THIÊN CHÚA VÀ TRẦN THẾ
Joseph Ratzinger
Biển-đức XVI.
Thiên Chúa và Trần Thế
Tin và Sống trong thời đại
ngày nay
Trao đổi với Peter Seewald
Phạm Hồng-Lam chuyển ra Việt
ngữ
CHƯƠNG I
THIÊN CHÚA
Thưa hồng i, tiến bộ khoa học ngày càng lột trần những bí ẩn của tạo
dựng. Dù vậy, tạo dựng luôn vẫn là một ẩn số đối với ta. Tại sao Chúa không
hiện ra một lần và nói: „Này các con hãy nghe! Hôm nay Ta cho các con biết vũ
trụ đã hình thành như thế nào và trái đất tí hon của các con vận hành ra sao“?
Quả thật tạo dựng là
một ẩn số; và ta càng biết thêm về nó, khoa vật lí càng đi sâu vào cấu trúc tế
vi của vật chất, tạo dựng càng trở nên bí ẩn. Thêm nữa, lịch sử không thể hiểu
và không thể lường của loài người cũng là một vũ trụ đầy bí ẩn.
Hẳn nhiên, cuối cùng
rồi thì ta vẫn không thể trả lời được câu hỏi: „Tại sao Chúa lại làm như thế?“
Tại sao Ngài lặng lẽ như thế? Tại sao Ngài bất lực như thế trong trần gian? Đó
là câu hỏi mà chính người có đức tin luôn phải đặt ra. Hay: Tại sao Ngài không
tỏ ra dứt khoát và rõ ràng hơn? Nhưng mặt khác, ta phải biết phận ta là hữu
hạn. Nếu bỗng dưng thế giới bị lột trần hoàn toàn ra trước mắt ta, và việc lột
trần đó vượt quá trí hiểu của ta, thì rồi các thắc mắc trên cũng vẫn không thể
lí giải. Thành ra, ta chỉ có thể cố gắng chấp nhận Chúa như Ngài vẫn là, và rồi
qua Ngài ta tìm ra í nghĩa.
Ý nghĩa nào?
Tôi tin rằng, khi ta
mạo hiểm vào một lịch sử mà rốt cuộc vẫn không thể hiểu nó nổi, nhưng biết rằng
lịch sử đó được tình yêu Chúa nâng đỡ và hướng dẫn, thì rồi với thời gian, ta sẽ
nhìn ra từng phần. Mạo hiểm đó là một công tác phù hợp Chúa trao cho loài người
chúng ta. Vấn đề không phải là để ta có được một sản phẩm tính toán tiền chế ẩn
dấu đâu đó, nhưng là ta bước vào một con đường, và trên con đường đó, chính
chúng ta có thể đóng góp vào cái bí ẩn và lớn lao của thế giới. Tôi nghĩ, Chúa
đã ban cho ta đủ vốn liếng để ta có thể sống. Và giới hạn nhận thức của ta
không chỉ là một thách đố, mà cũng là một quà tặng. Nó dẫn ta vào cuộc phiêu
lưu của tiếp tục lên đường, của học hỏi, nhờ đó các chiều kích nơi ta lớn lên
dần. Nhưng điều kiện đặt ra ở đây, là phải luôn khiêm tốn cúi mình trước
Thiên Chúa, đấng mà ta không thể thấu hiểu.
1. CON NGƯỜI
Nhà thần học Hans Urs von Balthasar* cho rằng, mọi điều có
thể được nhìn dưới hai mặt, chúng vừa là dữ kiện vừa là bí ẩn. Ông nói: con
người, nếu nhìn như một dữ kiện, thì nó là một sản phẩm ngẫu nhiên bên lề vũ
trụ. Nhưng nếu nhìn như một bí ẩn, thì đó là tạo vật được Chúa sinh ra vì chính
ơn ích của nó. Lối nhìn đó có phải là nền tảng giúp ta tiếp cận được nhân sinh
quan và thế giới quan ki-tô giáo không?
Đúng, tôi muốn nói
như thế. Thoạt tiên, chúng ta thấy những dữ kiện, nghĩa là thấy được thực tại
như nó có. Lịch sử cũng được nhìn như vậy, trong đó thật ra mọi chuyện cũng có
thể xẩy ra một cách khác. Nhưng con người không ai bằng lòng mình chỉ là dữ
kiện. Là vì, ngoài việc biết mình tiên vàn là một dữ kiện thuần tuý, mọi người
trong chúng ta đồng thời cũng biết mình không phải chỉ có thế, mà còn là gì hơn
thế nữa, và sự có mặt của mình không phải là một ngẫu nhiên.
Vì thế, không nhất
thiết phải nhìn con người dưới khía cạnh dữ kiện thuần tuý, rồi bảo rằng, con
người chỉ là sinh vật bị trò chơi tiến hoá ném vào thế giới. Không, mọi người
đều là sản phẩm mong muốn. Mỗi người là một í nghĩ của Thiên Chúa. Tất cả mọi
sự, thoạt tiên xuất hiện như một dữ kiện, đều được tác động bởi một chương
trình và một í nghĩ. Và nhờ có í nghĩ này mà cuộc tìm kiếm í nghĩ riêng của
tôi, và việc tôi bước đi cùng với toàn thể cũng như với đường đi của lịch sử trở
nên có í nghĩa.
Mỗi người là một í nghĩ của Chúa. Nghiã là sao?
Vâng, đó là xác tín
nền tảng của Ki-tô giáo. Khi Kinh Thánh dùng hình ảnh để trình bày việc tạo
dựng con người: nó được người thợ Thiên Chúa nặn ra và thổi tinh thần vào, thì
đó là hình ảnh mẫu được áp dụng cho từng người một. Con người nói về mình trong
Thánh Vịnh: Ngài đã tạo ra tôi bằng bùn đất ; Ngài đã thổi hơi cho tôi.
Điều này nói lên rằng, mỗi người có một giao tiếp trực tiếp với Chúa. Và như
vậy, mỗi người đều mang một vai trò đầy í nghĩa trong cấu trúc to lớn của lịch
sử thế giới, mỗi người đều được đặt để vào một vị trí riêng, và với vị trí đó,
nó có thể đóng góp phần không thể thay thế được của mình vào cái toàn thể của
lịch sử.
HƠI THỞ THIÊN CHÚA
Sách Sáng Thế
viết: Lúc đầu, địa cầu lạnh lẽo và trống không. Thiên Chúa chưa cho mưa xuống.
Giờ đây Ngài dựng nên con người, và để làm chuyện đó, Ngài lấy „bụi đất và thổi
hơi sự sống vào mũi, nhờ vậy con người trở thành vật sống động“. Hơi sự sống –
có phải là câu trả lời cho ta về phát nguyên của con người?
Tôi tin đó là một
hình ảnh hết sức lớn và là một tiên đoán quan trọng về con người. Theo đó, con
người bắt nguồn từ đất và từ các khả thể của đất. Đoạn phim này ta cũng có thể
đọc nó như một thứ tiến hoá. Nhưng không chỉ có thế mà thôi. Một thứ gì nữa đã
được thêm vào; nó chẳng phải là đất mà cũng không thể tự phát triển thêm, nhưng
là một cái gì hoàn toàn mới: và đó chính là hơi thở Thiên Chúa.
Cơ bản của bức tranh
trên là tính hai mặt của con người. Con người vừa thuộc vào vũ trụ, vừa trực
tiếp với Chúa. Đức tin ki-tô giáo cho hay, điều được thông báo cho con người
đầu tiên ở đây cũng có giá trị cho từng người một. Nghĩa là mỗi người là một
sinh vật, nhưng đồng thời nó còn có cái gì hơn là một sản phẩm gồm những di tử
(Gene) và chuỗi DNA, nó là cái gì đến trực tiếp từ Thiên Chúa.
Con người mang hơi
thở Thiên Chúa. Nó có thể giống Thiên Chúa, nó có thể vượt lên trên vật chất,
vượt lên trên cái được tạo thành. Nó là thứ có một không hai. Nó được Thiên
Chúa đoái hoài và được xếp một cách đặc biệt vào cùng loại với Ngài. Qua con
người, quả thật một hơi thở mới, hơi thở Thiên Chúa, đã đi vào tạo dựng. Có
nhìn con người là tạo vật đặc thù của Chúa như thế, ta mới thấy được nét độc
nhất và phẩm giá của nó, và qua đó, mới nhận ra được nền tảng của mọi nhân
quyền. Có như thế, con người mới có được sự kính trọng đối với chính mình và
với kẻ khác. Nó mang hơi thở của Chúa. Nó biết rằng, nó không chỉ là một kết
hợp các vật liệu kiến trúc, mà còn là một í nghĩ riêng tư của Thiên Chúa.
Con người đầu tiên được Chúa thở hơi mang tên Adam,theo tiếng Hi-lạp
nghĩa là người, đồng thời cũng là Adama, một lối chơi chữ, có nghĩa là đất.
Sách ghi, Thiên Chúa đã lập nên một mảnh vườn trong địa đàng cho con người đó.
Có phải hình ảnh biểu trưng đó đã nói lên mục đích sinh thành của con người?
Hẳn nó cho chúng ta
biết về chuyện đó. Vườn biểu tượng cho tạo dựng lành lặn và cuộc sống an toàn.
Trong đó tạo dựng không bị phá hoại hay bị lợi dụng, nhưng được chăm sóc và che
chở - và được tiếp tục hình thành về mặt tinh thần. Hình ảnh đó nói lên tất cả
tầm xa, nét tươi vui và sự chở che trong tạo dựng. Nó cho hay, Chúa muốn cho ta
sống hài hoà với tạo dựng và được sống an toàn bên Ngài. Như thế, nó cho thấy
hai khía cạnh nơi con người: là kẻ canh giữ tạo dựng, đồng thời có quan hệ trực
tiếp với Chúa, để có thể nhờ Ngài và cùng với Ngài chia sẻ gánh tạo dựng.
Sách Khởi-nguyên cho thấy tạo dựng là một tiến trình. Mọi chuyện được
hình thành từng bước. Và trong tiến trình đó Chúa nhận thấy „con người ở một
mình không tốt. Ta muốn giúp nó có đối vật để hỗ trợ nó“. Vì thế Ngài đã dùng
đất tạo ra muôn thú trên đồng và muôn chim trên trời và đưa chúng cho con
người, để xem con người muốn đặt tên gì cho chúng. Một cơ hội tốt để nói về thú
vật, là loài sống gần với ta. Adam đặt cho mỗi loài một tên. Ta có được phép sử
dụng thú vật và ăn thịt chúng không?
Đây là một câu hỏi
rất nghiêm túc. Rõ ràng loài vật được trao cho ta canh giữ, và ta không được
đối xử một cách tuỳ tiện với chúng. Cả loài thú cũng là tạo vật của Chúa, tuy
chúng không được tạo ra trực tiếp như con người, nhưng vẫn là những vật do Ngài
muốn, và ta phải quý trọng chúng như là những kẻ đồng hành và như những thành
tố quan trọng của tạo dựng.
Về câu hỏi có được
phép giết và ăn thịt thú không, đã có câu trả lời lạ lùng trong Kinh Thánh.
Theo đó, thoạt tiên của ăn của loài người là cây cỏ. Chỉ sau khi xẩy ra nạn
hồng thuỷ, nghĩa là sau cuộc đứt đoạn mới giữa con người với Chúa, Ngài mới để
cho con người tự quyết định việc ăn thịt thú vật. Điều này có nghĩa là, ăn thịt
thuộc vào trật tự hạng hai và nó cũng chỉ được thông báo về sau. Dẫu sao, nếu
việc ăn thịt thú có làm buồn lòng một người nào, ta cũng không nên để mình trở
nên môn đồ của phái thờ thú vật.
Nghĩa là con người
cũng được phép ăn thịt thú. Không ai cấm họ dùng thú làm của ăn, nhưng khi làm
điều đó, họ nên giữ lòng quý trọng thú vật. Còn cái lối dùng thú như kĩ nghệ
làm, như nhồi nhét cho ngan ăn để có gan lớn, hay khoá gà trong chuồng biến
chúng thành những con vật dị hợm, cái lối hạ sinh vật xuống thành hàng hoá đó,
tôi cho rằng phản lại sự tương thuộc giữa người và thú, như Kinh Thánh đã chỉ
cho ta thấy.
Thế giới thú vật quả là một tạo dựng đầy man rợ. Ai cũng biết, có những
loài thú có thể bất cứ lúc nào cũng săn đuổi, cắn xé và giết đồng loại. Con nào
thoát, con đó thật sự có được cơ hội lớn để huỷ diệt con khác.
Quả là một ẩn số của
tạo dựng, khi xem ra trong tạo dựng có sự hiện diện của quy luật bạo tàn. Nhà
văn công giáo Reinhold Schneider, người vốn có khuynh hướng suy nhược thần
kinh, đã lột trần mọi cái khủng khiếp trong thiên nhiên và trong thế giới loài
thú ra cùng với cái nhìn thật chi li của một con người đau khổ. Và ông đã tuyệt
vọng về Chúa và về tạo dựng.
Giáo hội vẫn luôn tin
rằng, sự rối loạn của tội tổ tông ảnh hưởng cả lên tạo dựng. Nó khiến cho tạo
dựng không còn phản ảnh í định trong suốt của Thiên Chúa nữa. Nó làm cho mọi
thứ, một cách nào đó, bị biến dạng. Thành ra chúng ta đứng trước những bí ẩn.
Dù sao, thế giới loài vật cũng đã gợi lên cho ta thấy trước những nguy hại có
thể có nơi con người.
NGƯỜI NAM VÀ NGƯỜI NỮ
Theo sách Khởi-nguyên, kể từ đây thế giới có lẽ mới được trở thành là
thế giới loài người. Chúa tiếp tục tạo ra các đối vật cho con người, và Kinh
Thánh khoác cho hành vi đó một bức tranh tuyệt mĩ. Kinh Thánh viết: „Nhưng con
người không tìm thấy sự hỗ trợ trong đối vật“. Chúa liền để cho con người ngủ
say, rút một xương sườn ra và lấy thịt lấp chỗ đó lại. Thiên Chúa dùng xương
sườn này làm thành một người nữ và đưa tới cho Adam. Và con người thốt lên:
„Đây mới thật xương của xương tôi, thịt từ thịt tôi“. Kinh Thánh tiếp, từ
đó người nam bỏ cha mẹ và hợp với vợ mình để thành một xương thịt.
Adam, theo ngữ nghĩa
là „người”, gọi vợ mình là Eva. Eva có nghĩa là sự sống, và như thế Eva là mẹ
của mọi loài sinh vật. Có lẽ cho tới ngày nay, các ông vẫn còn cảm thấy mất mát
về vụ tặng xương đó, hình như trong chuyện này ẩn chứa một bí mật lớn nào đó ?
Đây cũng là một trong
những hình ảnh nguyên mẫu mà Kinh Thánh đã tặng cho ta, để nhờ đó ta hiểu được
những điều khó hiểu. Trước hết, ở đây nhấn mạnh tới sự bình đẳng giữa nam và
nữ. Cả hai là một bản chất và
cùng có một phẩm giá. Dù sao, ở
đây, sự bình đẳng phẩm giá đã được trình bày một cách thật tài tình. Điểm thứ
hai là sự tương thuộc lẫn nhau. Điều này thể hiện qua vết thương hiện hữu trong
mỗi chúng ta và nó dẫn ta đi tới với người khác.
Hình ảnh, mà ta gặp
trong Kinh Thánh ở đây, đã xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau trải dài trong
toàn bộ lịch sử tôn giáo. Cả Platon cũng đã kể về huyền thoại con
người cắt đôi và mỗi nửa trở thành người nam và người nữ. Nhìn như thế, thì mỗi
người chỉ là một nửa, và nửa này luôn trên đường đi tìm nửa kia của nó. Dịch
chữ „xương sườn“ không chắc lắm. Có lẽ ở đây cũng là hình ảnh tương tự như
trên, trong đó con người tự phân đôi và nửa này được tạo thành cho nửa kia.
Người nam cho người nữ, người nữ cho người nam. Họ tìm kiếm nhau, để gặp
lại cái toàn thể của họ.
Và nếu làm khác đi thì không có cái toàn thể đó?
Con người được tạo ra
trong nhu cầu cần tới người khác, để nó vượt qua được chính mình. Nó cần sự bổ
túc. Nó không được tạo ra để sống đơn độc, điều này không tốt cho nó, mà để
sống vì nhau. Nó phải tìm và gặp nó trong người khác.Sau đoạn sách Khởi-nguyên
đó, ta cũng thấy tiếp câu tiên tri: vì thế người nam sẽ bỏ cha mẹ để cùng với
vợ mình kết thành một thân xác. Họ trở thành một thân xác với nhau, cùng nhau
thành một con người. Toàn bộ bi kịch về nhu cầu của phái tính, về sự cần nhau,
về tình yêu đều nằm trong đó. Ngoài ra, trong đó cũng nói tới việc hai người
trao thân cho nhau, để chính từ việc trao thân này phát sinh một sự sống mới,
và cả hai rốt cuộc hiến mình cho sự sống mới đó. Như thế, ở đây, bí ẩn hôn nhân
cũng đã được nói tới, và cả chuyện gia đình cũng đã được nhắm tới.
Lắm lúc người ta có thể nghĩ rằng, đàn bà là tạo vật thành công và tốt
hơn đàn ông, vì họ được tạo dựng sau. Họ xem ra không những đẹp hơn, mà cả phát
triển hơn.
Tôi không muốn mở ra
đề tài tranh luận này. Không chối cãi là đàn bà có nhiều khả năng đặc biệt, và
trong một khía cạnh nào đó, giỏi chịu đựng và dai sức hơn. Và với khả năng yêu
đặc biệt trời cho, họ có thể mang trong mình một con người mới và trao đi chính
mình, máu thịt mình cho con người mới đó, tất cả những thứ đó làm cho người đàn
bà có được sự tôn vinh và nét cao cả riêng. Còn những thứ khác, chúng ta nam
hay nữ nên trao lại cho Chúa, và cả hai nên cố gắng cùng nhau sống sao cho đời
mình được tốt đẹp.
Trên thực tế, có lẽ cả nam lẫn nữ không phải là hai bản chất hoàn toàn
khác nhau?
Đúng, nhưng chúng ta
cứ muốn chống lại điều đó. Cả
hai đều là một con người. Và vì thân xác không chỉ là một phụ phẩm bên ngoài
thêm vào cho con người, nên sự khác biệt thân xác dĩ nhiên là một khác biệt
xuyên suốt toàn thể con người, và có thể nói, nó biểu hiện cho hai cách thế làm
người. Tôi nghĩ, ta phải chống lại những thuyết sai trái về quan niệm bình đẳng
cũng như về khác biệt.
Sai, nếu ta chủ trương đánh đồng nam nữ, rồi bảo rằng mấy cái khác biệt
thể lí lẻ tẻ đó chẳng ăn nhập gì. Đây là khuynh hướng ngày nay đang chiếm thế
thượng phong. Cá nhân tôi vẫn chưa hết rùng mình trước cảnh người ta muốn gọi
nữ giới nhập ngũ. Đúng ra, họ là người canh giữ hoà bình, và chúng ta muốn thấy
họ là lực lượng đối địch lại với tính ham gây gỗ và thích chiến tranh của nam
giới. Vậy mà giờ đây họ lại ôm súng lang thang đây đó, cho thấy mình cũng có
khả năng đánh nhau không thua gì nam giới. Cũng như cảnh phụ nữ có “quyền” làm
phu đổ rác và làm thợ mỏ. Tất cả những gì lẽ ra người ta không nên làm cho họ,
vì kính trọng nét cao cả, kính trọng sự khác biệt lớn lao và phẩm giá của họ,
thì giờ đây người ta lại làm vì nhân danh bình đẳng. Theo tôi, đó là cái nhìn
của chủ nghĩa ma-ni-kê, một chủ nghĩa chống lại thân xác.
Nhưng đó nhất định không phải là một khám phá
của thời đại chúng ta.
Platon bảo, người ta nên đẩy cả nam lẫn nữ vào trại lính, cả hai nên làm
công việc như nhau, vì cơ thể chẳng có gì quan trọng. Con người chỉ quan trọng
nơi trí tuệ, và khi có con cái, nên đưa chúng vào vườn trẻ của nhà nước. Trên
căn bản, í hệ bình đẳng này là một chủ trương duy linh, một thứ khinh miệt thân
xác, í hệ đó không muốn công nhận chính thân xác cũng là con người. Vì thế,
theo tôi, loại bình đẳng đó không nâng cao nữ giới, nhưng lấy đi nét cao cả nơi
họ. Nó kéo họ xuống hạng tầm thường, khi muốn họ trở thành nam giới.
Mặt khác, cũng có một í hệ giả tạo về khác biệt. Nó thường nhìn phái nữ
như là hạng người thấp kém, chỉ có nấu nướng và quét dọn, trong khi đó các ông
có quyền ăn nói, ra trận và tự coi mình ở vào một giai cấp cao hơn. Nó coi phái
nữ chỉ là xác thịt, nhục dục, trí tuệ hẹp hòi, kém sáng tạo, và nhiều thứ khác
nữa. Như thế, í hệ khác biệt đã vươn lên thành chủ trương giai cấp mang tính
tôn giáo. Nhận thức đó che lấp đi tính cách độc đáo của tạo dựng. Tạo dựng của
Chúa thật đa dạng, nhưng vẫn mang tính thống nhất và bổ túc cho nhau.
Dù vậy, không ít khi các đôi vợ chồng thường
chia tay bằng cuộc cãi cọ nhuốm màu phái tính.
Nam và nữ thuộc vào nhau. Họ có những năng khiếu cần được phát huy, để
nhờ đó, đời người mới toả rộng chân trời và mới trưởng thành. Dĩ nhiên, ta biết
cái khác biệt trong sự nhất thống đó có thể đưa tới căng thẳng và thử thách. Trong
mỗi tình bạn cũng thế. Càng gần nhau, người ta cũng có thể bực bội nhau nhiều
hơn.
Tình yêu là một đòi hỏi không cho phép tôi được yên thân nguyên vẹn một
mình. Trong tình yêu, tôi không thể đơn giản vẫn là tôi, nhưng tôi luôn phải bỏ mình bằng cách bị gọt dũa, bị thương
tích. Và tôi nghĩ, chính điều đó cũng là thành phần của tầm lớn và sức mạnh
chữa trị của tình yêu, nó chấn thương tôi, để làm thức dậy những khả thể lớn
hơn trong tôi. Vì thế, không được nghĩ rằng tình yêu chỉ có tính lãng mạn mà
thôi, nghĩa là bầu trời đã ập xuống trên hai người khi họ hợp í nhau, và từ lúc
đó trở đi, chỉ còn toàn là điều tốt mà thôi.
Phải coi tình yêu như đam mê. Chỉ khi ta sẵn sàng chịu đựng nó như đam
mê, và luôn chấp nhận nhau một cách mới mẻ, thì cuộc tình duyên suốt đời mới có
thể trưởng thành. Nếu không như thế, khi gặp khủng hoảng, ta sẽ tìm cách tránh
né và rã nhau. Và như vậy, ta đánh mất cơ hội đích thực nằm sẵn trong sự kết
hợp nam nữ, cũng là cơ hội nằm sẵn trong thực tại tình yêu.