cô-rin-tô 15:36-38). Tiếp tục so sánh ấy, Phao-lô nói về thân xác
như sau: “Gieo xuống thì hư nát, mà
chỗi dậy thì bất diệt... Gieo xuống là
thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1 Cô-rin-tô 15:42,
44).
GƯƠNG MẪU CHO MỌI KI-TÔ HỮU
Đức Ma-ri-a là một gương mẫu và nguồn
cảm hứng cho hết thảy môn đệ Đức Giê-su.
Thực đúng như vậy, đó là do:
-
tinh thần phục vụ của Mẹ và
-
tinh thần cầu nguyện của Mẹ.
Có người nói: “Đời tôi đã thay đổi khi tôi không còn xin
Chúa làm cho tôi điều này điều nọ nữa và khi tôi đã hỏi Chúa tôi có thể làm gì
cho Người.” Đức Ma-ri-a đã có tinh thần
phục vụ đó.
Tinh thần phục vụ của Đức Ma-ri-a được
biểu lộ khi thiên thần báo tin cho Mẹ biết Mẹ sẽ là Mẹ Đức Giê-su. Mẹ đã trả lời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời
sứ thần nói” (Lu-ca 1:38).
Tinh thần phục vụ của Đức Ma-ri-a cũng
được biểu lộ khi Mẹ biết bà Ê-li-sa-bét đã mang thai Gio-an Tẩy giả. Mẹ lập tức ra đi để ở lại với người chị
họ. Mẹ muốn giúp bà Ê-li-sa-bét và chia
sẻ niềm vui với bà về ân huệ lớn lao Chúa ban cho bà (Lu-ca 1:39-45).
Rồi tinh thần phục của Đức Ma-ri-a còn
được biểu lộ một cách thật cảm động tại Ca-na.
Tại đây, Mẹ đã xin Đức Giê-su giúp đỡ khi biết đôi tân hôn không còn
rượu để thết khách dự tiệc (Gio-an 2:5).
Mẹ Tê-rê-xa Calcutta nói: Cầu nguyện làm cho con tim mở rộng tới độ nó
có thể chứa đựng được chính Thiên Chúa.”
Cầu nguyện đã thực hiện điều ấy nơi Đức Ma-ri-a. Người Công giáo tin rằng cầu nguyện có thể
thực hiện điều giống như vậy nơi họ nếu họ theo gương Đức Ma-ri-a.
Tinh thần cầu nguyện của Đức Ma-ri-a
thể hiện một cách đặc biệt qua bài ca ngợi Thiên Chúa ngay sau khi Mẹ tới nhà
người chị họ (Lu-ca 1:45-55).
Tinh thần cầu nguyện của Mẹ cũng thể
hiện trong biến cố Đức Giê-su giáng sinh.
Khi nói về những biến cố xảy ra chung quanh việc Giáng sinh, sách Tin
Mừng nói rằng “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ
lại trong lòng” (Lu-ca 2:19).
Sau hết, tinh thần cầu nguyện của Đức
Ma-ri-a được biểu lộ qua sách Công vụ Tông Đồ.
Thánh Lu-ca nói rằng Mẹ hằng chuyên tâm cầu nguyện với các môn đệ Đức Giê-su
khi họ chuẩn bị đón nhận Thánh Thần hiện xuống (Cv 1:14).
NHỮNG LẦN HIỆN RA CỦA ĐỨC MA-RI-A
Qua nhiều thế kỷ, Ki-tô hữu đã báo cáo
về những lần Đức Ma-ri-a hiện ra. Rõ
ràng một số báo cáo này chỉ là sản phẩm do óc tưởng tượng quá đáng. Tuy nhiên nhiều lần hiện ra không dễ dàng
chối cãi được.
Vì có thể là do ảo giác hoặc tưởng
tượng quá đáng cho nên Giáo Hội rất dè dặt khi nhận được những báo cáo như
vậy. Giáo Hội điều tra kỹ càng (đôi khi
qua nhiều năm trời) trước khi tuyên bố là đáng tin hoặc không đáng tin.
Những thông điệp một số người được Mẹ
hiện ra nói rằng họ nhận được qua những lần hiện ra đều được coi là điều mặc
khải tư, để phân biệt với mặc khải qua Kinh Thánh.
Khi Giáo Hội “chấp thuận” một mặc khải
tư thì không có nghĩa là chúng ta phải tin những gì đã được người trông thấy Mẹ
kể lại. Nhưng đó chỉ có nghĩa là điều
mặïc khải ấy không có gì đi ngược lại đức tin và luân lý Công giáo. Giáo Hội không khi nào áp đặt những mặc khải
tư trên chúng ta. Cho nên người Công
giáo được tự do chấp nhận hoặc từ chối chúng.
TÓM KẾT
Vị thánh là người cũng giống như chúng ta, nhưng họ đúng
đắn thi hành lời mời gọi của Đức Giê-su:
“Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” (Gio-an 15:12). Vị thánh cho ta thấy rằng ân sủng của Thiên
Chúa có thể tạo nên phép lạ nơi chúng ta nếu chúng ta chỉ cần mở lòng đón
nhận. Đức Ma-ri-a cao trọng trên tất cả
mọi vị thánh. Cái nhìn của Công giáo về
Đức Ma-ri-a và các thánh được tóm lược trong kinh nguyện cảm động sau đây:
“Lạy Cha... Vinh
quang Cha rạng ngời nơi cộng đoàn các thánh...
“Cha dùng đời sống các ngài
làm gương cho chúng con học đòi bắt chước;
Cha cho chúng con được chung phần gia nghiệp
nhờ hiệp thông với các ngài;
Cha phù trợ chúng con
nhờ lời các ngài cầu thay nguyện giúp.
Được các chứng nhân có thế giá như vậy nâng đỡ,
chúng con xông vào cuộc chiến đời này
và nắm chắc phần thắng, để cùng với các ngài,
chúng con lãnh triều thiên vinh quang bất diệt,
nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.”
(Lời
Tiền tụng I, lễ kính các thánh nam nữ)
ĐỌC VÀ SUY NIỆM KINH THÁNH
- Lu-ca 1: 26-38 Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ!
- Lu-ca 1: 39-56 Hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc!
- Lu-ca 2: 22-35 Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn
bà!
- Gio-an 2: 1-12 Họ hết rượu rồi!
- Gio-an 19:
23-27 Đây là mẹ của anh!
THẢO LUẬN
1.
Thời Giáo Hội sơ khai, người ta tuyên phong một vị thánh như thế
nào? Thể thức đã được thay đổi ra
sao? Tại sao người Công giáo lại cầu
nguyện với các thánh?
2.
Quan điểm của Giáo Hội như thế nào về những lần hiện ra của Đức Ma-ri-a?
3.
Mẹ Ma-ri-a là mẫu gương môn đệ cho chúng ta như thế nào?
CHIA SẺ
1.
Hãy thảo luận những tư tưởng
sau đây:
- Các thánh là
chứng cớ sống động nói lên quyền năng ân sủng của Thiên Chúa để biến đổi bản
chất con người mỏng dòn chúng ta.
- “Máu các vị tử
đạo là hạt giống của Giáo Hội.” (Ter-tu-li-a-nô)
- “Các thánh là những người giúp cho người khác dễ dàng
tin Chúa hơn.” (Nathan Sodeblum)
2.
Một câu châm ngôn Trung Hoa
nói: “Không phải do tiếng kêu, nhưng
chính nhờ đôi cánh vỗ bay của một con vịt trời đã khiến cho cả đàn vịt bay
theo.” Áp dụng câu châm ngôn này thế
nào cho Đức Ma-ri-a, các thánh và ảnh hưởng của các ngài?
3.
Nhà văn Do-thái Franz Werfel
và vợ ông chạy trốn Đức quốc xã. Khi
lính biên phòng Tây-ban-nha từ chối không cho họ đi qua, họ liền đến tá túc gần
Lộ-đức, nơi có đền thánh nổi tiếng của Pháp kính Đức Mẹ. Đêm ấy Werfel đứng trước đền thánh và cầu
nguyện như sau: “Con không phải là một
tín hữu... Nhưng nếu như con có lầm
lạc, thì xin giúp con và vợ con.” Sau
này Werfel nói với một người bạn là sau khi cầu nguyện như thế, ông cảm thấy
rất bình an. Ít ngày sau ông cùng vợ
vượt biên giới vào Tây-ban-nha rồi xuống tàu sang Mỹ-châu. Việc đầu tiên ông làm khi tới Mỹ-châu là
viết lại câu truyện Lộ-đức, tựa đề cuốn sách là The Song of Bernadette
(Khúc ca của cô Bernadette). Cuốn sách
trở thành sách bán chạy nhất và được dựng thành phim nổi tiếng. Vậy điều gì có thể làm cho bạn tin rằng
những gì đã xảy đến cho Werfel và vợ ông không phải chỉ là sự trùng hợp?
4.
Bạn thấy điều gì hấp dẫn nhất
về lòng sùng kính của người Công giáo đối với Đức Ma-ri-a? Với các thánh? Điều gì ít hấp dẫn nhất?
5.
Bạn còn câu hỏi nào muốn biết về Đức Ma-ri-a hoặc các thánh?
The Catholic Vision IV – 30
Mark Link, S.J.
Chuyển
ngữ: Lm Trần đình Nhi
Về Trang Mục
Lục
Trở về trang Giáo Lý
Công Giáo
Trở Về Trang Nhà