CHƯƠNG MỘT

MẦU NHIỆM VƯỢT QUA
TRONG THỜI ĐẠI CỦA HỘI THÁNH

CAPUT PRIMUM
MYSTERIUM PASCHALE IN ECCLESIAE TEMPORE



Mục 1

Phụng vụ
Công trình của Ba Ngôi Chí Thánh

Articulus 1
Liturgia – Sanctissimae Trinitatis Opus





I. CHÚA CHA, NGUỒN MẠCH VÀ CÙNG ĐÍCH CỦA PHỤNG VỤ

PATER, LITURGIAE FONS ET FINIS



1077. “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Ngài đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Ngài đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Ngài, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Ngài. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Ngài, Ngài đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Chúa Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Ngài ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1,3-6).


1078. “Chúc lành” là hành động thần linh ban sự sống, và nguồn gốc của hành động này là Chúa Cha. Việc chúc lành của Ngài vừa là một lời nói vừa là một hồng ân (bene-dictioeu-logia). Khi áp dụng cho con người, từ này có nghĩa “chúc tụng”, nghĩa là tôn thờ và tạ ơn Đấng Tạo Hoá của mình.


1079. Từ lúc khởi đầu cho đến lúc cùng tận thời gian, toàn bộ công trình của Thiên Chúa đều là chúc lành. Từ bài thơ phụng vụ về cuộc tạo dựng đầu tiên cho đến những thánh ca về thành Giêrusalem thiên quốc, các tác giả được linh hứng đều loan báo chương trình cứu độ như một lời chúc lành triền miên của Thiên Chúa.


1080. Từ lúc khởi đầu, Thiên Chúa đã chúc lành cho các sinh vật, đặc biệt cho người nam và người nữ. Giao ước với ông Noê và với tất cả mọi sinh vật canh tân lời chúc lành sinh sôi nảy nở này, bất chấp tội lỗi của con người đã khiến đất đai “bị chúc dữ”. Nhưng khởi từ tổ phụ Abraham, lời chúc lành của Thiên Chúa mới đi sâu vào lịch sử loài người, một lịch sử đang hướng về cõi chết, để làm cho nó tiến về cõi sống, tiến về nguồn mạch của nó: nhờ đức tin của “cha các kẻ tin”, người đã đón nhận lời chúc lành, mà lịch sử cứu độ được khởi đầu.


1081. Những lời chúc lành của Thiên Chúa được bày tỏ qua các biến cố kỳ diệu và có ý nghĩa cứu độ: đó là việc sinh hạ Isaac, việc xuất hành ra khỏi Ai Cập (Vượt Qua và Xuất Hành), việc trao ban Đất Hứa, việc tuyển chọn Đavid, sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ, cuộc lưu đày có ý nghĩa thanh luyện và sự hồi hương của “ít người còn sót lại”. Lề Luật, các Tiên tri và các Thánh vịnh, dệt nên phụng vụ của dân Chúa chọn, vừa nhắc nhớ những lời chúc lành của Thiên Chúa, vừa đáp lại những lời chúc lành đó bằng những câu ca ngợi và chúc tụng tạ ơn.


1082. Trong phụng vụ của Hội Thánh, lời chúc lành của Thiên Chúa được mạc khải và truyền thông cách sung mãn: Chúa Cha được nhận biết và được tôn thờ với tư cách là nguồn gốc và cùng đích của mọi chúc lành trong công trình tạo dựng và cứu độ; trong Ngôi Lời của Ngài, Đấng đã nhập thể, chịu chết và sống lại vì chúng ta, Chúa Cha đổ tràn trên chúng ta những lời chúc lành của Ngài, và nhờ Ngôi Lời, Ngài tuôn đổ vào lòng chúng ta hồng ân chứa đựng mọi hồng ân: đó là Chúa Thánh Thần.


1083. Như vậy, chúng ta hiểu được chiều kích kép của phụng vụ Kitô giáo xét như lời đáp lại của đức tin và tình yêu đối với những lời “chúc lành thiêng liêng” Chúa Cha đã ban cho chúng ta. Một đàng, được kết hợp với Chúa của mình và dưới tác động của Chúa Thánh Thần[1], Hội Thánh chúc tụng Chúa Cha “vì phúc lộc khôn tả Ngài ban” (2 Cr 9,15), bằng việc tôn thờ, ca ngợi và tạ ơn. Đàng khác, cho tới khi kế hoạch của Thiên Chúa được hoàn tất, Hội Thánh không ngừng dâng lên Chúa Cha “lễ vật là những hồng ân Ngài ban”, và cầu khẩn Ngài ban Thánh Thần xuống trên lễ vật này, trên chính Hội Thánh, trên các tín hữu và trên toàn thể trần gian, để, nhờ hiệp thông vào sự chết và sự sống lại của Đức Kitô-Thượng tế, và nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, những lời chúc lành này của Thiên Chúa đem lại hoa trái sự sống “để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Ngài ban tặng cho ta” (Ep 1,6).



II. CÔNG TRÌNH CỦA ĐỨC KITÔ TRONG PHỤNG VỤ

CHRISTI OPUS IN LITURGIA



Đức Kitô được tôn vinh


1084. Đức Kitô, Đấng “ngự bên hữu Chúa Cha” và tuôn đổ Thánh Thần trên Thân Thể của Người là Hội Thánh, từ nay hoạt động qua các bí tích do chính Người thiết lập để truyền thông ân sủng của Người. Các bí tích là những dấu chỉ khả giác (các lời nói và các hành động) mà loài người chúng ta hiện nay vẫn có thể hiểu được. Các bí tích thực hiện cách hữu hiệu ân sủng mà chúng nói lên, nhờ hành động của Đức Kitô và nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.


1085. Trong phụng vụ của Hội Thánh, Đức Kitô chủ yếu biểu lộ và hoàn thành mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Trong cuộc đời trần thế, Chúa Giêsu đã loan báo mầu nhiệm Vượt Qua của Người bằng lời giảng dạy và tham dự trước vào mầu nhiệm đó bằng các hành động của Người. Khi Giờ của Người đến[2], Chúa Giêsu đã sống biến cố độc nhất của lịch sử, một biến cố không qua đi: Chúa Giêsu chịu chết, chịu mai táng, sống lại từ cõi chết và ngự bên hữu Chúa Cha “một lần cho mãi mãi” (Rm 6,10; Dt 7,27; 9,12). Đó là biến cố xác thực, đã xảy ra trong lịch sử của chúng ta, nhưng là biến cố độc nhất. Tất cả những biến cố khác của lịch sử đã xảy ra một lần rồi qua đi, chìm vào dĩ vãng. Trái lại, mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô không thể chỉ tồn tại trong quá khứ, bởi vì chính Người đã dùng cái chết của Người mà huỷ diệt sự chết, và bất cứ điều gì Đức Kitô là, bất cứ điều gì Người đã làm và đã chịu vì tất cả mọi người, những điều đó đều tham dự vào tính vĩnh cửu của Thiên Chúa, và như vậy đều vượt trên mọi thời gian và luôn là hiện tại. Biến cố Thập Giá và Phục Sinh vẫn đang tồn tại và lôi kéo mọi sự tới sự sống.



... từ Hội Thánh thời các Tông Đồ...


1086. “Như Đức Kitô được Chúa Cha sai đi thế nào, thì chính Người cũng sai các Tông Đồ, được đầy tràn Thánh Thần, như vậy, không những để khi công bố Tin Mừng cho mọi thụ tạo, các Tông Đồ loan báo rằng Con Thiên Chúa đã nhờ sự chết và sự sống lại của Người, mà giải thoát chúng ta khỏi quyền lực Satan và sự chết, và đưa chúng ta vào Nước của Chúa Cha, nhưng còn để các Tông Đồ thực thi công trình cứu độ, mà các ông đã rao giảng, nhờ Hy Lễ và các bí tích, là trung tâm điểm của toàn thể đời sống phụng vụ”[3].


1087. Như vậy, Đức Kitô Phục sinh, khi ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ, đã trao cho các ông quyền thánh hóa của Người[4]: Các ông trở nên những dấu chỉ bí tích của Đức Kitô. Nhờ quyền năng của cùng một Chúa Thánh Thần, các ông trao quyền thánh hóa ấy cho những người kế nhiệm. Việc “kế nhiệm Tông Đồ” này xây dựng nên toàn bộ đời sống phụng vụ của Hội Thánh; chính việc kế nhiệm đó mang tính bí tích và được lưu truyền qua bí tích Truyền Chức thánh.



... đang hiện diện trong phụng vụ trần thế...


1088. “Để thực hiện một công cuộc lớn lao như vậy (phân phát hoặc truyền thông công trình cứu độ của Người), Đức Kitô luôn hiện diện trong Hội Thánh Người, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện trong Hy tế Thánh lễ cũng như trong con người thừa tác viên, “Đấng xưa đã tự hiến trên thánh giá, thì nay chính Người dâng hiến qua thừa tác vụ của các tư tế”, và nhất là Người hiện diện dưới hình bánh hình rượu Thánh Thể. Người hiện diện bằng quyền năng của Người trong các bí tích, đến nỗi khi một ai đó làm Phép Rửa, thì đó là chính Đức Kitô làm Phép Rửa. Người hiện diện trong Lời của Người, vì chính là Người đang nói, khi Kinh Thánh được đọc lên trong Hội Thánh. Cuối cùng, Người hiện diện khi Hội Thánh cầu nguyện và hát Thánh vịnh, như chính Người đã hứa: ‘Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ’ (Mt 18, 20)”[5].


1089. “Trong công cuộc lớn lao như vậy, qua đó Thiên Chúa được tôn vinh cách hoàn hảo và con người được thánh hoá, Đức Kitô hằng liên kết với Hội Thánh là Hiền Thê rất yêu quý của Người, và Hội Thánh kêu cầu Người là Chúa của mình và nhờ Người mà phụng thờ Chúa Cha hằng hữu”[6].



... Phụng vụ trần thế tham dự vào phụng vụ trên trời


1090. “Trong phụng vụ trần thế, chúng ta tham dự như một cách nếm trước phụng vụ trên trời, được cử hành trong thành thánh Giêrusalem, nơi chúng ta là lữ khách đang tiến về, ở đó, Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa, là thừa tác viên của cung thánh, và của nhà tạm đích thực; chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh trên trời đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa; chúng ta kính nhớ các Thánh, và hy vọng được đồng phận với các ngài; chúng ta mong đợi Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho đến khi Người, là sự sống của chúng ta, xuất hiện, và chúng ta sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang”[7].



III. CHÚA THÁNH THẦN VÀ HỘI THÁNH TRONG PHỤNG VỤ

SPIRITUS SANCTUS ET ECCLESIA IN LITURGIA



1091. Trong phụng vụ, Chúa Thánh Thần là nhà sư phạm về đức tin cho Dân Thiên Chúa, là Đấng thực hiện “những kỳ công của Thiên Chúa”, tức là các bí tích của Giao Ước Mới. Điều Chúa Thánh Thần mong muốn và thực hiện trong lòng Hội Thánh, đó là chúng ta được sống bằng sự sống của Đức Kitô phục sinh. Khi Chúa Thánh Thần gặp được nơi chúng ta lời đáp lại của đức tin mà Ngài đã khơi lên, thì đó là một sự cộng tác thật sự. Vì vậy phụng vụ là công trình chung của Chúa Thánh Thần và Hội Thánh.


1092. Trong việc phân phát cách bí tích mầu nhiệm của Đức Kitô, Chúa Thánh Thần cũng hành động cùng một cách thức như trong các thời đại khác của Nhiệm cục cứu độ: Ngài chuẩn bị cho Hội Thánh gặp gỡ Chúa của mình; Ngài nhắc nhớ và làm tỏ hiện Đức Kitô cho đức tin của cộng đoàn; Ngài làm cho hiện diện và hiện tại hoá mầu nhiệm của Đức Kitô bằng quyền năng biến đổi của Ngài; sau cùng, Thánh Thần của sự hiệp thông kết hợp Hội Thánh vào đời sống và sứ vụ của Đức Kitô.



Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho việc đón nhận Đức Kitô


1093. Trong Nhiệm cục bí tích, Chúa Thánh Thần hoàn tất các hình bóng của Cựu Uớc. Bởi vì Hội Thánh của Đức Kitô “đã được chuẩn bị cách kỳ diệu trong lịch sử dân Israel và trong Cựu Ước”[8], nên phụng vụ của Hội Thánh giữ lại một số yếu tố của phụng tự Cựu Ước, xét như một phần không thể thiếu và không thể thay thế, coi đó là của mình:

– Chủ yếu là việc đọc Cựu Ước;

– Lời cầu nguyện của các Thánh vịnh;

– và nhất là tưởng nhớ các biến cố cứu độ và những thực tại đầy ý nghĩa đã được hoàn tất trong mầu nhiệm của Đức Kitô (Lời Hứa và Giao Ước, Xuất Hành và Vượt Qua, Vương Quốc và Đền Thờ, Lưu Đày và Hồi Hương).


1094. Chính trên sự hoà hợp này giữa hai Giao Ước[9], mà giáo lý về cuộc Vượt Qua của Chúa được xây dựng[10], rồi đến giáo lý của các Tông Đồ và của các Giáo phụ. Giáo lý này khai mở những điều còn bị che giấu trong văn tự của Cựu Ước: đó là mầu nhiệm của Đức Kitô. Cách giải thích này được gọi là “tiên trưng”, vì nó cho thấy sự mới mẻ của Đức Kitô khởi từ những “hình bóng” (biểu trưng) loan báo về Người qua các sự kiện, lời nói và biểu tượng của Giao ước cũ. Nhờ việc đọc lại Cựu Ước trong Thánh Thần chân lý khởi đi từ Đức Kitô, các hình bóng được biểu lộ ra[11]. Chẳng hạn, cơn lụt hồng thủy và con tàu ông Nôê là hình bóng báo trước ơn cứu độ nhờ bí tích Rửa Tội[12]; cột mây và việc vượt qua Biển Đỏ cũng cùng ý nghĩa đó; nước từ tảng đá là hình bóng các hồng ân thiêng liêng của Đức Kitô[13]; manna trong hoang địa là hình bóng tiên báo Thánh Thể, “Bánh bởi trời, bánh đích thực” (Ga 6,32).


1095. Vì vậy, đặc biệt trong mùa Vọng, mùa Chay và nhất là đêm Canh thức Vượt Qua, Hội Thánh đọc lại và sống trở lại tất cả các biến cố lớn lao đó của lịch sử cứu độ trong “ngày hôm nay” của phụng vụ của mình. Nhưng điều đó cũng đòi hỏi việc dạy giáo lý phải giúp các tín hữu mở rộng tâm hồn để hiểu được ý nghĩa “thiêng liêng” ấy của Nhiệm cục cứu độ, đúng như phụng vụ của Hội Thánh bày tỏ và giúp chúng ta sống.


1096. Phụng vụ Do thái và Phụng vụ Kitô giáo. Việc hiểu biết rõ hơn về đức tin và đời sống tôn giáo của dân Do Thái, như họ tuyên xưng và sống cho đến nay, có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn một số khía cạnh của phụng vụ Kitô giáo. Đối với người Do thái cũng như với Kitô hữu, Kinh Thánh là phần cốt yếu của cả hai nền phụng vụ: công bố Lời Chúa, đáp lại Lời Chúa, kinh nguyện ca ngợi và chuyển cầu cho người sống và kẻ chết, sự khẩn cầu lòng thương xót Chúa. Phụng vụ Lời Chúa, trong cơ cấu đặc trưng của nó, bắt nguồn từ phụng vụ Do thái. Các Giờ Kinh phụng vụ cũng như các bản văn và công thức phụng vụ khác, cũng song song với phụng vụ Do thái, kể cả các kinh nguyện đáng kính nhất của chúng ta, như kinh “Lạy Cha”. Các Kinh nguyện Thánh Thể cũng được cảm hứng từ những kiểu mẫu của truyền thống Do thái. Liên hệ giữa phụng vụ Do thái và phụng vụ Kitô giáo, kể cả những khác biệt trong nội dung, có thể thấy rõ cách đặc biệt trong các ngày lễ lớn của Năm phụng vụ, như lễ Vượt Qua. Các Kitô hữu và người Do thái cùng cử hành lễ Vượt Qua: đối với người Do Thái đó là lễ Vượt Qua của lịch sử hướng tới tương lai; còn đối với các Kitô hữu, lễ Vượt Qua đã được hoàn thành trong sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, tuy vẫn luôn trông đợi sự hoàn tất chung cuộc.


1097. Trong phụng vụ của Giao Ước Mới, mọi hoạt động phụng vụ, đặc biệt việc cử hành thánh lễ và các bí tích, đều là cuộc gặp gỡ giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Cộng đoàn phụng vụ được hợp nhất “nhờ ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần”, Đấng quy tụ các con cái Thiên Chúa trong Thân Thể duy nhất của Đức Kitô. Cộng đoàn này vượt trên các mối liên hệ phàm nhân, chủng tộc, văn hóa và xã hội.


1098. Cộng đoàn phải chuẩn bị để gặp gỡ Chúa mình, sao cho là một dân đã hoàn toàn sẵn sàng[14]. Việc chuẩn bị các tâm hồn như vậy là công việc chung của Chúa Thánh Thần và của cộng đoàn, đặc biệt là của các thừa tác viên của cộng đoàn. Ân sủng của Chúa Thánh Thần tìm cách khơi dậy đức tin, sự hối cải tâm hồn và sự đồng thuận theo thánh ý Chúa Cha. Phải có những chuẩn bị này để có thể đón nhận những ân sủng khác được truyền thông trong chính việc cử hành, và các hoa trái của cuộc sống mới mà việc cử hành nhắm sản sinh ra sau đó.



Chúa Thánh Thần nhắc nhớ mầu nhiệm Đức Kitô


1099. Chúa Thánh Thần và Hội Thánh cùng cộng tác để Đức Kitô và công trình cứu độ của Người được biểu lộ trong phụng vụ. Đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, và một cách tương tự trong các bí tích khác, phụng vụ là Sự Tưởng niệm mầu nhiệm cứu độ. Chúa Thánh Thần là ký ức sống động của Hội Thánh[15].


1100Lời Chúa. Trước hết, Chúa Thánh Thần gợi cho cộng đoàn phụng vụ nhớ lại ý nghĩa của biến cố cứu độ khi Ngài ban sức sống cho Lời Chúa đang được loan báo, để chúng ta có thể đón nhận và sống Lời Chúa:

“Trong cử hành phụng vụ, Thánh Kinh là hết sức quan trọng. Thật vậy, những bài trích từ Thánh Kinh được đọc lên, rồi được giải thích trong bài giảng, những Thánh vịnh trong Thánh Kinh được hát lên; và do sự gợi hứng và thúc đẩy của Thánh Kinh mà những lời kinh, lời nguyện và các bài phụng ca tuôn trào; và cũng từ Thánh Kinh mà các hành động cũng như các dấu chỉ có được ý nghĩa của chúng”[16].


1101. Chúa Thánh Thần ban cho người đọc cũng như người nghe, tuỳ theo việc họ chuẩn bị tâm hồn, sự hiểu biết thiêng liêng về Lời Chúa. Qua các lời, các hành động và các biểu tượng, dệt thành việc cử hành, Chúa Thánh Thần đưa các tín hữu và các thừa tác viên vào trong tương quan sống động với Đức Kitô, là Lời và Hình Ảnh của Chúa Cha, để họ có thể làm sao cho ý nghĩa của các điều họ nghe, họ chiêm ngắm và họ hành động trong cuộc cử hành, được đưa vào trong đời sống của họ.


1102. “Chính Lời của ơn cứu độ nuôi dưỡng đức tin trong tâm hồn các tín hữu; nhờ đức tin đó mà cộng đoàn các tín hữu khởi đầu và lớn lên”[17]. Việc loan báo Lời Chúa không dừng lại nơi một lời giảng dạy nào đó: nó đòi hỏi sự đáp lại của đức tin, xét như một ưng thuận và dấn thân, để có một Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài. Chúa Thánh Thần còn ban ơn đức tin, củng cố và làm tăng trưởng đức tin trong cộng đoàn. Cộng đoàn phụng vụ trước hết là sự hiệp thông trong đức tin.


1103. Kinh Tưởng niệm (Anamnesis). Việc cử hành phụng vụ luôn quy chiếu về những lần can thiệp cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử. “Nhiệm cục mạc khải này được thực hiện bằng các việc làm và lời nói có liên hệ mật thiết với nhau, theo nghĩa là … các lời … công bố các việc làm và làm sáng tỏ mầu nhiệm được chứa đựng trong đó”[18]. Trong phụng vụ Lời Chúa, Chúa Thánh Thần “nhắc” cho cộng đoàn “nhớ” tất cả những gì Đức Kitô đã làm cho chúng ta. Theo bản chất của các hành động phụng vụ và theo các truyền thống nghi lễ của các Giáo hội, việc cử hành “nhắc nhớ lại” kỳ công của Thiên Chúa trong phần Tưởng niệm (Anamnesis) được triển khai dài hay ngắn. Chúa Thánh Thần, Đấng nhắc cho Hội Thánh nhớ lại như vậy, cũng thúc giục Hội Thánh tạ ơn và ca ngợi (Doxologia).



Chúa Thánh Thần hiện tại hóa mầu nhiệm Đức Kitô


1104. Phụng vụ Kitô giáo không những gợi nhớ các biến cố đã giải thoát chúng ta, mà còn làm cho các biến cố đó hiện diện và tác động trong hiện tại. Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô được cử hành, chứ không phải được tái diễn; chỉ có các cuộc cử hành là được tái diễn; trong mỗi lần cử hành đều có sự tuôn đổ Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho mầu nhiệm duy nhất được hiện tại hoá.


1105Kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis – “khẩn cầu-trên”) là lời khẩn cầu của vị tư tế nài xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần, Đấng Thánh Hóa đến, để các lễ vật trở thành Mình và Máu Đức Kitô, và khi lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, chính các tín hữu cũng trở thành lễ vật sống động dâng lên Thiên Chúa.


1106. Cùng với kinh Tưởng Niệm (Anamnesis), kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis) nằm ở trung tâm mỗi cuộc cử hành bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể:

“Bạn hỏi: làm thế nào Bánh trở nên Mình Đức Kitô và Rượu trở nên Máu Đức Kitô? Tôi xin thưa với bạn: Chúa Thánh Thần ngự đến và thực hiện những điều đó, những điều vượt trên mọi lời nói và mọi tư tưởng…. Bạn chỉ cần nghe biết đó là bởi Chúa Thánh Thần; cũng như do Mẹ Thiên Chúa và bởi Chúa Thánh Thần, Chúa đã nhận lấy xác phàm cho Người và nơi chính mình Người”[19].


1107. Quyền năng biến đổi của Chúa Thánh Thần trong phụng vụ làm cho Nước Chúa mau đến và mầu nhiệm cứu độ chóng hoàn tất. Trong việc chờ đợi và trong niềm hy vọng, Ngài thật sự làm cho chúng ta được tham dự trước vào sự hiệp thông sung mãn của Thiên Chúa Ba Ngôi. Được Chúa Cha, Đấng nhận lời khẩn cầu của Hội Thánh, sai đến, Chúa Thánh Thần ban sự sống cho những ai đón nhận Ngài và ngay từ bây giờ, đối với những kẻ ấy, Ngài là “bảo chứng” phần gia nghiệp của họ[20].



Ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần


1108. Mục đích của sứ vụ Chúa Thánh Thần trong mọi hoạt động phụng vụ là để chúng ta được hiệp thông với Đức Kitô để làm nên Thân Thể Người. Chúa Thánh Thần như nhựa sống trong cây nho của Chúa Cha, mang lại hoa trái nơi các ngành nho[21]. Trong phụng vụ, sự cộng tác mật thiết giữa Chúa Thánh Thần và Hội Thánh được thực hiện. Chính Ngài, Thần Khí của sự hiệp thông, luôn hiện diện trong Hội Thánh, và do đó, Hội Thánh là bí tích lớn của sự hiệp thông của Thiên Chúa, một bí tích quy tụ các con cái Thiên Chúa còn đang tản mác. Hoa trái của Chúa Thánh Thần trong phụng vụ là, một cách không thể tách rời, sự hiệp thông với Ba Ngôi Chí Thánh và sự hiệp thông huynh đệ[22].


1109. Kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần (Epiclesis) cũng là lời nguyện xin cho cộng đoàn được hiệp thông trọn vẹn trong mầu nhiệm Đức Kitô. “Ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2 Cr 13,13) phải luôn ở với chúng ta và đem lại hiệu quả vượt ra ngoài lúc cử hành thánh lễ. Vì vậy, Hội Thánh cầu xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến để Ngài làm cho đời sống các tín hữu trở thành của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa, nhờ sự biến đổi thiêng liêng theo hình ảnh Đức Kitô, nhờ chăm lo cho sự hợp nhất của Hội Thánh và nhờ tham dự vào sứ vụ của Hội Thánh bằng việc làm chứng và phục vụ bác ái.



TÓM LƯỢC


1110Trong phụng vụ của Hội Thánh, Chúa Cha được chúc tụng và tôn thờ với tư cách là nguồn mạch mọi chúc lành trong công trình tạo dựng và cứu độ; qua đó Ngài đã chúc lành cho chúng ta trong Con của Ngài để ban Thần Khí nghĩa tử cho chúng ta.


1111. Công trình của Đức Kitô trong phụng vụ mang tính bí tích bởi vì mầu nhiệm cứu độ của Người được quyền năng Chúa Thánh Thần làm cho hiện diện; bởi vì Thân Thể của Người là Hội Thánh cũng là bí tích (dấu chỉ và dụng cụ) nhờ đó Chúa Thánh Thần ban phát mầu nhiệm cứu độ; và bởi vì Hội Thánh lữ hành, qua các hành động phụng vụ của mình, được tham dự như nếm trước Phụng vụ thiên quốc.


1112. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần trong phụng vụ của Hội Thánh là chuẩn bị cho cộng đoàn gặp gỡ Đức Kitô; là nhắc nhớ và làm tỏ hiện Đức Kitô cho đức tin của cộng đoàn; là, nhờ quyền năng biến đổi của Ngài, làm cho công trình cứu độ của Đức Kitô hiện diện và tác động trong hiện tại, và làm cho hồng ân hiệp thông được sinh hoa kết quả trong Hội Thánh.



Nguồn: http://giaolyductin.net


[1] X. Lc 10,21.

[2] X. Ga 13,1; 17,1.

[3] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 6: AAS 56 (1964) 100.

[4] X. Ga 20,21-23.

[5] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 7: AAS 56 (1964) 100-101.

[6] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 7: AAS 56 (1964) 101.

[7] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 8: AAS 56 (1964) 101; x. Id., Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 50: AAS 57 (1965) 55-57.

[8] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 2: AAS 57 (1965) 6.

[9] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 14-16: AAS 58 (1966) 824-825.

[10] X. Lc 24,13-49.

[11] X. 2 Cr 3,14-16.

[12] X. 1 Pr 3,21.

[13] X. 1 Cr 10,1-6.

[14] X. Lc 1,17.

[15] X. Ga 14,26.

[16] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 24: AAS 56 (1964) 106-107.

[17] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, 4: AAS 58 (1966) 996.

[18] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 2: AAS 58 (1966) 818.

[19] Thánh Gioan Đamascênô, Expositio fidei, 86 [De fide orthodoxa, 4, 13] : PTS 12, 194-195 (PG 94, 1141. 1145).

[20] X. Ep 1,14; 2 Cr 1,22.

[21] X. Ga 15,1-17 ; Gl 5,22.

[22] X. 1 Ga 1,3-7.