“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không
được phân ly”.
(Mc 10,9)
Hôn nhân
không chỉ liên quan đến hai vợ chồng mà còn liên quan đến một phạm vi rộng lớn
hơn, từ họ hàng hai bên cho đến xã hội, bởi vì gia đình là tế bào căn bản của
xã hội. Gia đình có êm ấm thì xã hội mới ổn định và bền vững.
Vì mang
tính xã hội, nên hôn nhân cần được pháp luật chứng nhận và bảo vệ. Tại Việt
Nam, về mặt dân sự ta có luật “Hôn nhân và Gia đình” được Quốc Hội thông qua
ngày 09.6.2000, gồm 110 điều. Còn về mặt tôn giáo, trong bộ luật của Hội Thánh,
được gọi là giáo luật, ban hành ngày 25.01.1983, có 111 khoản về hôn nhân.
Luật của
Hội Thánh chỉ ràng buộc đối với người Công giáo[1].
Khi đưa ra những luật này, Hội Thánh nhắm giúp con cái mình xây dựng một cuộc
sống hôn nhân và gia đình bền vững, hạnh phúc, thánh thiện, thể hiện ơn gọi hôn
nhân và gia đình như ý Thiên Chúa muốn.
Để Bí tích Hôn phối thành sự,
cần những điều kiện sau:
- Phải là một người nam và một
người nữ, đã rửa tội[2].
- Hai người có tự do để kết hôn.
Tự do ở đây có nghĩa là:
. Không
bị ép buộc
. Không bị ngăn trở bởi luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh[3].
- Phải bày tỏ sự ưng thuận kết hôn của mình.
- Cử hành theo thể thức của Hội Thánh[4].
Ngăn trở
hôn phối là tình trạng hay hoàn cảnh làm cho cuộc hôn phối không thành sự hoặc
bất hợp pháp.
Để có
thể kết hôn thành sự, cả hai phải trong tình trạng tự do, không bị ngăn trở nào
theo luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh. Những ngăn trở thuộc luật tự nhiên dựa
trên hôn nhân như một định chế tự nhiên, chúng chi phối mọi người. Những ngăn
trở thuộc luật Hội Thánh dựa trên bản chất bí tích của hôn nhân, cũng như trên
mối liên hệ của hôn nhân với cộng đồng tín hữu, chỉ chi phối người Công giáo mà
thôi.
Các ngăn
trở hôn phối gồm có:
Để kết
hôn thành sự, nam phải đủ 16 tuổi, nữ phải đủ 14 tuổi[5].
Tuy nhiên, Hội Đồng Giám mục của mỗi quốc gia có quyền quy định tuổi cao hơn để
kết hôn hợp pháp[6]. Tại
Việt Nam, nam phải từ 20 tuổi trở lên, nữ 18 tuổi trở lên, theo như Luật Hôn nhân và
Gia đình điều 9.
Một
trong hai người trước khi kết hôn đã mắc chứng bất lực, không thể chữa trị được[7].
Bất lực khác với vô sinh. Bất lực là không thể giao hợp. Còn vô sinh là không
thể có con. Việc vô sinh không phải là một ngăn trở hôn phối[8].
Một trong hai người còn bị ràng
buộc bởi dây Hôn phối trước[9].
Ngăn trở này chỉ chấm dứt khi:
- Người phối ngẫu chết[10].
- Hôn nhân thành sự nhưng chưa hoàn hợp, được Đức Giáo
Hoàng đoạn tiêu vì lý do chính đáng[11].
- Hôn nhân giữa hai người chưa rửa tội được đoạn tiêu do
đặc ân Phaolô nhằm bảo vệ đức tin của bên lãnh nhận phép Rửa tội, do chính sự
kiện là bên được rửa tội lập hôn nhân mới, và bên không được rửa tội muốn phân
ly[12].
Một bên
Công giáo, còn một bên không Công giáo[13].
Những
người đã chịu chức thánh không thể kết hôn thành sự[14].
Những người có chức thánh gồm: Giám mục, linh mục và phó tế.
Những
người chính thức thuộc về một dòng tu bằng lời khấn công khai sẽ vĩnh viễn sống
khiết tịnh (hay còn gọi là khấn trọn đời, vĩnh khấn) không thể kết hôn thành sự[15].
Hôn nhân
bất thành đối với trường hợp bắt cóc người nữ để lấy cô ta[16].
- Giết vợ hay giết chồng mình (kể cả âm mưu hoặc đồng loã)
để lấy người khác.
- Giết vợ hay giết chồng của người phối ngẫu (kể cả âm mưu
hoặc đồng loã) để lấy họ[17].
- Theo
hàng dọc: hôn nhân bất thành giữa mọi người trong họ máu hàng dọc[18].
- Theo hàng ngang: hôn nhân bất thành cho tới hết 4 bậc[19].
Hôn
thuộc theo hàng dọc dù ở cấp nào cũng tiêu huỷ hôn phối[20].
Ví dụ, giữa cha chồng với con dâu, chàng rể với mẹ vợ. Tuy nhiên, theo hàng
ngang thì không bị ngăn trở. Ví dụ: anh chồng có thể lấy em dâu, vợ chết có thể
lấy em vợ.
Hay còn gọi là ngăn trở liêm sỉ. Ngăn trở này phát sinh do
cuộc hôn phối bất thành sau khi đã có sống chung, hoặc do tư hôn công nhiên hay
công khai. Ngăn trở này tiêu hủy hôn nhân giữa người nam với các người họ máu
của người nữ bậc một hàng dọc, và ngược lại[21].
Chẳng hạn: nếu anh X đã từng chung chạ với cô Y, thì không thể lấy mẹ hoặc con
riêng của cô Y; và cô Y cũng không thể lấy cha hoặc con riêng của anh X.
Những người có họ hàng thân thuộc pháp lý do nghĩa dưỡng,
ở hàng dọc hoặc hai bậc hàng ngang, không thể kết hôn với nhau thành sự[22].
Ngăn trở này làm hôn nhân bất thành giữa: con nuôi với cha mẹ nuôi; con nuôi
với cha mẹ hoặc con cháu ruột của cha mẹ nuôi; hai con nuôi của cùng một cha mẹ
nuôi.
Nếu mắc phải một trong các ngăn trở trên, dù hai người có
lấy nhau, hôn phối vẫn không thành. Đó chỉ là một sự chung chạ bất hợp pháp mà
thôi. Để kết hôn thành sự và hợp pháp, cần phải xin phép chuẩn. Tuy nhiên,
không phải ngăn trở nào Hội Thánh cũng có thể miễn chuẩn được.
Đối với
những ngăn trở thuộc luật tự nhiên, Hội Thánh không có quyền miễn chuẩn. Đó là những
ngăn trở:
- Do bất
lực[23].
- Do đã
kết hôn[24].
- Do có họ máu hàng dọc[25].
- Do có
họ máu hai bậc hàng ngang[26].
Đối với những ngăn trở chỉ do
luật Hội Thánh mà thôi thì Hội Thánh có quyền miễn chuẩn, và khi được miễn
chuẩn thì cuộc hôn nhân thành sự.
Các ngăn trở Hội Thánh có thể
miễn chuẩn khi có lý do chính đáng:
- Về tuổi tối thiểu.
- Về họ
máu ba bậc trở đi theo hàng ngang: bà con và anh em họ.
- Về họ kết bạn.
- Về tội ác (tội mưu sát phối
ngẫu)
- Về chức thánh.
- Về lời khấn.
- Về công hạnh.
- Về khác tôn giáo.
Riêng
đối với các cuộc hôn nhân khác tôn giáo, sở dĩ Hội Thánh dè dặt và thận trọng
chỉ vì yêu thương con cái. Muốn gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải hoà hợp. Tín
ngưỡng là một vấn đề quan trọng. Nếu có sự khác biệt thì dễ xảy ra xung khắc,
đe doạ sự hoà hợp, nhất là đối với việc giáo dục con cái. Tuy nhiên, cũng vì
tôn trọng tự do, Hội Thánh không cấm đoán. Hội Thánh hy vọng lòng đạo đức của
bên này sẽ thánh hoá bên kia[27].
Hội
Thánh coi việc hai người bày tỏ sự ưng thuận kết hôn là yếu tố cần thiết “làm
nên hôn nhân”. Thiếu sự ưng thuận này thì hôn nhân không thành[28].
“Sự ưng
thuận kết hôn là hành vi nhân linh - nghĩa là hành vi của con người có ý thức
và tự do -, trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau: “Anh nhận
em làm vợ”; “Em nhận anh làm chồng”. Sự ưng thuận này nối kết hai vợ chồng lại
với nhau và được thể hiện trọn vẹn khi hai người “trở nên một xương một thịt”
(x. St 2,24; Mc 10,8; Ep 5,31)[29]”.
Bởi vậy, “sự ưng thuận này phải là một hành vi ý chí của mỗi bên kết hôn, không
bị cưỡng bức vì bạo lực hay quá sợ hãi do một nguyên cớ bên ngoài. Không một
quyền hành nào của loài người có thể thay thế sự ưng thuận này. Nếu thiếu sự tự
do này, cuộc hôn nhân sẽ không thành[30]”.
Thiếu sự tự do ưng thuận thực sự
giữa hai bên, khi:
- Không có đủ trí khôn[31].
- Thiếu
trầm trọng trí phán đoán về những quyền lợi và nghĩa vụ chính yếu của hôn nhân[32].
- Vì bị
tâm thần không thể đảm nhận những nghĩa vụ chính yếu của hôn nhân[33].
- Vô
tri: Không biết hôn nhân là gì[34].
- Lầm
lẫn về người, hoặc về phẩm cách của người phối ngẫu[35].
- Lường
gạt[36].
Khi chủ ý lừa dối về sự có hay không một phẩm cách của mình, nhằm đạt được sự
ưng thuận của bên kia. Phẩm cách này quan trọng đến nỗi sau này khi khám phá ra
thì đời sống hôn nhân có thể bị tác hại trầm trọng.
- Giả vờ
ưng thuận, nhưng thực sự không muốn[37].
- Ưng
thuận với điều kiện về tương lai. Đặt điều kiện về tương lai thì hôn nhân bất
thành[38].
- Ưng
thuận vì bạo lực hoặc vì sợ hãi[39].
. Bạo
lực: nếu bị người khác dùng sức mạnh để cưỡng ép ưng thuận kết hôn thì sự ưng
thuận đó vô hiệu.
. Sợ
hãi: sự sợ hãi có thể làm cho hôn nhân vô hiệu khi hội đủ 3 đặc tính sau:
a. Sợ
hãi có tính cách trầm trọng chứ không phải vu vơ.
b. Sợ
hãi do nguyên nhân ngoại tại, nghĩa là do một người khác gây ra chứ không phải
do chính đương sự.
c. Sự sợ hãi có tính cách tất định, nghĩa là không có cách
nào khác để thoát khỏi sự đe dọa ngoại trừ ưng thuận kết hôn.
Để Hôn
nhân thành sự, đôi hôn phối cần phải cử hành theo thể thức của Hội Thánh: Hôn nhân
chỉ thành sự khi được kết ước trước mặt vị chứng hôn có thẩm quyền: hoặc cha
xứ, hoặc một linh mục, hay phó tế được một trong hai vị trên ủy quyền, cùng với
hai người làm chứng[40].
Linh mục
(hay phó tế) chứng giám nghi thức Hôn phối, nhân danh Hội Thánh nhận lời ưng
thuận của đôi hôn phối và chúc lành cho họ. Sự hiện diện của thừa tác viên Hội
Thánh và của những người làm chứng cho thấy rõ hôn nhân là một bậc sống trong
Hội Thánh[41].
Ngoài
ra, còn phải cử hành tại nhà thờ giáo xứ, nơi một trong hai người kết hôn có
chỗ thường trú, hoặc tạm trú một tháng. Nếu muốn cử hành nơi khác, phải có phép
của Đấng Bản quyền sở tại hoặc cha xứ.[42]
1. H. Để Bí tích Hôn phối thành sự phải có những điều
kiện nào?
T. Phải có bốn điều kiện này:
- Một là
một nam một nữ đã rửa tội.
- Hai là
có tự do kết hôn, không bị ép buộc cũng không bị ngăn trở bởi luật tự nhiên
hoặc luật Hội Thánh
- Ba là phải bày tỏ sự ưng thuận kết hôn.
- Bốn là cử hành theo thể thức của Hội Thánh.
2. H.
Ngăn trở hôn phối là gì?
T. Ngăn
trở hôn phối là những hoàn cảnh hoặc trường hợp làm cho cuộc phôn phối không
thành sự hoặc bất hợp pháp.
3. H. Có
bao nhiêu ngăn trở hôn phối?
T. Có 12 ngăn trở sau đây:
- Một là
chưa đủ tuổi kết hôn
- Hai là
bất lực, không thể sinh hoạt vợ chồng.
- Ba là
còn bị ràng buộc bởi hôn phối trước.
- Bốn là
khác tôn giáo.
- Năm là
chức thánh.
- Sáu là
khấn dòng.
- Bảy là
bắt cóc.
- Tám là
tội mưu sát phối ngẫu.
- Chín
là có họ máu.
- Mười
là có họ kết bạn.
- Mười
một là công hạnh.
- Mười hai là pháp tộc.
4. H.
Khi mắc ngăn trở thì phải làm gì?
T. Phải xin phép chuẩn. Tuy nhiên, có những ngăn trở Hội
Thánh cũng không thể miễn chuẩn được, đó là các trường hợp:
- Một là bất lực,
- Hai là còn bị ràng buộc bởi hôn phối trước.
- Ba là có họ máu theo hàng dọc.
- Bốn là có họ máu hai bậc theo hàng ngang.
5. H. Vì
sao sự ưng thuận kết hôn là yếu tố cần thiết làm nên hôn nhân?
T. Vì sự ưng thuận này nối kết hai vợ chồng lại với nhau
và được thể hiện trọn vẹn khi hai người “trở nên một xương một thịt”. Không một
quyền hành nào của loài người có thể thay thế sự ưng thuận này. Thiếu sự tự do
này, cuộc hôn nhân sẽ không thành.
6. H.
Những trường hợp nào thiếu sự tự do ưng thuận kết hôn?
T. Những
trường hợp sau đây:
- Một là
không có đủ trí khôn.
- Hai là
thiếu trầm trọng trí phán đoán về những quyền lợi và nghĩa vụ chính yếu của hôn
nhân.
- Ba là
vì tâm thần không thể đảm nhận những nghĩa vụ chính yếu của hôn nhân.
- Bốn là
vô tri, không biết hôn nhân là gì.
- Năm là
lầm lẫn về người, hoặc về phẩm cách của người phối ngẫu.
- Sáu là
lường gạt.
- Bảy là
giả vờ ưng thuận, nhưng thực sự không muốn.
- Tám là
ưng thuận với điều kiện về tương lai.
- Chín là ưng thuận vì bạo lực hoặc vì sợ hãi.
1. Vì
sao Hội Thánh lại có những điều luật về Hôn nhân? Đâu là mục đích của những
điều luật đó?
2. Vì sao trong việc lập gia đình, Hội Thánh nhấn mạnh
khía cạnh tự do ưng thuận?
3. Phải chăng Hội Thánh có thể miễn chuẩn mọi ngăn trở hôn
phối? Tại sao?
Lạy Chúa, chúng con
cảm tạ Chúa, vì Chúa hằng yêu thương chúng con. Xưa kia Chúa đã ban lề luật cho
dân Israel, để giúp họ sống trung thành với giao ước, xứng đáng là dân Chúa.
Chúa đã mời gọi chúng con bước vào đời sống hôn nhân và gia đình, để làm chứng
cho tình yêu của Chúa, và Chúa đã ban cho chúng con Hội Thánh, để hướng dẫn
chúng con. Xin giúp chúng con biết nghe theo lời giáo huấn của Hội Thánh, để
cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc như ý Chúa muốn. Amen.
[1]
x. GL 11; 1059; 1075 §2
[2]
GLHT 1625; x. GL 1055
[3]
GLHT 1625
[4]
GL 1108
[5]
GL 1083 §1
[6]
GL 1083 §2; xem thêm GL 1071 §1, 20 và 60; 1072
[7]
GL 1084 §1
[8]
x. GL 1084 §3
[9]
GL 1085 §1
[10]
GL 1141
[11]
GL 1142
[12]
GL 1143
[13]
GL 1086; 1124-1125
[14]
GL 1087
[15]
GL 1088
[16]
GL 1089
[17]
GL 1090
[18]
GL 1091,1; x. Luật HN và GĐ điều 10 §3
[19]
GL 1091 § 2
[20]
GL 1092
[21]
GL 1093
[22]
GL 1094
[23]
GL 1084
[24]
GL 1085; 1141
[25]
GL 1078 §3
[26]
GL 1078 §3
[27]
x. 1 Cr 7,14; GL 1124-1129
[28]
GLHT 1626
[29]
GLHT 1627; x. GL 1057 §2
[30]
GLHT 1628
[31]
GL 1095
[32]
GL 1095 §2
[33]
GL 1095 § 3
[34]
GL 1096
[35]
GL 1097, 1098
[36]
GL 1098
[37]
GL 1101
[38]
GL 1102
[39]
GL 1103
[40]
GL 1108
[41]
GLHT 1630
[42]
GL 1115; 1118