THIÊN CHÚA VÀ TRẦN THẾ

Joseph Ratzinger

Biển-đức XVI.

Thiên Chúa và Trần Thế

Tin và Sống trong thời đại ngày nay

Trao đổi với Peter Seewald

Phạm Hồng-Lam chuyển ra Việt ngữ

 

CHƯƠNG I

ĐIỀU GỌI LÀ SỰ DỮ

 

Huyền thoại kể rằng, lúc đầu các thiên thần mang đầy ơn nghĩa và vinh quang Chúa. Các ngài được ngắm dung nhan Chúa, được cầu nguyện và đầy hạnh phúc. Nhưng Lu-zi-fer, một trong những thiên thần bên cạnh Chúa, đã sa chước cám dỗ kiêu căng và muốn chống lại Chúa. Lu-zi-fer và đồng bạn vì thế phải sa hoả ngục.

Cố gắng giải thích sự dữ đó của huyền thoại Kinh Thánh cho tới nay vẫn không ổn. Hiện nay các nhà khoa học quan sát thấy nơi con người có hiện tượng «gia tăng sự man rợ khả nghiệm và của tính xấu không thể hiểu nổi ». Thánh Phao-lô đã mô tả: “Tôi lỗi luật, sự dữ hiện diện trong tôi, mặc dầu tôi muốn làm điều lành ». Người ta còn kể, Luther* đã thấy sự dữ, nghĩa là đã thấy Sa-tan, bằng xương bằng thịt, và ông đã ném bình mực vào đầu Sa-tan. Câu hỏi nền tảng : Tại sao Chúa lại dựng nên Sa-tan ? Tại sao Ngài lại dựng nên cho chính Ngài một đối thủ ?

Câu chuyện sa hoả ngục trên không do Kinh Thánh trực tiếp kể, nhưng bắt nguồn từ nhiều bản văn được hình thành theo thời gian. Nhưng Kinh Thánh có nói tới các thần dữ. Lúc đầu đề cập ít, nhưng về sau càng lúc Kinh Thánh càng cho thấy bên cạnh thần lành còn có thần dữ, chúng tác động vào thế giới và con người, làm hại con người, và có thể nói muốn lôi con người đi xuống. 

Nhưng không thể nói Chúa tạo ra Sa-tan. Câu chuyện Lu-zi-fer sa hoả ngục mới hình thành sau này. Nó muốn nói lên rằng, rõ ràng không phải Chúa tạo nên các lực thần dữ. Các lực này xuất hiện rõ nét trong câu chuyện đức Giê-su trừ quỷ. Chúa chỉ tạo nên thần lành. Và sự dữ không bao giờ là một cái gì độc lập, song nó chỉ xuất hiện như là phủ định của một sự lành. Chỉ trong tương quan với sự lành mới có sự dự, chứ một mình sự dữ thì không có. 

Cơn cám dỗ đã như thế nào ?

Nhắc lại : Chúa đã không tạo ra vua sự dữ nào cả, Ngài chẳng cần có một Chúa đối lập nào đứng bên cạnh. Điều Ngài đã tạo ra, là tự do và hoàn cảnh trong đó nhiều khi ta không thấy rõ được tự do đó.

Kinh Thánh cho hay, những lực thần dữ đó có thể là gương soi cho ta. Qua chúng, ta có thể nhận ra cái nguy hiểm của tự do có hình thù dễ sợ như thế nào. Hình thù đó có dạng như sau : Tạo vật càng lớn, nó càng muốn có nhiều độc lập, càng muốn bớt bị lệ thuộc và muốn mình trở thành một thứ chúa tể, chẳng cần nhờ ai giúp nữa. Đây là lúc xuất hiện í muốn bất cần đời, mà ta gọi là kiêu ngạo.

Luôn luôn có cám dỗ nơi loài linh thiêng. Cám dỗ đó xuất hiện như một thứ ngược đời : nó khiến người ta coi tình yêu là lệ thuộc, chứ không phải là quà tặng để tôi được sống. Nó khiến người ta coi tình yêu không như là nguồn lực sự sống nữa, mà như cái gì hạn chế sự độc lập của mình. 

Bằng cách nào có thể nhận ra sự dữ ?

Có lẽ phải nói, chẳng bao giờ có thể chứng minh được quỷ. Nhưng ta biết, ngoài tính xấu nơi con người ra, còn có những rối loạn và phá hoại trong tạo dựng, còn có một thứ lực ganh tị, nó muốn lôi ta đi và nhấn ta xuống. Đó là điều Kinh Thánh và đức tin ki-tô giáo muốn ta phải í thức. Nhưng phải nhớ rằng, không bao giờ được nâng quỷ lên thành một nghịch chúa, vị này có thể đối đầu và chống trả lại Chúa. Cuối cùng rồi thì phủ định cũng chẳng có quyền lực gì. Sự dữ, tuy là một mối nguy và một cám dỗ thường trực, nhưng kì cùng nó không phải là đối thủ ngang hàng của Chúa. Ta phải luôn biết rằng, chỉ có Chúa là Chúa, và ai bám vào Ngài, kẻ đó chẳng cần sợ gì mọi quyền lực Sa-tan. 

Hitler có phải là « Sa-tan bằng xương bằng thịt không », như một số người vẫn nói ? Sartre* có lần bảo: « Quỷ là Hitler, là Quốc-xã Đức ». Và triết gia gốc Do-thái Hannah Arendt*, khi nói về những hành vi tội ác của chủ nghĩa phát-xít, đã dùng một từ nổi tiếng để mô tả : «nỗi tầm thường của sự dữ ».

Quả thật lạ. Một tay lớn lên từ đáy tầng xã hội, chẳng học-thức gì, ăn không ngồi rồi, mà lại có thể làm dấy động cả một thế kỉ. Với cái nhìn thông suốt quỷ quái, i đã có những quyết định chính trị và đã có thể làm cho mọi người, ngay cả những kẻ trí thức, nghe theo.

Hitler là một hình tượng ma quái. Đọc lịch sử các tướng lãnh người Đức, ta thấy trong họ ai cũng muốn chống lại, nhưng rồi cuối cùng lại bị ông ta hớp hồn và không còn dám nói lên í kiến riêng của họ nữa. Nếu nhìn thật gần con người mang nét mê hoặc ma quái đó, ta lại thấy i quả là một tay thật tầm thường. Và cuối cùng, chính vì quyền lực sự dữ cắm lều trong sự tầm thường, nên ta cũng nhận ra phần nào diện mạo của nó : sự dữ càng lớn, nó càng trở nên nghèo nàn, và kích thước lớn lao của nó thật ra chẳng lớn gì cả.

Có thể nói, Hitler cũng đã nhìn ra được trước những hoàn cảnh ma quái. Chẳng hạn, tôi đã đọc một phúc trình về việc chuẩn bị cho chuyến thăm của lãnh tụ phát-xít nước Í ở Berlin. Những người được uỷ thác công việc theo nhau đưa ra đề nghị. Nhưng rồi, sau một hồi lâu suy nghĩ, Hitler tuyên bố : « Không, mọi đề nghị đều trật lất. Tôi thấy phải làm như thế nào rồi ». Và rồi, như trong một cơn xuất thần, i nói ra toàn bộ kế hoạch, và kế hoạch đó cũng đã được thực hiện. Nghĩa là, đâu đó có một siêu lực ma quái khiến cho cái tầm thường trở nên lớn lao – và cái lớn lao trở nên tầm thường – và nhất là khiến nó trở nên nguy hiểm và phá hoại.

Chắc chắn không thể nói Hitler là một con quỷ. Ông ta là một con người. Nhưng, qua những tường trình đáng cậy của những người mắt thấy tai nghe, xem ra Hilter có những cuộc gặp gỡ với ma quỷ, i hay run lên và nói: “Nó lại tới kìa”, hoặc những câu đại loại như thế. Ta không thể tìm hiểu ngọn ngành được điều đó. Tuy nhiên, tôi tin, một cách nào đó, i có dính dáng với ma quỷ; điều này có thể thấy qua cách i sử dụng quyền lực, qua những khủng bố và đại hoạ do quyền lực của i gây ra. 

Như thế nghĩa là nơi Chúa dứt khoát không có vực sâu, không có mặt tối? Không như kiểu nơi con người có “hai hồn ngủ gật trong lồng ngực tôi”?

Câu hỏi đó luôn được đặt ra trong lịch sử tôn giáo, ngay cả nơi các phong trào ngộ giáo trong lịch sử ki-tô giáo. Carl Gustav Jung* cũng đã nhắc lại câu đó theo lối của ông, và tự hỏi, phải chăng đấng Tối hậu cũng lại phải mang trong mình hai khuôn mặt? và ông tiếp: Phải chăng Thiên Chúa này cũng đồng thời là một con quỷ? Phải chăng sự dữ bắt nguồn từ Ngài? Bởi vì, nếu sự dữ hiện hữu, thì nó hẳn phải là cái gì xuất phát từ nơi Ngài?

Câu hỏi này khiến cho thế giới trở nên thật đáng sợ, bởi vì Thiên Chúa quả đáng sợ. Nhưng câu đó đã được đức Ki-tô giải toả mọi thắc mắc, khi chính Ngài đã chết cho chúng ta, và qua đó cho ta thấy vực thẳm yêu thương nơi Thiên Chúa. Vì thế, thư Gia-cô-bê đã có thể viết: “Không có bóng tối nơi Ngài”, bóng tối đến từ một chỗ nào khác, chứ Chúa, trái lại, là nơi ta có thể hoàn toàn trông cậy; ma quỷ hay sự dữ không cắm neo trong Ngài, và vì thế, khi Chúa trở nên tất cả trong mọi sự, thì đấng Tối hậu sẽ là kẻ giải phóng khỏi mọi áp chế của sự dữ.

Dĩ nhiên ta phải đặt câu hỏi, nếu sự dữ không bắt nguồn từ Thiên Chúa, thì nó từ đâu mà ra? Như vậy, nó làm sao có thể tồn tại? Nếu sự dữ không do Chúa, thì làm sao còn nói được Chúa là đấng tác tạo mọi sự? Ở đây, chúng ta lại đứng trước một vấn nạn vực thẳm. Câu trả lời của Ki-tô giáo và của Kinh Thánh là: Nó tới từ tự do.

Như vậy, sự dữ không phải là một tạo vật mới, nó không phải là một cái gì tự sinh tự tồn, nhưng, tự bản chất, nó là phủ định, nó là sự huỷ diệt thụ tạo. Nó không phải là một hữu thể, vì hữu thể chỉ xuất phát từ nguồn của mọi hữu thể, nhưng nó là cái không. Sức mạnh của cái không này quả làm cho chúng ta rùng mình. Nhưng, tôi tin rằng, ta cũng an tâm khi biết rằng sự dữ không phải là một tạo vật riêng rẽ, mà nó là một thứ cây chùm gởi. Nó sống nhờ kẻ khác, và rốt cuộc nó sẽ tự giết nó, như số phận cây chùm gởi, một khi nó trở thành ông chủ và giết kẻ bảo trợ mình.

Sự dữ không phải là thứ gì tự sinh, tự hữu, nhưng nó là phủ định. Và khi tôi để mình sa vào sự dữ, thì đó là lúc tôi bỏ không gian triển nở tích cực của hữu thể, để bước vào tình trạng ăn bám của phá hoại và phủ định hữu thể.

 

THIÊN ĐÀNG VÀ ĐỊA NGỤC 

Một trong những thành tố cơ bản của đức tin là quan điểm về thiên đàng, hoả ngục, và ngay cả luyện ngục. Quan điểm này ngày càng trở nên xa lạ và bị ngờ vực.

Chết không phải là hết, đó là xác tín của đức tin ki-tô giáo. Ngoài ra, đây cũng là niềm tin chung của nhân loại, thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Một cách nào đó, con người biết rõ: còn có một cái gì thêm, còn có một cái gì hơn nữa. Điều đó có nghĩa là chúng ta có trách nhiệm trước Chúa, có nghĩa là có một toà án, có nghĩa là cuộc sống con người có thể được cứu rỗi hay bị hư mất.

Liên quan tới việc được cứu rỗi, mà chúng ta ai cũng hi vọng đạt đến, dù mình vẫn còn nhiều thất bại, thì lửa luyện ngục đóng vai trò quan trọng. Nào ai trong chúng ta có được cuộc sống toàn hảo. Và hi vọng cũng không có nhiều người trong chúng ta hoàn toàn bị hư mất. Dù gặp nhiều thất bại, đa số chúng ta vẫn ao ước điều tốt. Chúa có thể đưa tay đón lấy bình vỡ và hàn gắn nó lại. Nhưng với điều kiện là ta phải có một sự thanh tẩy cuối cùng nào đó, tức là lửa luyện ngục; ánh lửa nhìn của đức Ki-tô này, có thể nói, sẽ uốn ta lại cho đúng, và nhờ đó ta mới có thể gặp được Chúa, và có thể bước vào được trong nhà Ngài.  

Nghe ra vừa khiêu khích vừa cổ hủ.

Tôi tin đó là một cái gì rất người. Có thể nói, ngay cả nếu không có luyện ngục thì cũng nên lập ra nó, vì ai dám bảo mình đã toàn hảo, có thể trực diện với Chúa. Và ta cũng chẳng muốn mình, nói như trong Kinh Thánh, là chiếc “bình bất hạnh” phải bị bỏ đi, nhưng muốn mình được cứu độ. Lửa luyện ngục thật ra có nghĩa là Chúa hàn gắn lại những mảnh vỡ, là Ngài có thể thanh tẩy ta thật sạch, để ta có thể tới được bên Ngài và có được một cuộc sống dư đầy.

Còn các tín hữu Phật giáo hay Tin lành làm gì ở thế giới bên kia? Một vở kịch xưa của tiểu bang Bayern bảo rằng, dân Phổ có riêng một thiên đàng, bởi vì nếu không, thì thiên đàng của Bayern không còn là thiên đàng nữa.

Tôi muốn nói rằng, với cái nhìn thật người, thì lửa luyện tội cũng giúp ta bỏ đi được các chủ trương cá biệt kiểu đó. Nó giúp ta quẳng đi những gì không kham nổi, và tẩy sạch những gì không thể chịu đựng, để trong ta chỉ còn hiện ra cái tâm trong sáng, và ta nhận ra rằng, tất cả mọi người đều thuộc vào một bản đại hoà tấu chung.

Còn các Phật tử, họ quan niệm tất cả chỉ là khổ đau, nên cũng muốn bước ra khỏi bánh xe khổ đau của quá khứ, để bước vào một cõi không tinh tuyền, nhưng cõi không này, một cách nào đó, cũng không phải là hoàn toàn hư vô. Vì thế, dù với một lối diễn tả hoàn toàn khác ta, đạo đó cũng dạy một cái gì như hi vọng vào một hiện hữu tối hậu chân thực.

Chúng ta chia sẻ với tín hữu tin lành niềm tin có thiên đàng và hoả ngục. Vì nhiều lí do, trong đó có giáo huấn về công chính hoá, nên họ đã không thể chấp nhận lửa luyện tội. Và có lẽ ta cũng chẳng nên tranh luận nhiều về chuyện này. Trên căn bản, mọi người chúng ta đều mừng, khi biết Chúa sẽ uốn nắn lại những gì ta không thể uốn nắn được. 

Cầu nguyện cho kẻ chết hẳn cũng bắt nguồn từ đó?

Có một lực thôi thúc uyên nguyên nơi con người, khiến họ muốn làm một cái gì thêm cho người đã khuất, cũng như để nói lên tình yêu đối với người đó, nhất là khi họ cảm thấy mình có lỗi với người quá cố. Chúng ta tin rằng, mình còn có thể gởi một món quà sang bên kia thế giới cho người đã mất. Nếu chỉ có thiên đường và hoả ngục không thôi, thì điều đó quả vô nghĩa.

Như vậy, cầu nguyện cho người chết hàm chứa nhận thức sâu xa, là ta còn có thể làm điều tốt cho họ. Và tôi tin rằng, cái khía cạnh rất nhân bản này chính là luyện ngục. Những người chết đang ở trong một tình trạng, mà lời cầu của ta có thể giúp họ. 

An-tịnh có lần phân biệt « tạo dựng ban đầu » và « tạo dựng tiếp tục ». Giáo hội thì nói tới « chương trình cứu độ lớn của Chúa ». Như vậy, có nghĩa là trước sau Chúa vẫn ngồi trước tập sách của Ngài và viết tiếp trang lịch sử sự sống, hết chương này tới chương khác ?

Trong Tin Mừng Gio-an, đức Ki-tô cũng có lần nói : « Cha Ta đã tác động, và Ngài vẫn luôn tác động ». Ngài dùng cả chữ « làm việc », vì Ngài được nói tới như một người làm công, và Ngài nói : Chúa đã làm việc và Ngài luôn còn làm tiếp. Điểm này hoàn toàn giống như điều chúng ta có thể thấy được trong khái niệm « Thiên Chúa sống động ». Chúa không rút lui. Trong Ngài, chỉ cần một nháy mắt là mọi sự đã có. Và mọi sự diễn ra không bao giờ như một bánh xe quay nhàm chán, mà trái lại, luôn tiếp diễn như một hiện tại sống động. Như thế, đúng là Chúa luôn hiện diện trong lịch sử. Lịch sử thâu tóm sự duy nhất của í nghĩ và lời nói của Ngài, tắt lại, thâu tóm toàn bộ hiện tại của Ngài trong từng cấp phát triển của nó.

Người ta cũng có thể nghĩ rằng, giờ đây, chính con người là kẻ viết tiếp chương tạo dựng. Bởi vì thiên nhiên cho tới nay đã cần hàng triệu năm để làm điều, mà ngày nay các nhà nghiên cứu di tử và các nhà hoạ mẫu sinh học, chỉ bằng qua một nháy mắt lịch sử, đã tạo ra nơi các loại thực phẩm và sinh vật mới.

Việc ráp nối di tử đó dĩ nhiên là một vấn nạn lớn. Một mặt, đó là một cơ may. Nhờ đó, chúng ta đã tiến sâu vào cơ cấu uyên nguyên của sự sống, để có thể nhận ra được những mật mã, và có thể cùng cấu trúc hoặc ngay cả tái cấu trúc các di tử. Việc làm này tốt, bao lâu nó có tác dụng chữa lành và còn tôn trọng tạo dựng. Nhưng khi con người tin rằng, chính mình là tạo hoá, là thợ cấu trúc thế giới, lúc đó nó có thể trở nên kẻ phá hoại.

Vấn đề quan trọng ở đây, là phải biến sự kính trọng trước những gì không được đụng đến thành một hiến chương cho mọi hành động con người. Ta phải biết, con người không thể và không được phép trở thành thí vật cho kế hoạch lắp ráp của chính con người. Ta phải í thức rằng, ngay khi bắt đầu lắp ráp là trong ta có thể đã manh nha tư tưởng muốn cai trị thế giới, và điều này đồng thời cũng có nghĩa là một tiềm năng phá hoại đã chớm nở.  

Con người không thể tạo ra một cái gì cả, nó cùng lắm chỉ có thể kết hợp một cái gì đó thôi. Với khả năng đó, nó có thể là một người giúp việc và bảo vệ khu vườn Thiên Chúa, bao lâu nó còn tỏ ra khiêm tốn và kính trọng đối với những í nghĩ đã có trong tạo dựng. Nhưng khi nó muốn làm tạo hoá, lúc đó tạo dựng sẽ bị đe dọa.

 CÂY SỰ SỐNG 

Việc hái trái cây hiểu biết đã là một tội tầy đình. Chúa đã cảnh cáo điều đó trong trình thuật Kinh Thánh, và Ngài còn cảnh cáo tiếp về một chuyện tày đình hơn, chuyện cấm kị tuyệt đối, đó là việc nhúng tay vào cây sự sống.

Sách Khởi-nguyên viết, Chúa đã sai các thiên thần Che-ru-bim cầm gươm lửa đứng canh phía đông vườn địa đàng, để không ai được tới gần cây đó, cho tới khi ngày phán xét đến. Chúa nói trong Kinh Thánh «Vâng, con người giờ đây đã trở thành giống Ta, vì nó nhận ra sự lành sự dữ. Giờ đây, chỉ còn việc là không để nó vươn tay tới cây sự sống, hái trái ăn và sống đời đời!» Phải chăng Chúa muốn dựng lên một biên cương cuối cùng ở đây ? Nếu vượt qua, đương nhiên con người sẽ tự huỷ diệt mình ?

Những hình ảnh lớn trên đây của Khởi-nguyên, rốt cuộc, không thể giải thích hết được và sẽ không bao giờ hoàn toàn cạn í nghĩa. Chúng còn bao gồm các chiều kích khác vượt lên trên mọi nhận thức của ta.

Trước hết, tôi muốn trình bày cái nhìn cổ điển do các giáo phụ khai triển về những hình ảnh đó. Các ngài cho rằng, con người không được gần cây sự sống, là vì con người đã ăn trái cây hiểu biết, và do đó tự đưa mình vào một tư thế không còn xứng hợp. Khi đưa tay hái trái cây đó, con người đã chuốc vào mình một số phận thảm thương. Trước hoàn cảnh mới này, Chúa bảo, con người không được gần cây sự sống nữa, bởi vì, nếu như nó bất tử trong tình trạng này, thì quả đó là điều khốn nạn cho nó.

Như vậy, việc cấm tới gần cây sự sống, là nơi gắn liền với số phận sự chết, là một ân huệ. Nếu chúng ta phải bất tử trong tư thế ta đang sống, thì đó không phải là một tình trạng đáng mong. Trong một cuộc sống với quá nhiều hỗn mang, thì cái chết là một hồng ân, tuy nó vẫn là một mâu thuẫn và là một biến cố bi thảm đối với từng người. Bởi vì nếu không, cuộc sống theo kiểu đó sẽ nên bất tử, và thế giới như thế sẽ trở thành nơi hoàn toàn không thể dung thân được. 

Phải chăng sứ điệp của hình ảnh trên ngày hôm nay phải được lưu tâm hơn bao giờ hết ?

Dĩ nhiên ta có thể đi sâu hơn vào í nghĩa của những hình ảnh đó. Nếu giờ đây ta thấy con người, khi đã nắm được các mật mã di tử, bắt đầu chiếm hữu cây sự sống, và tự coi mình là chúa sự sống, có thể lắp ráp sự sống ra mới, thì như vậy, họ đã thật sự vượt qua lằn biên cuối cùng mà đáng lẽ họ phải giữ.

Với kĩ năng xảo thuật đó, con người biến con người thành tạo vật của mình. Do đó, con người không còn xuất phát từ bí mật tình yêu, nghĩa là không còn được hình thành từ tiến trình tạo thai và sinh hạ vốn đầy bí ẩn nữa, nhưng là một sản phẩm kĩ nghệ. Nó được tạo ra bởi người khác. Như vậy, nó bị cướp mất phẩm giá và hào quang tạo dựng riêng của nó. Ta không biết tương lai của lãnh vực này rồi sẽ ra sao, nhưng ta có thể xác tín : Chúa sẽ ra tay chống lại tội ác tự huỷ của con người. Ngài sẽ chống lại việc dày đạp con người, sẽ chống lại việc con người tạo ra những đồng loại nô lệ. Có những đường biên cuối cùng, mà nếu ta bước qua, ta sẽ trở thành những tên phá hoại tạo dựng, và lỗi phạm của ta còn vượt xa tội tổ tông và các hậu quả tiêu cực của nó. 

Vấn đề dùng xảo thuật để cải biến sự sống con người đã trở nên cấp tính.

Sự sống con người là bất khả nhượng, không thể có chọn lựa nào khác ở đây. Phải dựng lên nơi đây một biên giới cho hành động, khả năng, khuôn phép và thí nghiệm của con người. Con người không phải là một đồ vật. Song mỗi người là đại biểu cho sự hiện diện của Chúa trên trần gian. 

Đôi lúc xem ra đường ranh đó không còn ở trước ta nữa, nhưng đã bị ta vượt qua rồi. Với kĩ thuật di tử, con người có được một dụng cụ mới cho phép họ lần đầu tiên toàn quyền sử dụng toàn bộ vật liệu di truyền trên hành tinh này.

Sự sống đã bị biến thể từ khá lâu rồi. Đã có tới hàng chục, thậm chí hàng trăm ngàn bào thai không được hình thành qua hành động giao phối bình thường, nhưng qua việc kết hợp tinh trùng và trứng bên ngoài dạ mẹ. Có những đứa trẻ có tới ba mẹ : mẹ cho trứng, mẹ mang thai và mẹ nuôi. Có những trẻ có cha đã mất nhiều năm trước khi chúng sinh ra.

Trong tương lai, rất có thể người ta sẽ tạo ra trẻ theo í muốn, theo phái tính, màu mắt, chiều cao, sức nặng, hay có thể kéo dài sự sống với một thân xác khác. Cuối 1999, khi một nhóm nhà khoa học đã hoàn tất mở khoá được một trong 24 chromosomen của con người (tuy là một trong những chromosomen nhỏ bé, nhưng mỗi cái chứa khoảng 30 triệu thông tin di truyền), một bà trong nhóm đã nói với phóng viên :  Quả là một « công việc hỏa ngục ». Có thể nhà khoa học đó có lí ?

Đúng, rất tiếc có thể đúng như vậy. Nhưng trước hết, ta phải phân biệt giữa cái con người làm và cái con người là. Bất cứ ai được sinh ra từ ống nghiệm đều cũng là người, và ta vẫn yêu và chấp nhận họ như là người. Việc ta phải chống lại lối tạo người bằng ống nghiệm không có nghĩa là ta đóng ấn những người được sinh ra bằng cách đó. Dù vậy, ta vẫn nhận ra nơi họ cái bí ẩn của con người và chấp nhận họ như là người. Đó là điều rất quan trọng, tôi tin như thế. 

Quả thật đã có sự vượt rào gia trọng, như anh nói. Giáo hội công giáo, ngay từ đầu, đã cảnh báo việc chế tạo con người. Lối chế tạo đó, thoạt tiên, diễn ra dưới những hình thức vô tội, như mọi chuyện vẫn luôn khởi đầu một cách vô tội. Trước hết, người ta bảo là để giúp cho những cặp vợ chồng không con. Vấn đề ở đây chưa phải là gia trọng, nếu quả thật đó là những vợ chồng thành tâm muốn có được con bằng cách ấy. Tuy nhiên, ở đây, người ta cũng bắt đầu tuột dốc, khi tin rằng, mình phải có con bằng bất cứ giá nào, mình phải có quyền có con. Với kiểu đó, đứa con trở thành một của cải thuần tuý. Nó không còn được sinh ra từ tự do của Tạo hoá nữa, tự do này cũng được thể hiện nơi sự bất lường của tự do nơi thiên nhiên.

Tôi nghĩ, cái nguy cơ lớn của ngày nay, nói chung, là xem con như một quyền, như một của cải. Các cha mẹ không những muốn phô trương chính họ qua của cải đó, mà còn qua đó nhắm vớt vát lại những gì họ chưa thành đạt. Có thể nói, qua con cái, họ lặp lại chính cuộc đời mình một lần nữa và để được xã hội công nhận. Vì vậy mới có sự chống đối của con cái. Chúng chống cha mẹ, vì chúng muốn thể hiện quyền muốn được là chính chúng.

Chính mỗi người được sinh ra từ tự do của Chúa, và ở trong tự do đó với quyền riêng của mình. Giáo dục gia đình là để hướng trẻ tới cái riêng tư của chúng, chứ không phải là để cho cha mẹ, đó là trọng điểm đích thực của các chương trình giáo dục phản quyền uy hiện nay. Nhưng điểm sai của các chương trình này là chủ trương hoàn toàn vứt bỏ giáo dục, với lập luận rằng, giáo dục sẽ lèo lái tự do và có thể bóp chết tự do. Tự do cần được giúp đỡ để cất cánh, nó cần được nâng đỡ qua sự đồng hành. Và một lối giáo dục thật sự cảm thông sẽ không nhắm lái trẻ theo mình, nhưng là giúp chúng phát triển hình hài và mở ra con đường riêng của chúng.

Xin trở lại một lần nữa về việc lắp ráp, chế tạo con người …

Như đã nói, việc làm khởi đầu vô hại, tỏ ra vì con người, nhưng khi coi đứa con không còn là quà tặng nữa, mà là sở vật phải tạo ra nếu cần, lúc đó là ta đã bước qua lằn biên. Hành vi kĩ thuật, bao gồm cả việc thụ thai ống nghiệm, giờ đây thay thế cho một hành vi tình yêu. Từ đây, những vấn nạn kế tiếp sẽ được đặt ra. Trước hết, làm gì với số phôi gọi là thặng dư, phôi đó đã là người, nhưng lại bị xử lí như là những sản phẩm dư thừa.

Với lối xử lí hiện tại, hàng ngàn sự sống đã bị giết hàng loạt.

Nhiều hậu quả khác cứ thế theo nhau xẩy ra, chúng rốt cuộc từng bước làm biến đổi tương quan đối với con người. Rồi cái gì sẽ diễn ra tiếp, bắt đầu từ lúc nào sẽ nổ ra tai hoạ kiểu nào, ta chưa biết được. Cám ơn Chúa là ta không biết. Nhưng ta biết, ta phải chống lại việc dùng xảo thuật cải biến sự sống và việc tuỳ nghi sử dụng sự sống. Không phải ta chống lại tự do của khoa học hay cản ngăn những khả thể của kĩ thuật, nhưng là bảo vệ tự do của Chúa và phẩm giá con người, vì hai thứ đó đang gặp nguy. Ai có được lối nhìn đó nhờ đức tin – khá nhiều người không phải ki-tô hữu cũng có cái nhìn như vậy -, đều có bổn phận làm nổi bật lằn biên đó lên và làm cho người khác chấp nhận dừng lại trước lằn biên đó.