THIÊN CHÚA VÀ TRẦN THẾ
Joseph Ratzinger
Biển-đức XVI.
Thiên Chúa và Trần Thế
Tin và Sống trong thời đại
ngày nay
Trao đổi với Peter Seewald
Phạm Hồng-Lam chuyển ra Việt
ngữ
CHƯƠNG I : THIÊN CHÚA
6. LỀ LUẬT (tiếp
theo)
GIỚI RĂN THỨ BỐN
« Ngươi phải tôn
kính cha mẹ, để được an khang và sống lâu trên trái đất »
Đây là giới răn duy nhất gắn liền với một hứa hẹn. Đức Giê-su nhiều lần
nói tới tầm quan trọng của giới răn này.Tôi muốn kể ở đây một câu chuyện nhỏ.
Đó là chuyến nghỉ hè của chúng tôi, và tôi rất vui khi thấy hai đứa con vui.
Thằng Paul ngồi hàng giờ câu cá măng và các chú tôm nhỏ. Jakob đào chơi cát.
Chúng tôi chèo một chiếc thuyền nhỏ và Paul bơi theo rất lâu bên cạnh. Nó bỗng
nhiên chẳng còn sợ nữa và rất hãnh diện vì mình có thể bơi một mình. Có lúc tôi
ngồi trên mỏm đá xa xa nhìn vợ con, thấy tất cả khoẻ mạnh, tươi trẻ. Lòng tự
nhủ, đây là khởi đầu thời gian đẹp nhất của đời mình, và tôi không muốn
phí phạm nó, tôi nghĩ có được như vầy thì tuyệt quá. Nhưng bỗng dưng tôi chợt
nghĩ tới bố mẹ và ông bà tôi – và cũng nghĩ tới giới răn thứ bốn này.
Giới răn này quả là
đại hiến chương (Magna Charta) của gia đình. Nó xác định một trật tự nền tảng.
Nó nói cho chúng ta hay, tế bào căn bản của xã hội tính và của xã hội là gia
đình, là cha mẹ và con cái. Và chỉ trong trật tự nền tảng đó ta mới tập được
những đức tính căn bản. Chỉ trong đó tương quan nam nữ và tương quan thế hệ mới
nẩy nở đúng.
Một mặt, giới răn
chứa đựng nhiệm vụ giáo dục, nghĩa là hướng dẫn người khác bước vào tự do của
họ một cách đúng đắn, để họ nhận ra những quy luật bên trong, để họ học sống
cho ra người. Trong quá trình giáo dục này, sự vâng lời đóng vai trò phục vụ
cho việc tập sử dụng tự do riêng. Và ngược lại, điều kiện đương nhiên về phía
con trẻ là phải chấp nhận sự giáo dục đó.
Điều răn thứ bốn cũng
dạy ta cách đối xử với người già cả, là những người hết ích lợi và sinh lực. Nó
dạy ta phải quý trọng cha mẹ già. Ta không nên chỉ nghĩ tới cái lợi, nhưng quý
trọng các ngài, vì các ngài đã cho ta sự sống. Qua các ngài, ta cũng quý trọng
phẩm giá con người nói chung, những con người giờ đây không còn tự giúp mình
được nữa. Sự kính trọng nền tảng đối với con người đó, là khía cạnh tối quan
trọng của giới răn này. Trong nó cũng hàm chứa tương lai của chính chúng ta, để
sau này ta có thể tin tưởng bước vào tuổi già.
GIỚI RĂN THỨ NĂM
« Ngươi không
được giết người »
Chẳng ai muốn phản đối điều này. Cái lạ là nó luôn bị lỗi phạm.
Trong con người, rõ
ràng có sự hiện diện của một nhận thức nguồn cội, nó bảo tôi không được phép
giết người. Dù tôi quên rằng, chỉ có Chúa mới có quyền trên con người, thì ít
nhất tôi cũng biết người đó có sự sống và nhân quyền riêng của họ, và nếu tôi
giết họ, là tôi phạm tội đối với nhân loại.
Tuy nhiên cái nhìn
trên đây càng ngày càng trở nên lu mờ nơi các trường hợp biên tiếp. Đặc biệt
nơi sự sống mới bắt đầu, là lúc nó chưa biết tự vệ, còn dễ bị lèo lái. Đây là
lúc dễ bị nguy cơ cái lợi sai khiến. Người ta muốn chọn để ai sống, bắt ai
chết, vì sợ rằng bào thai đó sẽ hạn chế tự do và nhân cách của mình. Nơi nào sự
sống chưa đủ vóc dáng và trí tuệ để đối phó, nơi đó í thức về giới răn thứ bốn
dễ mai một.
Trường hợp kết thúc
cuộc đời cũng thế. Người ta coi người bệnh, người đau khổ trở thành phiền hà và
nghĩ rằng cái chết có lẽ tốt hơn cho đương sự. Và đó là cớ để người ta vội vàng
trợ tử cho người bệnh.
Và từ đó cứ tùng
bước, từng bước một đi tới. Ngày nay, í nghĩ nuôi cấy người lại trở nên thịnh
hành, như ta đã thấy trong thời gian bất hạnh vừa qua. Người ta nẩy ra đắn đo,
không biết một người không còn í thức nữa và không còn khả năng hoàn thành được
vai trò xã hội nữa, có phải thật sự còn là một con người nữa không.
Suy tư từ đó cứ mở
tiếp ra. Đặc biệt, trong lãnh vực trợ tử, ta gặp ngay câu hỏi: Khi nào thì ta
có quyền chấm dứt một sự sống, để nó không phải chịu đau đớn quá đỗi. Xem
thế, trong các trường hợp tiếp biên, í thức cội nguồn và đạo đức của con người
về việc kính trọng sự sống kẻ khác quả rất dễ bị triệt tiêu. Điều răn thứ năm,
nói lên quyền của Chúa trên mạng sống con người từ lúc sinh ra cho tới lúc chết,
vì thế, lại đáng cho ta tranh luận hơn bao giờ hết.
GIỚI RĂN THỨ SÁU
« Ngươi chớ làm
sự dâm dục »
Thế giới chúng ta đã biến việc sở hữu và sử dụng tình dục thành ra một
đức tính. Nếu không phải là kẻ quá mê đắm dục tình, thì thử hỏi : Phải
chăng dâm dục thật sự là tội ?
Bản văn nguồn của
giới răn này trong Cựu Ước có nội dung như sau : « Ngươi chớ ngoại
tình » (Xh 20,14 ; Ds 5,18). Như vậy, giới răn này thoạt tiên có một
nghĩa rất nhất định. Nó dạy sự trung thành trong quan hệ vợ chồng, nó không
những bảo vệ tương lai con người, mà còn hội nhập tình dục hôn nhân vào trong
toàn thể cuộc sống làm người, và chỉ qua đó tình dục mới có được phẩm giá và
chiều kích cao cả.
Đó là tâm điểm của
giới răn. Hôn nhân không phải là một giao tiếp tạm bợ, mà là sự kết hợp giữa
hai người trong tiếng Vâng, tiếng Vâng này đồng thời cũng nói lên việc sẵn sàng
chấp nhận con cái. Như vậy, hôn nhân là nơi đích thực để cho tình dục nhận được
phẩm giá và cao cả. Chỉ nơi đó tinh thần mới thành cảm giác và cảm giác mới
thành tinh thần. Nơi đây diễn ra cái mà ta gọi là bản chất của con người. Nó có
vai trò như cây cầu nối liền hai điểm kết thúc của tạo dựng vào nhau và trao
cho nhau phẩm giá và nét cao cả.
Nếu giờ đây ta bảo,
chỗ của tình dục là hôn nhân, thì đương nhiên điều đó cũng hàm í rằng, chỉ
trong hôn nhân tình dục mới có được phẩm giá và sự nhân tính hoá đích thực. Hôn
nhân có nghĩa là một kết hợp trong tình yêu và chung thuỷ; nó bao hàm cả sự
chăm sóc lẫn nhau và sự sẵn sàng cho tương lai, nghĩa là hướng đến nhân loại trong
toàn thể.
Hẳn nhiên sức mạnh
quá lớn của bản năng tình dục, nhất là trong một thế giới ngập đầy yếu tố kích
dục như hiện nay, đã khiến cho bản chất hôn nhân bị lu mờ. Tình dục từ lâu đã
trở thành hàng hoá có thể mua bán. Nhưng như thế thì con người đã bị lợi dụng
thành kẻ bán dâm, nhân tính họ bị biến thể, và họ chẳng còn được kính trọng như
là một con người nữa. Những kẻ tự biến mình thành hàng hoá, hay bị ép buộc làm
chuyện đó, trước sau sẽ bị khai thác đến kiệt quệ. Và, lúc này đây, trên nền
chợ tình dục kia còn nẩy sinh thêm một chợ nô lệ mới. Như vậy, chính khi tôi
không đặt tình dục vào khuôn tự do trách nhiệm của đôi bên, không nối nó vào
trong cái toàn thể của sự sống, lúc đó con người đương nhiên trở thành vật mua
bán.
Xin ngài nói lại lần nữa tâm điểm của điều răn.
Đây là sứ điệp của
tạo dựng : Người nam và nữ được tạo nên cho nhau. Sách Sáng-thế viết: Họ
sẽ bỏ cha mẹ để hợp với nhau thành một thân xác. Vậy từ cái nhìn thuần sinh lí,
ta có thể nói được rằng, thiên nhiên đã sáng tạo ra tình dục để duy trì chủng
loại. Điều chúng ta thoạt tiên thấy như chỉ là một sản vật thiên nhiên, như là
một thực thể thuần sinh lí, đã trở thành dạng hình người qua sự chung sống của
người nam và người nữ. Đó là một cách con người mở ra cho nhau. Một cách không
những để làm triển nở sự gắn bó và chung thuỷ, mà còn mở ra một không gian để
con người có thể khởi đi từ lúc thụ thai tiến lên thành người. Không gian này
là chỗ đặc biệt nẩy sinh cuộc chung sống đúng đắn của con người. Điều thoạt
tiên chỉ là một quy luật sinh lí, một xảo thuật của thiên nhiên (nếu có thể nói
được như vậy), đã trở thành dạng hình người, trong đó nẩy sinh sự chung thuỷ và
gắn bó tình yêu giữa người nam và người nữ, và từ đó đồng thời hình thành nên
một gia đình.
Đó là tâm điểm của
giới răn mà tạo dựng muốn nói với ta. Càng suy nghĩ và sống trọn giới răn đó,
ta càng thấy rõ các loại tình dục khác không đưa ta tới độ cao chân thực của ơn
gọi làm người. Chúng không đạt tới cấp độ muốn có và nên có của tình dục con
người.
Chúng ta sẽ nói thêm
về tình dục ở chương sau. Nhưng thập giới xem ra phản lại quy luật thiên nhiên.
Chúng ta khó mà tuân giữ những điều đó được, vì chúng thường đi ngược lại bản
năng con người.
Đúng, khó tuân giữ.
Nhưng điều răn thứ sáu hàm chứa trong nó chính sứ điệp của thiên nhiên. Thiên
nhiên quy định sự hiện diện của hai phái, để cho giống nòi được tồn tại – đặc
biệt cho giống người, vì sau khi lọt lòng mẹ, con người còn lâu mới toàn thành
và còn cần một thời gian chăm sóc dài.
Con người không phải
là loài thoát tổ, mà là nằm tổ. Với cái nhìn thuần sinh lí, thì giống người cần
có tình yêu của cha mẹ như là lòng mẹ mở rộng, để mới có thể vượt qua cấp sinh
lí ban đầu, hầu tiến lên thành người được. Khung cảnh gia đình có thể xem là
điều kiện hiện hữu của con người.
Như vậy, chính thiên
nhiên ở đây đã mở cho ta thấy bộ mặt nguồn cội của loài người. Con người cần
một gắn bó tiếp tục với nhau. Trong sự gắn bó đó, thoạt tiên hai người nam nữ
hiến thân cho nhau – và rồi hiến thân cho con cái, để con cái cũng bước được
vào quy luật tình yêu, quy luật tự hiến. Nơi loài nằm tổ, rõ ràng cần có sự
chung thuỷ sau khi sinh. Như vậy, sứ điệp hôn nhân và gia đình hẳn là quy luật
của chính tạo dựng và không đi ngược lại bản chất con người.
Dù vậy, vẫn quả thật khó mà tuân giữ.
Đúng là trong lãnh
vực này, cũng như trong các lãnh vực khác mà chúng ta đã đề cập, đang có cảnh
lội ngược dòng. Có sự thặng dư quyền lực sinh lí. Ta thấy trong các xã hội tân
tiến – và cả trong xã hội của một số thời kì trước đây, chẳng hạn ở Rô-ma dưới
thời vua chúa – có một sự kích dục công khai, khiến sức mạnh bản năng gia tăng,
và vì thế gây khó khăn cho việc kết hợp hôn nhân.
Hãy trở lại với bốn
điều răn đã nói. Ta thấy ở đây có hai trật tự khác nhau của thiên nhiên. Thiên
nhiên một mặt cho hay, việc kết hợp nam nữ là hành vi thâm sâu nhất, nó rốt
cuộc trở thành một hành vi con người, và mở ra không gian để loài người có thể
phát triển. Một sứ điệp khác của thiên nhiên là chúng ta, trên phương diện nào
đó, cũng hướng về sự chung đụng khác giới, đặc biệt hướng về việc sử dụng tình
dục vượt ra ngoài khuôn khổ gia đình.
Đứng từ góc độ đức
tin, ta thấy rất rõ sự khác nhau của hai chiều hướng trên. Một bên nói lên sứ
điệp chân thực của tạo dựng. Bên kia phản ảnh khuynh hướng muốn làm chủ của con
người. Do đó, việc tự trói buộc mình vào hôn nhân luôn là một nỗ lực liên lỉ.
Tuy nhiên, ta cũng thấy, ở đâu nỗ lực đó thành tựu, ở đó có trưởng thành nhân
bản và trẻ con có thể học được tương lai. Ở đâu việc li dị trở thành thường
tình, ở đó trẻ con là giới chịu nhiều thiệt hại nhất. Như vậy, đứng từ phía trẻ
con mà nhìn, ta có thêm một lí do minh chứng sự kết hợp nam nữ, sự chung thuỷ
vợ chồng là đúng đắn và thật sự phù hợp cho con người.
GIỚI RĂN THỨ BẢY
« Ngươi chớ trộm
cắp ».
Coi trọng tài sản kẻ khác là chuyện thường tình. Giới răn có ám chỉ
thêm điều gì nữa không?
Bài học của tạo dựng
về quy định chung của tài sản không chỉ là một tư tưởng đẹp, mà nó còn phải
được thực hiện. Bài học này xác quyết mỗi người cần cho mình một số nhu cầu căn
bản để sống, và vì thế phải có luật để bảo vệ tài sản cho từng người. Ở đây,
nhà nước phải có những bộ luật để canh chừng và ngăn chận mọi lạm dụng tư hữu.
Ngay lúc này đây, ta
thấy rõ hơn bao giờ hết cảnh con người đang tự huỷ diệt mình, khi họ chỉ còn
biết sống cho của cải, cho đồ vật, khi họ ngụp lặn trong những thứ đó, và của
cải trở thành thượng đế của họ. Chẳng hạn, ai bị quy luật cổ phần chế ngự hoàn
toàn, kẻ đó chẳng còn suy nghĩ được gì khác. Ta thấy quyền lực của cải đè lên
con người nặng như thế nào. Càng có thêm, ách nô lệ càng nặng, bởi vì họ phải
lo giữ của và không ngừng làm tăng chúng.
Vấn nạn của quyền tư
hữu cũng thấy được rõ nét trong tương quan bất ổn giữa thế giới thứ nhất và thế
giới thứ ba. Ở đây, quyền tư hữu đã đi trệch ra ngoài quy luật chung về tài
sản. Phải tìm ra những hình thức pháp lí để giữ nó thăng bằng hoặc ngay cả đưa
nó về lại thế thăng bằng.
Như vậy, đàng sau
giới răn đó ta thấy một gánh nặng ghê gớm của thực tế. Giới răn nói tới việc
bảo vệ những gì cần thiết cho cuộc sống cá nhân (và những thứ đó cũng phải được
quý trọng), cũng như trách nhiệm làm sao sử dụng quyền sở hữu cho đúng, để đừng
đi ngược lại sự uỷ thác chung của tạo dựng và ngược lại tình yêu tha nhân.
GIỚI RĂN THỨ TÁM
« Ngươi chớ nói
dối » hay « Ngươi chớ làm chứng dối ».
Có nhiều chuyện tuyệt hay về nói dối. Nhiều khi chính những lời dối trá
nhỏ lại trở hành lớn, đến nỗi sém làm tiêu tan sự nghiệp các tổng thống của một
siêu cường hoặc sém khiến cho những đảng cầm quyền hay những ông vua truyền
thông sụp đổ. Chuyện lạ : chẳng có chi dấu được dưới ánh sáng mặt trời.
Tôi muốn nói, điều đó
cho thấy bản chất con người là yêu sự thật. Mọi giới răn chung quy đều là giới
răn của tình yêu, hoặc là những khai triển của giới răn tình yêu. Như vậy, tất
cả chúng rõ ràng cũng có liên quan tới sản phẩm chân lí. Khi tôi dấu diếm hoặc
làm méo mó sự thật, khi tôi trầm mình trong dối trá, lúc đó tôi thường làm
người khác thiệt hại, và cũng luôn làm thiệt hại cả chính tôi.
Những dối trá lặt vặt
dễ biến thành một thói quen, ở đâu rồi cũng dùng nói dối cho qua chuyện, dần
dần người ta tự trói mình trong dối trá, và vì thế sống ngược lại với thực tế.
Ngoài ra, mỗi lần làm tổn thương phẩm giá chân lí như thế, là mỗi lần ta không
những triệt hạ con người, mà còn lỗi phạm gia trọng chống lại tình yêu. Là vì
khi tôi dấu người khác sự thật, có nghĩa là tôi khước từ họ một tài sản nền
tảng, và dẫn họ vào đường sai trái. Chân lí là tình yêu, và tình yêu sẽ trở nên
dị hợm, khi nó chống lại sự thật.
GIỚI RĂN THỨ CHÍN VÀ THỨ MƯỜI
« Ngươi chớ muốn
vợ người khác ». « Ngươi chớ tham của cải của người khác ».
Hai giới răn gắn liền
với nhau đó mang í nghĩa sâu xa vượt lên trên cái thực tế và bên ngoài. Chúng
cho ta hay, khởi đầu của tội không phải là chính lúc ta ngoại tình, hay lúc ta
chiếm đoạt tài sản kẻ khác một cách bất công, nhưng tội đã ló dạng ngay từ
trong tư tưởng của ta rồi. Một khi tâm tưởng tôi đã không còn kính trọng kẻ
khác, không còn tôn trọng hôn nhân và tài sản họ, thì việc dừng tay trước hành
động cuối cùng cũng chẳng còn í nghĩa.
Như vậy, tội không
chỉ bắt đầu với những hành vi cụ thể bên ngoài, mà nó đã bắt đầu từ trong vườn
ươm của nó, từ trong í nghĩ ghen tương, í nghĩ phủ nhận chính kẻ khác và tài
sản của họ. Thiếu trong sạch trong tư tưởng, cuộc sống sẽ mang hậu quả bất ổn.
Hai giới răn trên, như vậy, muốn kêu gọi trực tiếp tới tâm con người. Bởi vì
tâm chính là cội nguồn xuất phát hành động. Chỉ riêng với lí do đó thôi cũng đủ
cho ta phải giữ tâm trong và sáng.
Khi Mai-sen nhận
những tấm đá giới răn giữa sấm sét trên núi, lúc đó cũng là giây phút khởi đầu
của cá nhân tự do. Nhà báo Đức gốc Do-thái Hannes Stein đã lí luận như thế. Kể
từ đây, mỗi cá nhân, dù là chủ hay tớ, đàn ông hay đàn bà, đều mang trách nhiệm
trực tiếp với Chúa về mình và về hành vi mình. Có thể nói, tính cách pháp nhân
tự trị đã hình thành cùng với giao ước trên núi Si-nai. Có liều lĩnh lắm không,
khi bảo rằng nền tảng xã hội tự do dân chủ không phải xuất phát từ Hi-lạp cổ,
mà từ truyền thống do-thái và ki-tô giáo ?
Tôi cũng đã đọc sách
của Hannes Stein và thấy có những điểm rất nền tảng. Trên thực tế, tâm điểm của
nhân quyền nằm nơi phẩm giá của mỗi cá nhân, người đó đối diện một mình với
Chúa, Chúa nói trực tiếp với họ, và Giao ước đề cập tới họ như một cá thể. Nhân
quyền có nghĩa là mỗi người đều có phẩm giá ngang nhau, và nhân quyền chính là
nền tảng của dân chủ.
Lẽ ra Is-ra-en thoạt
tiên không có vua, mà chỉ có những phán quan dùng luật Chúa mà cai trị. Điều đó
có nghĩa là người ta nhắm tới một xã hội hoàn toàn bình đẳng, một thứ xã hội vô
chính phủ theo nghĩa tích cực, trong đó không ai ngoài chỉ mình Chúa là kẻ trị
vì. Và Ngài cai trị thông qua luật Ngài, lời Ngài và qua các giới răn.
Nhưng loại xã hội đó
cuối cùng đã phải thay đổi theo thực tế, điều này trước đây chúng ta đã nói
rồi. Ở đây, dĩ nhiên tôi không dám coi thường nền dân chủ hi-lạp, nó đã làm nẩy
nở đôi điều quan trọng và đã khai sinh một mô hình thực tế, mà người ta về sau
đã có thể noi theo. Nhưng ta cũng phải biết, là trong nền dân chủ hi-lạp, chỉ
có lớp đàn ông tự do mới có quyền bầu cử, đàn bà và nô lệ không phải là chủ thể
của chính trị, nên không được bầu phiếu. Vì tự do bị hạn chế, nên dân chủ
hi-lạp chỉ là mẫu mực của một nền dân chủ hạn định. Trái lại, lời Kinh Thánh
coi mỗi người đều là người và là hình ảnh của Chúa, và đã trao cho từng người
trong họ đầy đủ tư cách chủ thể. Vì thế, quả thật lời Kinh Thánh đã xây thêm
nền tảng cho các thể chế dân chủ.