"Sạch, sạch,
sạch" –
Cuộc cách-mạng
tâm-linh
Giáo-hội hôm
nay quan-liêu, sợ-sệt và tính-toán kiểu loài người. Giáo-hội có cần tăng-cường
suy-tư trực-giác để chống lại việc quá đề-cao lí-trí không? Có cần đề-cao
chiêm-niệm và quay về lại với các giá-trị tâm-linh đã bỏ quên quá lâu? Hồng-y
Veuillot, cựu giám-mục giáo-phận Paris có lần phát-biểu: "Tất-cả phải
tinh-tuyền, sạch, sạch, sạch. Cái ta cần là một cuộc cách-mạng tâm-linh
thực-sự". Phải chăng Giáo-hội chỉ có thể còn có những lớp người nối-tiếp,
nếu Giáo-hội thực-sự tinh-tuyền, trinh-trong?
Câu hỏi của ông một
cách nào đó đã là câu trả lời rồi. Tôi vẫn thường nói chúng ta quá quan-liêu.
Bởi thế cần có cách làm việc đơn-giản hơn. Không phải mọi chuyện đểu phải qua
các ủy-ban, đôi khi cũng nên có những tiếp-xúc cá-nhân. Không thể giải-quyết
mọi chuyện cách thuần-lí. Mặc dầu Ki-tô giáo cho rằng mình hành-xử hợp lí và
kêu-gọi sử-dụng lí-trí, nhưng còn nhiều cách nhận-diện thực-tại khác nữa. Chúng
ta vừa nói chuyện về đối-thoại liên tôn và khoa thần-bí. Đây là cách
tập-trung suy-tư và lắng-đọng tâm-hồn
đặc-biệt cần-thiết trong một thế-giới sôi-động. Karl Rahner có câu nổi tiếng:
"Kitô-hữu ngày mai hoặc sẽ là một nhà thần-bí hoặc sẽ không phải là nhà
thần-bí". Tôi không đòi-hỏi chuyện cao-xa như thế, vì con người luôn vẫn
là người. Chúng ta vẫn luôn yếu-đuối, nên không phải tất-cả chúng ta sẽ trở
thành những nhà thần-bí. Nhưng câu nói đó đúng ở chỗ là Ki-tô giáo sẽ bị chết
ngạt, nếu chúng ta không biết lắng-đọng tâm-hồn để cho đức tin đi vào chiều sâu
cuộc sống của mỗi chúng ta, nâng-đỡ và soi-sáng ta. Chỉ biết hành-động và
giải-quyết thuần-lí không thôi chưa đủ. Điều rất hệ-trọng là tìm lại cái đơn-thuần,
tìm về nội-tâm và về những cách nhận-biết thực-tại vượt ra bên ngoài và bên
trên lí-trí.
Hồi-tưởng
tâm-linh phải chăng cũng có nghĩa là tìm lại đức tin đơn-sơ phù-hợp với những
yếu-tố nền-tảng của Ki-tô giáo ?
Đôi khi vấn-đề này
có vẻ cầu-kì khiến người ta tưởng chỉ lớp người uyên-bác mới nắm vững. Khoa
chú-giải Kinh thánh cống-hiến cho ta nhiều chi-tiết hữu ích, nhưng cũng gây
ấn-tượng Kinh thánh quá cầu-kì khiến người bình-dân không hiểu nổi. Ta phải
biết Kinh thánh được viết cho mỗi người, là quà tặng đặc-biệt cho những người
đơn-sơ. Về điểm này tôi công-nhận một phong-trào phát-sinh từ lòng thần-học giải-phóng
có lí khi họ nói tới interpretacion popular (cách diễn-giải bình-dân). Theo họ người bình-dân là
sở-hữu chủ của Kinh thánh và chính họ mới là người cắt nghĩa Kinh-thánh. Điều
này đúng ở điểm chủ-yếu, vì Kinh thánh được ban cho những người đơn-sơ. Họ chẳng
cần quan-tâm đến những chi-tiết khúc-mắc, họ hiểu Kinh thánh muốn nói gì. Nhưng
thần-học với những kiến-thức sâu-rộng sẽ không trở nên thừa-thãi; không những
thế, nó còn rất cần-thiết trong việc đối-thoại văn-hoá thế-giới. Tuy nhiên
thần-học không được phép làm mờ khía-cạnh hết sức đơn-giản của đức tin, một đức
tin đặt ta trước mặt một Thiên-chúa, đấng đã giáng trần làm người nên ở gần bên
tôi.
Ngài có thể
nghĩ rằng sau những mất-mát về lượng, nhiều tín-hữu bỏ cuộc, cắt đứt mọi
liên-hệ tinh-thần với Ki-tô giáo, rồi ra một phẩm-chất mới của Ki-tô giáo sẽ có
thể bảo-tồn và tinh-đọng được đức tin
không? Hồng-y Lustiger nói, văn hóa
đương-thời không khai-tử tôn-giáo, có dấu-hiệu khai-tử tôn-giáo, trong đó có
Ki-tô giáo. Trái lại nó đưa ra đề-án và dự-thảo cho phép linh-cảm những khởi
đầu. Ngài nói : «Nhân loại chỉ sống, nếu họ muốn; ngày nay họ đang đứng
trước toà chung-thẩm từng phút từng giây». Ngày nay con người có thể tự-do mặc sức phá-huỷ nguồn
sống trên trái đất. Cũng thế, họ được tự-do trở thành ki-tô-hữu, chứ không bị
ép-buộc như xưa. Hồng-y Lustiger diễn-giải, giờ mới là lúc con người đứng trước
"những khởi đầu của thời-đại ki-tô giáo". Ngài có thể chia-sẻ
quan-điểm này không?
Tôi không dám nói
chúng ta đang đứng trước những khởi đầu của thời-đại ki-tô giáo. Bởi thời-đại
ki-tô giáo thực ra là gì ? Điều tôi thực-sự có thể chia-sẻ là Ki-tô giáo
luôn có cơ may làm cuộc khởi đầu mới. Tôi đã từng viết, Ki-tô giáo luôn vừa là
một hạt cải vừa là một cây lớn, vừa là thứ sáu tuần thánh vừa là chủ nhật phục-sinh.
Thứ sáu tuần thánh chưa bao giờ chấm dứt hẳn, nó vẫn còn đó và Giáo-hội chưa
bao giờ là một cây đã phát-triển hết cỡ, nếu vậy nó sẽ có lúc khô-héo và
lụi-tàn, trái lại Giáo-hội luôn trong tình-trạng hạt cải. Trong ý-nghĩa này tôi
đồng ý với Hồng-y là chúng ta lại đang đứng trước một khởi đầu mới và có quyền
nuôi hi-vọng. Tin vào Chúa một cách hoàn-toàn tự-do và tin như bằng-chứng chống
lại thế-giới đã cạn-kiệt sinh-lực, là một nghĩa-vụ mang lại những hi-vọng và
những khả-năng mới cho cuộc sống ki-tô giáo. Chính thời-đại Ki-tô giáo sa-sút
về lượng có thể đem lại cho ta sinh-lực mới để ta sống Ki-tô giáo ý-thức hơn.
Hiểu như vậy, có thể nói quả thực ta đang đứng trước một kiểu thời-đại ki-tô
giáo mới. Ở đây tôi không dám tiên-tri chuyện đó tới sớm hay muộn. Tôi chỉ muốn
nhấn mạnh là trong Ki-tô giáo luôn có cuộc khởi đầu mới. Những khởi đầu như thế
đã có hôm nay và sau này vẫn có như vậy. Nó sẽ đem lại những hình-thức sống đạo
mới và đầy sinh-lực.
Cách đây
nhiều năm ngài từng bày-tỏ hi-vọng, có gì như là « giờ phút cuả Thánh-linh
trong Giáo-hội» đang nhen-nhúm. Ngài nói, có những nhóm người trẻ thoải-mái
dấn-thân hoàn-toàn cho niềm tin Giáo hội, cho một "công giáo tính trọn-vẹn
không chia-cắt". Ta có cần những ki-tô-hữu mới, can-trường và hãnh-diện
hơn không? Có lần ngài đòi-hỏi, Giáo-hội ngày nay không cần những nhà cải-cách,
nhưng cần những thánh-nhân mới, biết tựa vào chính sức mạnh tiềm-ẩn của đức tin
mà tái khám-phá kho-tàng đức tin và tính bất khả nhượng của nó.
Trước hết hãy bàn
tới từ "nhà cải-cách / thánh-nhân": Mỗi thánh-nhân là một nhà
cải-cách, nghĩa là người đó làm cho Giáo-hội sinh-động và thanh-tẩy Giáo-hội.
Tuy nhiên người ta thường hiểu nhà cải-cách là người thực-hiện những biện-pháp
có tính-cách cơ-cấu tổ-chức và hành-động trong phạm-vi này. Nếu hiểu như thế,
thì không khẩn-thiết cần họ lúc này. Cái ta thực-sự cần là những người được
Ki-tô giáo « hút hồn »; họ sống Ki-tô giáo như nguồn hạnh-phúc và
hi-vọng, qua đó họ trở thành ngọn lửa tình yêu và ta gọi họ là thánh-nhân.
Những nhà cải-cách
đúng nghĩa của Giáo-hội luôn là những vị thánh; nhờ họ mà Giáo-hội có được bộ
mặt đơn-sơ hơn và con đường dẫn tới đức tin dễ đi hơn. Một Biển-đức vào cuối
thời thượng-cổ đã tạo ra một lối sống đạo trải dài suốt thời di-dân. Một
Phan-sinh và Đa-minh đã dấy lên một phong-trào đại-chúng trở về với tinh-thần
khó-nghèo, đơn-sơ và niềm vui của Tin mừng hoàn-toàn mới giữa một Giáo-hội
phong-kiến và xơ-cứng. Hay ta trở về thế-kỷ 16. Công-đồng Trentô rất
quan-trọng, nhưng cuộc canh-tân giáo-hội Công giáo cuả công-đồng chỉ thực-hiện
được nhờ những vị thánh như Tê-rê-xa ở Avila, Gio-an Thánh-giá, Y-nhã ở Loyola,
Ca-rô-lô Bô-rô-mê-ô và nhiều vị khác, những người thấm-nhuần đức tin và sống nó
một cách đặc-thù, tạo nên những lối sống đạo giúp thực-hiện những cải-cách
cần-thiết làm Giáo-hội phục-hồi. Vì thế tôi không tin ngày nay công-cuộc
cải-cách giáo-hội nhất-thiết sẽ đạt được qua các nghị-hội và công-đồng, mặc dầu
những thứ này cũng nên và cần có, nhưng sẽ đến từ những con người có sức
thuyết-phục mà ta gọi là thánh-nhân.
Giáo-hội cống-hiến
những cơ-may mới
cho thế-giới
Trong
tông-thư về ngàn năm thứ ba đang đến, Giáo-chủ nhấn mạnh: "Giáo-hội… như
một cây cao vươn cành lá che-chở toàn-thể nhân-loại". Điểm tôi cho là
quan-trọng trong suy-tư này là: Trước tình-trạng thiếu-hụt trầm-trọng về
nhận-thức và khả-năng quyết-định của thời-đại hôm nay, ta cần có những cố-vấn
đáng tin. Đó là những nhân-vật hoặc hay hơn nữa là những định-chế như thẩm-cấp
cao hơn -, không bị lay-chuyển trong thời-buổi nhiễu-nhương. Thứ xã-hội mở ta muốn duy-trì đang càng ngày
càng đòi-hỏi ta quá nhiều chuyện. Nó bỏ mặc ta giữa muôn vàn cơ-hội, buộc ta
phải có quyết-định; nó xô ta vào giữa những thứ tự-do thường là vô ích và có
hại mà ta không làm chủ được nữa. Để bảo-tồn những cơ-may của xã-hội mở và đồng
thời giúp ta tránh rơi vào những hệ-thống độc-tài, có lẽ phải tăng-cường bảo-vệ
nền dân-chủ bằng những hệ-thống kín, nghĩa là bằng những mô-hình có thể tồn-tại và có khả-năng phán-đoán không tùy-thuộc
dư-luận nhất-thời hay lựa-chọn tình-cờ.
Ông nêu lên vấn-nạn:
Giáo-hội có thế đứng nào trong thể-chế xã-hội tự-do, có giá-trị gì, đứng đâu và
làm được gì cho xã-hội. Tôi tin rằng ông đã nói lên điều rất hệ-trọng. Giáo-hội
không phải là một tổ-chức giữa các tổ-chức, một quốc-gia giữa các quốc-gia,
phải được thành-lập như một quốc-gia theo cùng loại qui-luật dân-chủ. Giáo-hội
không phải thế, nhưng có thể nói là một sức mạnh tinh-thần. Giáo-hội có
hình-thái xã-hội và tổ-chức của nó, nhưng nó chủ-yếu là một nguồn lực tinh-thần
cung-cấp cái mà quốc-gia không thể tự có được. Böckenförde có câu nói thời-danh
đã thành châm-ngôn: Xã-hội dân-chủ sống bằng những sức mạnh nó không tự
sản-xuất được*. Đây là điểm mà ông đã
gợi ra khi đề-cập tới những hệ-thống nâng-đỡ.
Theo tôi đó cũng là
một dẫn-nhập quan-trọng vào câu hỏi về dân-chủ trong Giáo-hội mà giờ đây chúng
ta không muốn đi sâu vào nữa. Nếu cho rằng Giáo-hội phải hoạ lại mô-hình
tổ-chức và điều-hành của một quốc-gia, thì không nhận ra bản-chất của Giáo-hội.
Bởi ta biết rằng chính nền dân-chủ có thể nói là một thứ thử-nghiệm táo-bạo,
rằng sự quyết-định theo nguyên-tắc đa-số chỉ có thể giải-quyết đúng một số
vấn-đề cuả con người. Nó trở thành phi-lí, khi nó được dùng để giải-đáp những
câu hỏi đâu là chân, đâu là thiện; nó cũng trở thành phi-lí, nếu vì nó mà những
nhóm thiểu số có thể rất lớn cũng vẫn luôn phải nhượng-bộ và như thế tạo nên
một loại độc-tài của phe đa-số. Bởi thế chính dân-chủ tìm-kiếm những thực-tại
bổ-sung cho nó, đem lại ý-nghĩa cho cơ-cấu của nó và đến lượt những thực-tại
này cũng lại phải được tổ-chức sao cho phù-hợp với nhiệm-vụ riêng-biệt của
chúng.
Do đó điều rất
hệ-trọng cho Giáo-hội là không được tự coi mình trước hết như một cơ-quan tự
điều-hành, cung-cấp một số dịch-vụ nhất-định, nhưng phải biết mình sống bằng
một cái không do chính mình tạo nên, sống trung-thành và năng-động với cái đó,
nhờ vậy cống-hiến cho toàn-thể nhân loại cái nó không thể tự tạo nên được.
Giáo-hội không thể ra lệnh cho thế-giới, nhưng có thể cung-cấp những giải-đáp
cho thế-giới, khi nó bị mất hướng. Hình-ảnh muối cho đời, ánh sáng thế-gian từ
Thánh-kinh ám-chỉ vai-trò đại-diện của Giáo-hội. Ý-tưởng muối cho đời nói lên
không phải cả thế-gian là muối. Giáo-hội, với tư-cách là Giáo-hội, đóng vai
đại-diện cho toàn-thể, đi vào lòng toàn-thể nhưng không đơn-thuần rập khuôn một
cái gì khác, kể cả không là một quốc-gia. Giáo-hội luôn phải ý-thức về những
điểm này. Giáo-hội phải ý-thức sứ-mệnh đặc-biệt của mình là phải thoát ra ngoài
tính-chất đặc-thù của trần-thế để đi vào ánh sáng Thiên Chúa và giữ cho lối
thoát này thông-thoáng, rộng mở, để khí mát tuôn vào thế-gian.
Là sức mạnh
có khả-năng kết-hợp và đem lại ý nghĩa cho cuộc sống, Giáo-hội có nên
tăng-cường tiếng nói chống lại quyền-lực, chống lại độc-tài thời-thượng và
chống lại cả hệ-thống tư-bản với những quá-lạm độc-hại đã từ lâu không thể
lường được không? Cũng thế, Giáo-hội có cần nỗ-lực đi tiên-phong trong việc
bảo-vệ công-trình tạo-dựng vũ-trụ không? Đây có thể là sự hướng-dẫn của một
định-chế giầu truyền-thống và khôn-ngoan, một định-chế có Chúa đứng trên hướng-dẫn.
Ở đây ta trở lại câu
hỏi: Giáo-hội phải làm gì để vừa cởi-mở đón nhận cái mới vừa để khỏi bị xơ-cứng
như trong dĩ-vãng? Giáo-hội phải đồng-hành với thế-giới tân-thời tới mức nào,
đâu là điểm Giáo-hội cần tỏ ra can-trường – gọi là đối-lập ngôn-sứ hoặc những
kiểu nói tương-tự? Từ đó nảy sinh câu hỏi thứ hai: Giáo-hội là ai hay là gì?
Dĩ-nhiên tất-cả những ai có tiếng nói nhân danh Giáo-hội, tức là giáo-quyền ở
mọi cấp, đều phải có can-đảm phản-kháng.
Nhưng lúc này không
nên bỏ qua câu nói "Chúng tôi là Giáo-hội" trong ý-nghĩa đích-thực
của nó. Không phải chỉ những ai có chức-vụ, chỉ giáo-quyền mới là Giáo-hội. Câu
nói trên chỉ hữu-hiệu, đáng tin cho thế-giới và trở thành câu nói đưa đến
hành-động, khi nó không chỉ là lời giảng suông, không chỉ xuất-hiện trong những
văn-kiện của Rôma hay trong thư mục-vụ, nhưng khi lời nói của người giảng dạy
là tiếng nói chung của Giáo-hội sống-động. Vì thế những lời này không nên chỉ
do lệnh từ trên ban xuống, nhưng ki-tô-hữu phải cùng nhau học biết chính họ là
lực-lượng phản-kháng trong nhiều trường-hợp. Theo tôi đó là điểm rất
quan-trọng.
Giáo-quyền chỉ có
thể nói ra cách đáng tin và hữu-hiệu những gì đang hiện có và sống-động trong
toàn-thể Giáo-hội. Dĩ-nhiên ngược lại cũng đúng: Những cộng-đoàn sống-động của
Giáo-hội luôn cần sự nâng-đỡ để căn-tính của họ thêm vững-chắc và nhờ đó họ
nhận được khích-lệ sống đời tín-hữu. Khi ta nói : "Giáo-hội phải là lực
phản-kháng" thì nên hiểu đó chính là cam-kết chung của toàn-thể tín-hữu,
chứ không chỉ của giáo-quyền, và như đã nói, cũng phải biết phân-biệt vàng thau
– không phải hễ tân-thời là xấu hay hễ tân-thời là tốt. Tôi nghĩ đây cũng là
một đức-tính rất quan-trọng, thiếu nó Giáo-hội không thể giảng-dậy và phục-vụ
đúng.
Tôi muốn trở
lại đề-tài hệ-thống kinh-tế hiện nay của tây phương chúng ta. Ngài có tin rằng,
hệ-thống chỉ đề cao kinh-tế thị-trường này có thể sống với tình-trạng hiện-thời
qua mười năm nữa không?
Vốn hiểu-biết của
tôi về tình-hình kinh-tế thế-giới quả rất hạn-hẹp. Tuy nhiên tình-trạng kinh-tế
hiện nay không thể kéo dài là điều hiển-nhiên. Thứ nhất nợ nhà-nước là một
mâu-thuẫn nội-tại, vì nhà-nước sống trong tình-trạng nghịch lí, một đàng chi
tiền và bảo-đảm cho giá-trị tiền-tệ, đàng khác lại hoàn-toàn phá-sản, vì nợ-nần
chồng-chất. Dĩ nhiên còn có mức chênh-lệch nợ-nần Bắc Nam. Những điều đó cho
thấy ta đang sống trong ảo-tưởng, mâu thuẫn và tiến-trình này không thể
tiếp-diễn mãi trong tương-lai vô-định.
Hiện tại (mùa xuân
1996) chúng ta đang chứng-kiến tình-trạng lạ-lùng ở Mỹ: nhà-nước đột-ngột cháy
túi và hết khả-năng trả lương đành phải cho nhân-viên nghỉ việc. Quả là một
mâu-thuẫn ghê-gớm, vì nhà-nước có trách-nhiệm bảo-đảm sự vận-hành liên-đới cho
toàn guồng máy quốc-gia. Biến-cố này cũng cho thấy hệ-thống nhà-nước của ta có
những khuyết-điểm quá lớn và cần nhiều nỗ-lực để tìm ra thuốc chữa. Nhưng tôi
muốn nói thêm là người ta sẽ không tìm ra thuốc chữa, nếu dân-chúng không có
khả-năng chấp-nhận hi-sinh. Bởi vì không phải chỉ cần có những chỉ-thị của
chính-phủ là có thể thực-hiện được những cải-tổ. Đây là thách-đố lớn của các
xã-hội. Ta phải biết rằng, ta không thể có tất-cả những gì ta muốn, rằng ta
không thể giữ mãi được mức-độ đã đạt được. Phải tìm ra cách tránh bị lệ-thuộc
của-cải, chỉ biết khư-khư lo bảo-vệ quyền-lợi và những đòi-hỏi riêng-tư. Tôi
nghĩ, cuộc biến-đổi con tim này cần-thiết để có thể hi-sinh cho tương-lai và
tha-nhân; đây chính là thách-đố quyết-định vận-mệnh của hệ-thống chúng ta.
Thưa hồng-y,
lúc này người ta có thể đánh-giá lịch-sử triều-đại giáo-chủ đương thời được
chưa? Sự kết-thúc của triều-đại Gio-an Phao-lô
II có ý-nghĩa gì cho Giáo-hội và thế-giới? Giáo-chủ qua đi chỉ là
chấm-dứt một thời-đại hay còn tiềm-ẩn ý-nghĩa nào khác ? Gio-an
Phao-lô II, hiện-thân của thế-giới tây
phương, qua đi có nghĩa là thế-giới cũ cũng chấm-dứt?
Tôi rất dè-dặt
thảo-luận về những viễn-ảnh tương-lai. Chính sự-kiện Giáo-chủ đến từ Ba-lan đã
làm xê-dịch viễn-ảnh rất nhiều rồi. Với Ba-lan, biên-giới Tây Âu lùi xa sang
Đông Âu. Chân trời tây phương mở ra với những chiều-kích đông phương. Chính qua
những chuyến thăm-viếng mục-vụ, giáo-chủ Gio-an Phao-lô II đã nhấn mạnh nhu-cầu Giáo-hội phải vượt ra
ngoài địa-bàn Tây Âu. Tuy nhiên tôi nghĩ di-sản Tây Âu, nếu muốn dùng kiểu nói
này, vẫn có chỗ đứng quan-trọng trong lịch-sử. Bởi vì Giáo-hội xưa không phải
chỉ cống-hiến cho nhân loại những kho-tàng trường-tồn của nghệ-thuật rô-man-ních,
gô-tích, phục-hưng, ba-rốc, v. v., nhưng Giáo-hội này cũng đã cống-hiến bao
khuôn mặt thánh-nhân vĩ-đại, những người đã mở ra những lối sống và suy-tư nhằm
trình-bầy một Ki-tô giáo cao-cả và chân-thực, nhờ đó con người trở thành người
hơn. Nhân loại sẽ không thể dứt-bỏ những yếu-tố nền-tảng này, nhưng có thể và
được phép hội-nhập chúng vào những chân trời mới, bao-la hơn.
Lịch-sử thật của
thế-giới
Về sự viên-mãn của thời-gian
Trong
thông-thư "Ngàn năm thứ ba đang tới” gửi các giám-mục, linh-mục và tín-hữu
về đề-tài chuẩn-bị năm 2000, Giáo-chủ nói đến "sự viên-mãn của
thời-gian". Ngài giải-thích, ý-niệm thời-gian trong Ki-tô giáo mang
"ý-nghĩa nền-tảng". Nghĩa là « thời cuối cùng», giờ sau hết, đã
bắt đầu với sự xuất-hiện của đức Kitô. Đây là điểm khởi đầu "thời-gian của
Giáo-hội, nó sẽ kéo dài cho tới khi Người trở lại". Hồng-y giải-thích điểm
này như thế nào? Có phải vở kịch đã được viết xong từ lâu, chúng ta đã đến ngày
tàn?
Đó là một chương
mang ý-nghĩa Kinh thánh trong phần đầu của tông-thư. Ý-niệm "thời-gian
viên-mãn" lấy từ thánh Phaolô. Tư-tưởng cho rằng đây là “thời kết-thúc”,
màn kết của lịch-sử, được viết rõ trong Kinh-thánh. Tuy nhiên phúc-âm Lu-ca,
với tầm nhìn xa khác thường, nới rộng điểm kết-thúc qua câu: "Giê-ru-sa-lem
sẽ bị nhiều dân-tộc dày-xéo tới khi thời-gian của họ viên-mãn" (Lc,24,
24).
Các giáo-phụ
khai-triển ý-niệm này, so-sánh lịch-sử với đời người được chia thành sáu
giai-đoạn. Theo các ngài, lịch-sử nhân loại giờ đây đã bước vào giai-đoạn thứ
sáu và là giai-đoạn kết. Mãi tới Thời-mới ý thức này mới thay-đổi. Trong thời
Phục-hưng xuất-hiện ý-tưởng cho rằng lúc này đây mọi chuyện mới thực-sự bắt
đầu. Thời trước đó không phải thời-đại thứ sáu, nhưng là thời Trung-cổ, lúc này
ta mới lại tiến lên trong lịch-sử đích-thực và lúc này mới lại là thời-điểm
hướng lên phía trước. Tư-tưởng này sở-dĩ nảy sinh, vì con người khám-phá ra
rằng những thời-đại của thế-giới dài rộng hơn nhiều và thế-giới cũng như lịch-sử
nhân loại không chỉ kéo dài sáu ngàn năm, nhưng trong thời-gian vô định. Như
thế ý-niệm “thời cuối cùng” dĩ-nhiên mất ý-nghĩa và thời-gian có thể nói được
là kéo dài không biết đến bao giờ.
Cái nhìn theo Kinh
thánh và quan-điểm của các giáo-phụ dựa trên lược-đồ sáu thời-đại rõ-ràng, với
mỗi thời dài khoảng 1000 năm, phải được xét lại trong bối-cảnh văn-hóa mới.
Kinh thánh nói, lịch-sử đi vào thời quyết-định và kết-thúc với sự xuất-hiện của
đức Kitô. Tư-tưởng chính-yếu này của Kinh thánh phải được hiểu lại cách
hoàn-toàn mới. Tôi muốn nói, sự phát-triển trong những thập niên vừa qua, với
lịch-sử thế-giới qua mau hơn và những đe-doạ mỗi ngày thêm đè nặng trên nó, gợi
lên ý-tưởng về thời-kì cuối rõ-ràng hơn. Nhưng không phải chỉ có thế. Ta còn
hiểu thêm rằng, quả thực một thời-đại lịch-sử mới và cuối cùng đã khởi đầu với
phong-trào Ki-tô giáo. Bởi vì ngay từ bước đầu Ki-tô giáo đã nhắm đến hợp-nhất
thế-giới, phân-biệt đạo đời và đem lại phần nào sự tự-chủ qua việc xoá sạch
dấu-vết thần-linh của thế-giới. Thời-kì lịch-sử này gắn liền với ý-thức cho
rằng lịch-sử sắp chấm dứt, không theo cách tính bằng thiên niên-kỉ, nhưng theo
nghĩa lịch-sử đang trên đường và Đức Ki-tô là khởi đầu của điểm kết-thúc,
thế-giới xa-lìa Ngài, nhưng rồi lại hướng về Ngài.
Đó là những điểm
Giáo-chủ muốn đề-cập, ngài muốn nói, chính đức Ki-tô cắm mốc quyết-định vào
lịch-sử thế-giới và trên con đường bấp-bênh, ngày càng thêm bi-thảm hơn của
lịch-sử, Ngài không những là khởi điểm mà còn là đích điểm. Hướng về Ngài ta đi
tới điểm kết-thúc. Kết-thúc này không đơn-thuần là sự huỷ-diệt, nhưng là sự
hoàn-tất mĩ-mãn, đem lại nét toàn-vẹn nội-tại cho lịch-sử.
Trong
tông-thư đã dẫn Giáo-chủ còn nhận-xét rằng theo niềm tin của Giáo-hội, năm 2000
không giống bất cứ năm nào khác, nó không chỉ đáng để ý vì là thời-điểm sang
trang của một thế-kỷ hay một thiên niên-kỷ, nhưng là một năm rất đặc-biệt,
"năm hồng-ân Thiên Chúa”. Điều đó có ý-nghĩa gì? Sẽ có những hiện-tượng
đặc-biệt xẩy ra chăng? Ta sẽ lãnh-nhận những hồng-ân đặc-biệt chăng? Năm
toàn-xá phải được dùng để tái tạo công-bằng xã-hội, phải là năm tha tội và hình
phạt cho tất-cả những ai lỗi phạm, phải là năm hòa-giải giữa các đối-thủ, năm
của những cuộc trở lại dưới nhiều hình-thức, năm của thống-hối trong và ngoài
bí-tích. Hay Giáo-hội còn muốn chuẩn-bị cho những gì khác nữa, vì tông-thư còn
có một câu nhiều nghĩa: Giáo-hội không thể «bước qua ngưỡng cửa của ngàn năm
mới, mà không kêu-gọi con-cái thanh-tẩy qua sám-hối lỗi lầm, bất trung,
mâu-thuẫn, trì-trệ"?
Tôi nghĩ cần phải
làm sáng-tỏ niên-hiệu này có và không có ý-nghĩa gì. Trước hết phải gạt bỏ mọi
mong-chờ hão-huyền. Không có chuyện những biến-cố lớn trên bình-diện vũ-trụ,
văn-hoá hay tôn-giáo sẽ tự-nhiên xẩy ra. Cần tỉnh-táo nhận-định rằng niên-hiệu
thuần-tuý tự nó gói-ghém những tình-cờ. Dionysius Exiguus*
đã tính sai mấy năm về ngày sinh của đức Kitô. Niên lịch của ta lại dựa trên
cách tính này; đúng ra đức Ki-tô sinh 7 năm trước công-nguyên. Vậy lễ mừng năm
2000 lẽ ra cũng phải xích lên sớm hơn. Nói tóm lại, không nên bận-tâm với những
chuyện hão-huyền.
Nhưng
lịch-sử công-nhận sự-kiện này….
Niên-lịch này đã
phổ-biến và ta đã quen với nó. Nhưng nó không được đặt ra do nhu-cầu siêu-hình,
chứ đừng nói đến do nhu-cầu thuần-tuý lịch-sử. Vậy, đây là điểm thứ nhất: Cần
vứt-bỏ những trông-chờ hão. Điểm thứ hai: Vậy nó là gì? Giáo-chủ nói có lí,
trước hết nó là một niên-hiệu tưởng-nhớ. Nó khêu-gợi trí nhớ ta, là niên-hiệu
tưởng-nhớ sinh nhật của đức Giê-su Kitô, một biến-cố quan-trọng đến độ đã được
dùng để tính thời-gian cho cả nhân-loại, hay ít ra cho phần lớn nhân-loại.
Trước hết nó là sự tưởng-nhớ về những gì đã xẩy ra, không phải đơn-thuần
hồi-tưởng lại cái gì đã qua, nhưng là đi sâu vào thâm-tâm ta, tưởng-nhớ chính
Ngài như đấng luôn hiện-diện và có liên-hệ với ta. Chính vì là niên-hiệu
hồi-tưởng và là sự ghi nhớ hiện-tại và tương-lai, không phải chỉ ghi nhớ
dĩ-vãng, nên đó là một cơ-may cũng như là một thách-đố đòi ta sống xứng với
kỉ-niệm này và lấy nó làm mẫu-mực xét-đoán ta.
Ở đây Giáo-chủ một
đàng giúp nhân-loại, ít ra là ki-tô-hữu, tự đổi mới bằng cách lặp lại sự
tưởng-nhớ này, cụ-thể qua chương-trình ba năm như đã nói. Chương-trình này là
một cố-gắng duy-nhất đi vào thẳm sâu ký-ức ta, đi vào những hiểu-biết và
chân-lí được giữ kín trong đó. Đó là điểm thứ nhất, có thể nói Giáo-chủ chỉ ra
con đường giúp ta thực-sự nhớ lại, và qua đó nối-kết hiện-tại với tương-lai.
Điểm thứ hai: Ngài
lấy lại hình-ảnh năm kỉ-niệm của Cựu ước, theo đó cứ 49 năm, tức 7 lần 7 năm,
lịch-sử lại bắt đầu lại. Vào năm đó mọi người phải từ-bỏ hoàn-toàn sở-hữu, làm
lại từ đầu, như vậy có thể nói là cũng luôn-luôn gồm có tha-thứ tất-cả, trở về
nguồn. Giáo-chủ nói, nếu có một năm kỷ-niệm theo nghĩa này, thì đối với ta đó
phải là năm 2000, ta mừng năm này theo cách-thức của ta bằng cách gắng trở về
nguồn, tức là trở về với đức Kitô. Những hình-ảnh Cựu-ước đó cũng đặt ra cho ta
một thách-đố, đòi ta thanh-toán sòng-phẳng nợ-nần, giải-thoát ta khỏi mọi gánh
nặng của những hệ-thống kinh-tế đông cứng hoặc những thứ tương-tự và cố-gắng
làm cuộc khởi đầu mới.
Tất-cả những cái đó
không tự-nhiên từ trời rơi xuống, nhưng là một nghĩa-vụ và khả-năng của trí nhớ
mà có. Tôi muốn nói, ta phải tỉnh-táo với ý-tưởng nền-tảng : tưởng-niệm /
ghi nhớ. Nhưng tỉnh-táo không có nghĩa coi thường tất-cả, nhưng là nhận ra
đòi-hỏi của nó và cố-gắng tìm ra sức nâng-đỡ, để có thể tận-dụng nỗ-lực ghi nhớ
này một cách hữu-hiệu làm nên một cuộc khởi đầu mới.
Nhưng
Giáo-chủ còn đi rất xa khi nói về thời-điểm bước vào ngàn năm mới. Ngài nói:
Hãy thanh-tẩy và thống-hối; và mới đây trong chuyến thăm mục-vụ nước Úc, ngài
nói, có lẽ phải vào tận sa-mạc để chờ Chúa trở lại.
Tôi không biết đoạn
văn này, nhưng chắc-chắn ngài không muốn nói Chúa sẽ trở lại vào năm 2000. Bởi
như thế là mâu-thuẫn, vì ta không biết ngày giờ Chúa trở lại. Có thể nói Chúa
sẽ trở lại khi nào trí nhớ lại mở ra; trong ý nghĩa này, qua suốt chiều dài
lịch-sử, đã có nhiều lần đức Ki-tô trở lại, tái hiện-diện trong lịch-sử. Như
vậy ta nên hoàn-toàn để ngỏ câu hỏi, khi nào Ngài vĩnh-viễn đi vào lịch-sử, khi
nào Ngài vĩnh-viễn nắm lấy lịch-sử và lay động nó; ta không nên chắp-nối
thời-điểm này với bất cứ một tính-toán thời-gian nào. Cái ta cầu xin, cái ta
nên và muốn chuẩn-bị đón-nhận là mong Ngài có thể lại tới trong thời-điểm này,
qua tâm-hồn đã mở sẵn. Tôi nghĩ ta nên hiểu lời Giáo-chủ cũng như câu "đi
vào sa-mạc" theo ý-nghĩa này. Có người hiểu những lời đó theo nghĩa đen.
Nhưng xét tổng-quát, ý-nghĩa của những lời này là, trong thời-gian này ta phải
thực-sự gắng thoát khỏi thế-giới cồng-kềnh đủ thứ đồ-đạc dư-thừa, để đi vào
tự-do nội-tâm, tỉnh-thức và thống-hối, thiếu chúng không thể có cuộc khởi đầu
mới.
Bao nhà
xã-hội học, tương-lai học và nhà bình-luận văn hóa háo-hức tìm lối giải-thích
và cách diễn-tả trừu-tượng cho thời-gian sắp tới. Ta đã có thời hiện-đại, hậu
hiện-đại và cả hậu hậu hiện-đại rồi. Nếu thêm một "hậu" nữa, xem ra
quá rắc-rối. Có lẽ nỗi khắc-khoải mong-chờ cái sẽ tới sẽ giải-quyết điểm này và
có lẽ nỗi khắc-khoải này cũng sẽ tìm ra thuật-ngữ mới cho thời-gian. Ta nên cho
nó danh xưng gì? Ngài có đề-nghị nào không?
Tôi không có đề-nghị
nào về danh xưng. Tôi luôn phản-đối việc người ta nói tới sự kết-thúc thời
Hiện-đại, nói tới thời Hậu hiện-đại. Toàn là lối phân-chia quá vội-vàng. Phải
chờ một khoảng thời-gian nhất-định mới nhìn ra điểm thời-đại sang trang. Hẳn thời
Phục-hưng đã đẻ ra ý-niệm "Trung-cổ", để nói lên rằng, trước đó đã có
chuyện gì xẩy ra, nhưng nay nó phải chấm-dứt. Với kiểu phân-chia thời-đại như
thế, thời Phục-hưng muốn trình-bầy chính mình như một cái gì mới và điểm này
xem ra có lí. Ngày nay ta cũng chứng-kiến một biến-đổi lớn đang diễn ra giữa
dòng lịch-sử trôi mau, làm thay-đổi bộ mặt của Thời-mới với khoảng 400 tới 500
năm vừa qua. Nhưng có lẽ ta nên xét lại toàn-bộ cách phân-chia thời-đại nặng
tính tây phương này. Bởi khó nhét vào đó lịch-sử Ấn-độ và Trung-hoa, dù có
những điểm song-song. Jaspers gợi lên cái gọi là Thời ngưỡng cửa, chạy
xuyên-suốt mọi nền văn-hóa. Dù sao tôi nghĩ, ngay bây giờ ta chưa nên nặn ra
một danh xưng cho cái ta chưa biết. Trái lại ta cần tỉnh-thức trước những
đổi-thay và gắng nắm sẵn những yếu-tố lèo-lái đúng-đắn - để một khi xuất-hiện
thời-đại mới hơn thay-thế cái thời trước kia là mới nhưng nay đã già-cội, cái
thời mới hơn này sẽ là thời của nhân loại và của Thiên Chúa.
Thưa Hồng-y,
đây là câu hỏi chót: Lịch-sử đích-thực của thế-giới là gì? Ngoài ra, Chúa
thực-sự muốn gì ở ta? Có lần ngài viết: "Đặc-điểm của lịch-sử là sự
giằng-co giữa yêu và không có khả-năng yêu, tức là sự cằn-cỗi của tâm-hồn, nó
xẩy ra khi con người chỉ có thể chấp-nhận những giá-trị lượng-số mới là giá-trị
và thực-tại… Sự huỷ-diệt khả-năng yêu sinh ra nỗi chán-chường chết người. Nó là
sự đầu-độc con người. Nếu nó thắng thế, con người và cả thế-giới sẽ bị
huỷ-diệt".
Ở đây tôi dựa vào
An-tịnh; còn ngài lại múc từ nguồn truyền-thống giáo-lí Ki-tô giáo, ở đó
toàn-bộ lịch-sử được trình-bầy như một cuộc tranh-chấp giữa hai quốc-gia, giữa
hai cộng-đồng công-dân. Goethe lấy lại ý-tưởng này và nói, lịch-sử nhìn
tổng-quát là một cuộc chiến giữa tin và không tin. An-tịnh có cái nhìn hơi
khác, ngài nói, lịch-sử là cuộc chiến giữa hai loại tình yêu, giữa yêu Chúa đến
hy-sinh chính mình và yêu mình đến chối-bỏ Chúa. Ngài trình-bầy lịch-sử như
bi-kịch về cuộc chiến giữa hai thứ yêu. Tôi tìm cách làm sáng-tỏ thêm ý-tưởng
này, khi cho rằng đối-lực của yêu không phải là một loại tình yêu khác, nó
không đáng gọi là tình yêu, nhưng là sự chối-bỏ tình yêu. Đó là hiện-tượng ta
cũng đang chứng-kiến ngày nay, khi con người bị sự tự-chủ chi-phối đến nỗi nói
rằng, tôi không muốn yêu, vì nó làm tôi lệ-thuộc và như vậy nó phản lại tự-do
của tôi.
Quả thực yêu có
nghĩa là lệ-thuộc vào cái tôi có thể mất đi và như thế đem lại nguy-cơ đau-khổ
cho đời tôi. Từ đó sinh ra sự khước-từ ẩn kín hoặc bộc-lộ: Tôi thà không yêu,
hơn là mãi-mãi lao vào nguy-cơ đau-khổ, bị giới-hạn khả-năng tự-quyết, bị
lệ-thuộc vào cái tôi không thể có và bổng-chốc rơi vào hư-không. Trong khi đó
quyết-tâm đến từ đức Ki-tô hoàn-toàn khác: Sẵn-sàng yêu, vì chỉ có thứ tình yêu với nguy-cơ bị đau-khổ và
mất-mát mới đem con người về với chính mình và giúp nó thể hiện được bản-chất
của mình.
Tôi nghĩ, đây thực
là bi-kịch của lịch-sử: trong trận-tuyến kình chống nhau dưới nhiều hình-thức,
lịch-sử kết-cục được thu gọn trong công-thức: sẵn-sàng yêu hay từ chối yêu.
Và Chúa
thực-sự muốn gì nơi ta?
Ngài muốn ta trở
thành những kẻ yêu-thương và như vậy trở nên giống Ngài. Bởi, như thánh Gio-an
nói với ta, Ngài là tình yêu, Ngài muốn có những thụ-tạo giống Ngài và trở nên
như Ngài trong tình yêu tự-do, gắn-bó với Ngài và như thế có thể nói là toả ra
ánh sáng của chính Ngài.
HẾT
* Nguyên văn câu
của thẩm-phán Börkenförde: “Der freiheitliche, säkularisierte Staat lebt von
Voraussetzung, die er selbst nicht garantieren kann" : Nhà-nước tự-do
và tục-hoá sống bằng điều-kiện mà nó không thể tự bảo-đảm được.
* D. Exiguus: tu-sĩ và học-giả, người đầu tiên làm niên lịch Ki-tô giáo
dưới thời giáo-chủ Gio-an I (523-526)