“Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng;
cũng vậy, chồng không có quyền trên
thân xác mình, nhưng là vợ.
Vợ chồng đừng từ chối nhau,
trừ phi hai người đồng ý sống như vậy
trong một thời gian,
để chuyên lo cầu nguyện;
rồi hai người lại ăn ở với nhau,
kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Satan lợi dụng để cám dỗ”
(1 Cr 7,4-5)
Hôn nhân
là một giao ước ký kết giữa một người nam và một người nữ, với ý thức tự do và
trách nhiệm, để sống trọn đời yêu thương nhau, sinh sản và giáo dục con cái.
Như vậy, đời sống hôn nhân và gia đình liên hệ tới giới tính (người nam, người
nữ), tính dục và tình dục (yêu thương nhau và sinh sản con cái). Khi nói tới
những vấn đề này, nhiều người có thái độ khinh bỉ vì cho là xấu xa tội lỗi, hay
lại quá đề cao để rồi lạm dụng bừa bãi.
Vì thế,
để có thái độ đúng đắn về những vấn đề này, chúng ta sẽ bàn tới 4 điểm sau đây:
vấn đề tính dục, vai trò quan trọng của tính dục trong đời sống hôn nhân, tính
dục phục vụ cho tình yêu vợ chồng, các nguyên tắc luân lý tính dục.
Để hiểu
đúng về vấn đề tính dục, thiết tưởng chúng ta cần phải giải thích các từ ngữ
liên hệ: giới tính (hay phái tính), tính dục và tình dục.
Giới
tính là tất cả những đặc điểm phân biệt người nam với người nữ.
Tính là
bản chất con người, dục là ước muốn được thể hiện ra bên ngoài. Tính dục là một
khuynh hướng tự nhiên nơi người nam và người nữ vận dụng giới tính để tìm kiếm,
hiểu biết và thương yêu nhau dù nam hay nữ.
Tình là
cảm xúc yêu thương trong tâm hồn, dục là ước muốn được thể hiện ra bên ngoài.
Tình dục là toàn bộ những cách thế mà người nam và người nữ vận dụng bản năng
giới tính để yêu thương, ước muốn kết hợp với nhau như vợ chồng.
So sánh
các giải thích trên ta thấy:
- Tính
dục khác với giới tính ở chỗ tính dục là sử dụng giới tính để gặp gỡ, yêu
thương, còn giới tính chỉ là đặc điểm của giới.
- Tính
dục vừa khác với tình dục vì tính dục bao hàm chung các quan hệ bạn bè, người
yêu,vợ chồng, còn tình dục nói riêng đến quan hệ vợ chồng.
Theo Lời
Chúa và giáo huấn của Hội Thánh, giới tính (người nam, người nữ), tính dục và
tình dục (những hoạt động mà mỗi giới vận dụng bản năng giới tính để gặp gỡ, yêu thương, trao
hiến và nên một với nhau) đều do Thiên Chúa phú ban để “bổ sung cho nhau về thể xác, tinh thần và tâm linh hướng đến đời sống hôn
nhân và gia đình[1]“.
Trong
bài này ta hiểu tính dục theo nghĩa bao hàm cả ý nghĩa của tình dục.
Giới
tính và tính dục là ân huệ Thiên Chúa ban cho con người. Con người là một thực
thể gồm xác và hồn. Xác và hồn không phải là hai phần cô lập nhau, nhưng chúng
liên hệ mật thiết với nhau, tác động lên nhau cách sâu xa. Do đó, khi vợ chồng
sử dụng giới tính để nên một với nhau và sinh sản con cái, thì đây không phải
chỉ là chuyện sinh lý thuần túy, mà còn liên quan đến điểm thâm sâu nhất trong
ngôi vị con người là tình yêu.
Như thế,
tính dục chỉ có giá trị nhân linh đích thực, nếu nó là thành phần không thể
thiếu được của tình yêu, một khi vợ chồng đã cam kết hiến thân trọn vẹn cho
nhau trong suốt cả cuộc đời[2].
Tình yêu
vợ chồng là một tình yêu vị tha, trao hiến và đón nhận nhau suốt đời, nên là
một thứ tình yêu vị tha cao cấp nhất giữa người với người. Chính vì thế, tính
dục có một vai trò quan trọng trong tình yêu vợ chồng. Nó là ngôn ngữ của tình
yêu, giúp con người thông đạt với nhau một cách sâu xa nhất.
Việc vợ
chồng vận dụng các năng lực về giới tính để trao hiến trọn vẹn cho nhau, hầu
đem lại một cảm xúc hoan lạc sâu xa, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sức khỏe, sự quân
bình trí não, làm cho vợ chồng ngày càng trưởng thành hơn trong tình yêu, nghĩa
là vừa biết trao hiến vừa biết đón nhận trong sự tôn trọng và yêu thương nhau;
điều này rất cần thiết cho sự chung thủy của vợ chồng và sự êm ấm của gia đình.
“Chính
Đấng Tạo Hóa đã muốn rằng trong nhiệm vụ truyền sinh đôi vợ chồng cảm thấy một
sự vui thú và thỏa mãn nơi thân xác và tinh thần. Vì vậy, vợ chồng chẳng làm
điều gì xấu khi tìm kiếm và tận hưởng sự khoái lạc đó. Họ đón nhận những gì
Đấng Tạo Hóa đã ban cho. Tuy nhiên, họ phải biết giữ tiết độ[3].”
Tình yêu
vợ chồng vừa bao gồm, lại vừa vượt qua tình bạn thông thường để trao hiến trọn
vẹn theo nam tính và nữ tính của mình, nhờ đó họ lập thành một cộng đồng các
ngôi vị. Từ cộng đồng này, Thiên Chúa muốn có một con người khác được hình
thành, sinh ra và lớn lên.
Thiên
Chúa không muốn sự trao hiến của vợ chồng dừng lại trong cuộc sống lứa đôi, mà
còn mở ngỏ cho việc trao hiến lớn lao hơn, đó là cộng tác với Ngài để trao ban
sự sống cho một con người khác. Việc mở ngỏ cho sự sống này là dấu chỉ chứng
minh tình yêu vợ chồng có giá trị đích thực. Chính từ sự hiệp thông vì tình yêu
và sự sống này, vợ chồng đạt được sự phong phú về nhân bản cũng như tâm linh,
và tạo được bầu khí tích cực rất cần cho việc giáo dục con cái về tình yêu và
đức khiết tịnh.
Thiên
Chúa Tình Yêu đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, và Ngài đã tạo dựng họ
có nam có nữ. Thiên Chúa không có giới tính, nhưng con người thì được dựng nên
có giới tính, nên có thể nói chỉ khi nào nam tính và nữ tính kết hợp nên một
trong hôn nhân, thì đó mới là hình ảnh trọn vẹn của Thiên Chúa.
Giới
tính vừa là ân sủng lớn lao của Đấng Tạo Hóa, vừa có tính chất thể lý và trần
tục. Chính Thiên Chúa đã muốn con người có nam có nữ, và chính Ngài cũng muốn
cả hai thành một xương một thịt (x. Mt 19, 4-5), nhờ đó con người có thể diễn
tả được sự phong phú của Thiên Chúa.
Khi vợ
chồng thành một xương một thịt trong hôn nhân, và khi sự trao hiến này diễn tả
việc vợ chồng bổ sung cho nhau, thì tình yêu vợ chồng trở thành sức mạnh làm
cho hai người được thêm phong phú và tăng trưởng, đồng thời góp phần xây dựng
nền văn minh tình yêu. Trái lại, khi những hành vi tính dục không mang ý nghĩa
bổ sung và trao hiến cho nhau, thì nó chỉ làm phát sinh một nền văn minh đồ
vật, trong đó con người bị sử dụng chẳng khác nào như một thứ đồ vật. Trong bối
cảnh của nền văn minh hưởng thụ, người nữ có thể trở thành một thứ đồ vật cho
người nam, và con cái trở thành một chướng ngại vật cho cha mẹ.
Ước gì
đôi bạn luôn đến với Lời Chúa để nhận được ánh sáng và sức mạnh trong lãnh vực
này: “Anh em không biết thân xác anh em là
đền thờ Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong anh em mà anh em đã lãnh nhận nơi Thiên
Chúa, và anh em không còn thuộc về chính mình nữa sao? Vì anh em đã được mua
chuộc bằng một giá rất lớn. Vậy anh em hãy tôn vinh Chúa trong thân xác anh
em.” (1Cr 6,19-20).
Tính dục
là ngôn ngữ của tình yêu vợ chồng, giúp vợ chồng thông hiệp với nhau, đem lại
cho nhau niềm hoan lạc chính đáng và trao ban một sự sống khác. Vì vậy, để có
thái độ đúng đắn về vấn đề tính dục trong đời sống vợ chồng, đôi bạn phải nắm
vững một số nguyên tắc luân lý sau đây:
Trong
khuôn khổ hôn nhân tự nhiên và hôn nhân Công giáo, các hành vi thực hiện sự kết
hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quý và chính đáng[4].
Tự hiến cho nhau trong sinh hoạt vợ chồng là hành vi cần
thiết để biểu lộ tình yêu, làm phát sinh sự sống và nâng đỡ cho lòng trung tín.
- Dấu hiệu biểu lộ tình yêu. Thiên Chúa là
Tình Yêu. Ngài sống mầu nhiệm hiệp thông và tình yêu nơi chính bản thân. Khi
tạo dựng con người theo hình ảnh mình và tạo dựng họ có nam có nữ, Thiên Chúa
trao ban cho họ một thiên chức; do đó họ có khả năng và trách nhiệm sống yêu
thương và hiệp thông.
- Dấu hiệu làm phát sinh sự sống. Người nam
và người nữ, bình đẳng về phẩm giá, dù với cách thức khác nhau, cả hai đều là
hình ảnh của Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Sự kết hợp giữa người nam và
người nữ trong hôn nhân mô phỏng nơi thân xác con người sự quảng đại và sung
mãn của Đấng Tạo Hóa: “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả
hai thành một xương một thịt” (St 2, 24). Sự kết hợp này giúp bảo tồn giống
nòi.
- Dấu hiệu biểu lộ lòng trung tín. Tình yêu
chân thật đòi phải trung tín. Nhờ các hành vi tự nguyện trao hiến, đôi bạn được
hỗ trợ để mãi mãi
gắn bó, trong tư tưởng cũng như trong thân xác, lúc bĩ cực cũng như hồi thái
lai, nhờ đó tránh được mọi thứ ngoại tình và bất tín.
Luân
lý Công giáo tôn trọng thân xác, nhưng không quá đề cao hành vi giới tính.
Thiên
Chúa tạo dựng con người có hồn và xác. Chính việc Ngôi Hai xuống thế làm người
và việc Đức Kitô sống lại từ cõi chết, là bằng chứng xác nhận giá trị của thân
xác. Niềm tin “xác loài người ngày sau sống lại” cũng khẳng định giá trị của
thân xác. Thật vậy, thân xác có một giá trị nhất định trong chương trình cứu độ
của Thiên Chúa.
Tuy
nhiên, thân xác không phải là tất cả con người. Các hành vi sinh lý chỉ có giá
trị giới hạn. Chúng chỉ đáng quý trọng khi được thực hiện phù hợp với luật lệ
của Thiên Chúa. Do đó, không thể quá đề cao hành vi trao hiến đến độ làm phương
hại các giá trị cao quý khác của con người.
Đời
sống hôn nhân Công giáo phải là đời sống trong sạch và tiết độ.
Không phải chỉ bậc tu trì, mà mọi người, kể
cả những người sống bậc vợ chồng, đều được mời gọi giữ đức khiết tịnh: “Mỗi
người giữ đức khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình: người này trong bậc trinh
khiết hay độc thân của đời thánh hiến, một cách thức dễ dàng tận hiến trọn vẹn
tâm hồn cho Thiên Chúa; kẻ khác trong bậc gia đình hay độc thân, tùy theo luật
luân lý xác định[5].”
Sống
khiết tịnh là làm chủ giới tính, giúp ta làm chủ bản thân, nhờ đó, ta có thể
thống nhất đời sống và hiến thân trọn vẹn[6].
Người có
gia đình cần sống khiết tịnh, nghĩa là sống trong sạch và tiết độ, bởi vì:
- Trong sạch và tiết độ qua hành vi
ân ái là thước đo tinh thần xả kỷ, hiến thân vì hạnh phúc và nhu cầu của người
mình yêu.
- Trong sạch và tiết độ còn là sự biểu lộ mức trưởng thành
và tự chủ của đôi bạn biết yêu thương và kính trọng nhau.
- Phải trong sạch trong thân xác: lạc thú tính dục được
Thiên Chúa sắp đặt để nâng đỡ đời sống hôn nhân và gia đình. Do đó, chỉ những
ai là vợ chồng của nhau mới có quyền trên xác của nhau.
Những
lỗi phạm đến đức khiết tịnh và xúc phạm đến phẩm giá hôn nhân gồm có:
- Dâm ô là ham muốn sai trái hay hưởng thụ vô độ khoái lạc tình
dục. Khoái lạc tình dục trở thành sai trái, khi con người chỉ tìm hưởng thụ để
thỏa mãn chính mình, chứ không nhằm mục đích truyền sinh và kết hợp trong tình
yêu[7].
- Thủ dâm là
cố tình kích thích cơ quan sinh dục nhằm gây khoái lạc tình dục. Thủ dâm tự bản
chất là một hành động sai trái nghiêm trọng, vì tự ý sử dụng khả năng tình dục
ngoài quan hệ vợ chồng bình thường, dù với động lực nào đi nữa, cũng là sai mục đích. Làm như vậy,
người ta hưởng thụ khoái lạc tình dục bên ngoài “quan hệ tình dục hợp luật luân
lý là quan hệ thực hiện một sự hiến thân
trọn vẹn cho nhau và thực hiện việc truyền sinh trong khuôn khổ của tình yêu
đích thực[8].”
- Tà dâm là
quan hệ xác thịt giữa một người nam và một người nữ chưa lập gia đình. Đây là
lỗi nặng, xúc phạm đến nhân phẩm và giới tính của con người, vốn qui về lợi ích
của đôi vợ chồng, cũng như sinh sản và giáo dục con cái[9].
- Khiêu dâm
cố ý phơi bày những hành vi tình dục thầm kín. Chúng xúc phạm đến đức khiết
tịnh vì làm biến chất hành vi ái ân là việc trao ban thầm kín của vợ chồng với
nhau[10].
- Mại dâm
xúc phạm đến phẩm giá của người bán dâm vì họ biến mình thành trò vui xác thịt
cho người mua dâm. Kẻ mua dâm phạm tội nặng nơi bản thân: họ vi phạm đức khiết
tịnh đã cam kết khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, và làm ô uế thân xác là đền
thờ Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 6,15-20). Mại dâm là một đại họa cho xã hội. Mại
dâm bao giờ cũng là tội trọng; nhưng trách nhiệm của kẻ mại dâm có thể giảm
khinh vì túng bấn, bị hăm dọa hay áp lực xã hội[11].
- Hiếp dâm
là dùng bạo lực bắt kẻ khác quan hệ xác thịt với mình. Đây là tội phạm đến công
bằng và bác ái. Hiếp dâm xúc phạm nặng nề đến quyền được tôn trọng, quyền tự do
và toàn vẹn thể lý cũng như tinh thần của nạn nhân, gây thương tổn nghiêm trọng
có thể kéo dài cả cuộc đời của nạn nhân. Hiếp dâm tự nó là một hành vi xấu xa,
tội này lại càng nặng nề hơn nữa, khi cha mẹ hay người giáo dục lạm dụng thân
xác các em được ủy thác cho họ[12].
- Đồng tính luyến ái
là những liên hệ tính dục giữa những người cùng giới tính[13].
- Ngoại
tình là tội vợ chồng thất tín với nhau. Khi hai người nam nữ có quan
hệ tính dục với nhau, dù là nhất thời mà trong đó có ít nhất
một người đã kết hôn, thì cả hai phạm tội ngoại tình. Đức Kitô lên án tội này
ngay cả khi chỉ là một ước muốn[14].
Điều răn thứ sáu và Tân Ước tuyệt đối cấm tội ngoại tình[15].
Ngoại tình là điều
bất công vì không thực hiện những cam kết của mình, làm tổn hại đến dây liên
kết hôn nhân là dấu chỉ của giao ước, vi phạm quyền của người phối ngẫu và xâm
phạm định chế hôn nhân khi lỗi phạm hôn ước. Người ấy làm phương hại đến lợi
ích của việc sinh sản và của con cái vốn cần đến sự kết hợp bền vững của cha mẹ[16].
- Ly dị vi
phạm nghiêm trọng luật tự nhiên, phế bỏ khế ước mà vợ chồng đã tự do ưng thuận
để sống với nhau cho đến chết. Ly dị làm tổn hại giao ước cứu độ mà bí tích Hôn
phối là dấu chỉ. Người tái hôn, sau khi ly dị, phạm tội ngoại tình công khai và
thường xuyên: “Nếu người chồng, sau khi đã chia ly với vợ mình, ăn ở với một
người phụ nữ khác, thì phạm tội ngoại tình, vì làm cho phụ nữ đó cũng phạm tội
ngoại tình; người phụ nữ ăn ở với người đàn ông đó phạm tội ngoại tình vì đã dụ
dỗ chồng của người khác” (T. Baxiliô, nguyên tắc luân lý 73). Ly dị là phi luân
vì làm xáo trộn gia đình và xã hội. Việc xáo trộn này kéo theo nhiều tổn hại
nghiêm trọng: cho người phối ngẫu vì bị ruồng bỏ; cho con cái phải đau khổ vì
cha mẹ phân ly, và lắm khi còn bị dằng co không biết theo ai; cho xã hội vì
hiệu quả lây lan của nó, nó thực sự là một tai ương cho xã hội[17].
- Đa thê
tuyệt đối nghịch lại với sự hiệp thông giữa vợ chồng: trực tiếp chối bỏ kế
hoạch của Thiên Chúa đã được mặc khải cho ta từ buổi đầu, nghịch với phẩm giá
bình đẳng của người nữ và người nam, cả hai hiến thân cho nhau trong một tình
yêu trọn vẹn, duy nhất và độc hữu[18].
- Loạn luân
là quan hệ tính dục giữa những người họ hàng cùng huyết tộc, mà luật cấm kết
hôn với nhau[19].
Thánh Phaolô lên án trọng tội này[20]. Tội loạn luân phá vỡ quan hệ gia đình và cho thấy một sự
thoái hóa trở về thú tính[21].
Có thể gọi là loạn
luân, những lạm dụng tính dục do những người trưởng thành đối với trẻ con hoặc
thiếu niên đã được ủy thác cho họ. Người phạm tội này phải chịu trách nhiệm gấp
đôi: một mặt vì gây gương xấu xâm phạm đến sự toàn vẹn thể lý và luân lý của
các người trẻ, và để lại hậu quả tai hại suốt đời, mặt khác vì họ lỗi trách
nhiệm giáo dục của mình[22].
- Tự do sống chung
là khi nam nữ sống chung như vợ chồng nhưng không cưới xin, từ chối kết hôn
theo đúng bản chất của hôn nhân, không thể ràng buộc nhau bằng những cam kết
dài lâu.[23] Tất
cả những trường hợp này xúc phạm phẩm giá của hôn nhân, phá hủy ý niệm về gia
đình, làm suy giảm cảm thức về lòng thủy chung. Chúng nghịch với luật luân lý:
hành vi tính dục chỉ được chấp nhận trong hôn nhân; còn nếu ngoài hôn nhân, thì
đó là một tội trọng và không được hiệp thông các bí tích[24].
- Hôn nhân thử
là nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng tạm thời để thử, rồi sau đó, nếu hợp
thì sẽ kết hôn. Tuy nhiên, dù họ có quyết tâm kết hôn, cũng không thể bảo vệ
giữa họ là chân thật và thủy chung, và nhất là giữ cho quan hệ này khỏi những ý
muốn ngông cuồng và nông nổi. Về phương diện luân lý, sự kết hợp xác thịt chỉ
hợp pháp khi đã chính thức kết hôn. Tình yêu không chấp nhận thử nghiệm; nhưng
đòi hỏi hiến thân cho nhau trọn vẹn và dứt khoát[25].
1. H.
Tính dục là gì?
T. Tính dục là khuynh hướng tự nhiên Thiên Chúa
đặt nơi con người để tiếp xúc, gặp gỡ với người khác, dù là nam
hay nữ, hoặc để người nam và người nữ yêu thương nhau hướng tới hôn nhân và gia
đình.
2. H.
Tính dục phục vụ cho tình yêu vợ chồng thế nào?
T. Các
hành vi tính dục giúp đem lại niềm hoan lạc cho đời sống vợ chồng và làm cho họ
gắn bó nên một với nhau một cách sâu xa. Ngoài ra, còn giúp tình yêu vợ chồng
mở ngỏ cho sự sống và diễn tả sự phong phú của Thiên Chúa, cũng như góp phần
xây dựng nền văn minh tình yêu.
3. H. Vợ
chồng cần nắm vững những nguyên tắc luân lý nào trong đời sống tính dục?
T. Vợ
chồng cần nắm vững những nguyên tắc luân lý sau đây:
- Một là các hành vi tính dục được thực hiện trong khuôn
khổ hôn nhân đều chính đáng và cao quý.
- Hai là luân lý Công giáo tôn trọng thân xác, nhưng không
quá đề cao hành vi tính dục.
- Ba là đời sống hôn nhân Công giáo phải là đời sống trong
sạch và tiết độ.
5. H. Sự
khiết tịnh trong đời sống hôn nhân là gì?
T. Sự
khiết tịnh trong đời sống hôn nhân là biết làm chủ giới tính, nhờ đó vợ chồng
ăn ở với nhau một cách tiết độ.
6. H. Có
những tội nào phạm đến đức khiết tịnh?
T. Có những tội này là: dâm ô, thủ dâm, tà dâm, khiêu dâm,
mại dâm và hiếp dâm.
7. H. Có
những tội nào xúc phạm đến phẩm giá hôn nhân?
T. Có
những tội này là: ngoại tình, ly dị, đa phu, đa thê, loạn luân, đồng tính luyến
ái và tự do sống chung như vợ chồng.
1. Tình yêu không chấp nhận thử nghiệm, nhưng đòi hỏi hiến
thân cho nhau trọn vẹn và dứt khoát. Anh chị nghĩ gì về điều đó?
2. Anh chị nghĩ thế nào về hiện tượng trong xã hội hiện
nay: Tự do sống chung – nhiều bạn trẻ chung sống với nhau như vợ chồng mà không
cần bất cứ một thủ tục kết hôn nào.
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa đã tạo dựng nên chúng con có
nam có nữ, để như người nam và người nữ chúng con yêu thương nhau và trở nên
biểu tượng tình yêu của Chúa.
Bởi vì Chúa đã ban cho chúng con một thân xác để diễn tả
tình yêu của chúng con: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa.
Bởi vì Chúa đã ban cho chúng con một thân xác để chúng con
nhận ra nhau, hiểu biết nhau và cùng chia sẻ vui buồn với nhau: Lạy Chúa, chúng
con cảm tạ Chúa.
Bởi vì Chúa ban cho chúng con một thân xác để giúp chúng con
kết hiệp trong tâm hồn trọn vẹn hơn: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa.
Bởi vì Chúa đã ban cho chúng con một thân xác để chúng con
ca tụng ngợi khen Chúa: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa.
[1]
GLHT 2333
[2]
x. GD 11
[3]
ĐGH Piô XII, Bài giảng ngày 29.10.1951
[4]
MV 49,2; GLHT 2362
[5]
x. GLHT 2349
[6]
x. GLHT 2337 và 2395
[7]
GLHT 2351
[8]
GLHT 2352; x. CDF, déd. “Persona humana” 9
[9]
GLHT 2353
[10]
x. GLHT 2354; 2523
[11]
GLHT 2355
[12]
GLHT 2356
[13]
x. GLHT 2357
[14]
x. Mt 5,27-28
[15]
x. Mt 5,32; 19,6; Mc 10,11; 1Cr 6,9-10
[16]
GLHT 2380-2381
[17]
GLHT 2384-2385
[18]
GLHT 2387; x. GĐ 19; MV 47,2
[19]
x. Lv 18,7-20
[20]
x. 1 Cr 5,1.4-5
[21]
GLHT 2388
[22]
GLHT 2389
[23]
x. GĐ 81
[24]
GLHT 2390
[25]
GLHT 2391 ; x. GĐ 80