Joseph Ratzinger
Biển-đức XVI.
Thiên Chúa và Trần Thế
Tin và Sống trong thời đại ngày nay
Trao đổi với Peter Seewald
Phạm Hồng-Lam chuyển ra Việt ngữ
CHƯƠNG I
THIÊN CHÚA
5. CÁC GIAO ƯỚC
5.2. SÁCH CỦA MỌI SÁCH
Kinh Thánh, cuốn sách
ta thường đọc, gồm 72 cuốn: 45 cuốn của Cựu Ước và 27 cuốn của Tân Ước. Lâu đời
nhất là sách Mai-sen, đã có từ hơn 3000 năm. Người ta bảo, Chúa Thánh Thần đã
hướng dẫn và chỉ vẽ cho người viết phải viết thế nào và Ngài đã giúp họ tránh
lầm lẫn: “Điều này được viết cho dòng dõi sẽ tới, để dân tộc sắp được tạo thành
ca ngợi Thiên Chúa”.
Có phải tất cả Kinh
Thánh thật sự đều là lời Chúa không? Nếu đúng như thế, thì lẽ ra Chúa Thánh
Thần phải biết trái đất hình cầu, chứ đâu phải hình dĩa!
Vâng, người ta có thể
nêu ra những thắc mắc hài hước như thế. Nhưng anh thấy đó, người ta cũng phải
suy nghĩ về nét cá biệt của Kinh Thánh.
Hãy so sánh Kinh Thánh với kinh Co-ran, chẳng hạn.
Tín hữu Islam xác tín rằng Co-ran do Chúa trực tiếp đọc cho viết. Chẳng cần phải
thông qua lịch sử, chẳng cần môi giới con người nào, đó là lời Chúa trực tiếp.
Kinh Thánh, trái lại, có một cấu trúc hoàn toàn khác. Nó được môi giới qua một
lịch sử, và chính sách đó được viết trải dài hơn một ngàn năm. Việc Mai-sen hay
một ai đó có thật sự là tác giả hay không, chuyện này ta tạm để qua một bên.
Nhưng đúng là văn chương Kinh Thánh đã hình thành trải qua một ngàn năm lịch
sử, và trong đó phản ảnh nhiều tầng lịch sử và văn minh khác nhau. Chẳng hạn
trong ba chương đầu của sách Sáng-thế, ta đối diện với một hình thái văn minh
khác với hình thái của thời lưu đày hay thời sách Khôn ngoan hoặc cuối cùng là
thời văn chương tân ước. Như vậy, rõ ràng đây không phải là lời trực tiếp của
Chúa, nhưng là lời viết về một lịch sử do Ngài dẫn lối, là chứng từ của lịch sử
đó.
Đọc Kinh Thánh, người ta bắt gặp những câu chuyện
thật gay cấn và những dụ ngôn ơn ích cho cuộc sống – nhưng cũng gặp vô số
chuyện đầy mâu thuẫn.
Tôi chỉ hiểu Kinh Thánh như là lời Chúa, khi đọc nó
trong sự lôi cuốn của cái nhất thống, của cái toàn thể, chứ không phải đọc từng
chữ, từng câu. Đó là một cái gì rất nền tảng và rất gây cấn. Kinh Thánh vì thế
chứa đựng nhiều chuyện mâu thuẫn hoặc chắc chắn hào hứng, bởi vì, trước mắt ta,
đức tin được trình bày như là một hệ thống chưa hoàn chỉnh.
Kinh Thánh không phải là sách giáo khoa về Chúa hay
những chuyện của Ngài, nhưng nó chứa đựng những hình ảnh mở ra các nhận thức và
những cái nhìn đang phát triển, và trong đó cũng cho thấy một lịch sử đang được
hình thành. Tôi chỉ hiểu Kinh Thánh như
là lời Chúa, nếu khi đọc, tôi biết nối cái này với cái kia, biết dùng hình ảnh
này để sửa hình ảnh kia. Nếu khi đọc, tôi không đặt những hình ảnh đó trong
liên quan với cuộc sống phúc âm, thì lúc đó tôi chỉ đọc những câu chuyện lịch
sử mà thôi. Dĩ nhiên các câu chuyện đó có những trạng huống đặc biệt, nhưng
chúng cũng chỉ là những câu chuyện riêng rẽ - và đó không hẳn bao giờ cũng là
lời Chúa trực tiếp.
Rắc rối quá.
Một là, ta coi Kinh Thánh như những câu chuyện lịch sử thuần tuý, trong
đó có thể nói các yếu tố con người được phơi bày ra một cách không che đậy. Hai
là, ta nhìn nó trong tổng thể như là lời Chúa, trong đó các sự việc có liên
quan với nhau và chúng mở ra từ từ. Nhìn như thế, thì tiêu chuẩn linh ứng và
không sai lầm không thể áp dụng một cách máy móc được ở đây. Không thể rút ra
một câu nào đó, và bảo rằng câu này trong sách Chúa và tất nhiên nó phải đúng.
Kinh Thánh là lời Chúa, khi ta nhìn nó như một lịch
sử thống nhất. Người Do-thái cũng quan niệm như thế. Họ phân biệt giữa kinh
Thora như là quy điển thật sự của Kinh Thánh, và các sách tiên tri và sách
truyện khác như là một loại khung. Còn chúng ta, như đã nói, chúng ta xác tín
Tân Ước là chìa khoá của Cựu Ước.
Đó là lí do các giáo phụ thần học và thần học thời
trung cổ không bao giờ gọi Kinh Thánh là “mạc khải”. Mạc khải là cái gì lớn
hơn, cái gì đứng đàng sau Kinh Thánh. Và linh ứng có nghĩa là những tác giả
Kinh Thánh – nên nhớ Kinh Thánh thường là kết quả của các tập thể - đều xuất
phát từ dân Chúa và viết về lịch sử của Ngài. Gọi là linh ứng, vì họ là những
người, xuyên qua nhiều trung gian, đã diễn tả lịch sử dân Chúa và sự hướng dẫn
của Ngài ra bằng chữ viết, trong đó có phần đóng góp của chính Chúa.
Có nghĩa là
toàn bộ lịch sử nhân loại đã được ghi chép trong Kinh Thánh, từ đầu đến cuối.
Trong đó đã gồm mọi khôn ngoan, mọi bí mật, và cả mọi biến cố cho tới hôm nay
và cả tương lai. Muốn hiểu nó, chỉ cần thủ đắc một thứ chìa khoá. Vì thế ta chỉ
cần học cách mở khoá. Ngài nghĩ gì về quan điểm này?
Nếu hiểu một cách phiến diện và máy móc thì quan
điểm đó sai. Có người tin rằng đã nắm được chìa khoá, rồi bảo rằng Chúa muốn
nói đến chiến tranh nguyên tử trong sách Khải-huyền, chẳng hạn, và gán cho Chúa
là tác giả của những biến cố. Dĩ nhiên ta có thể theo cách đó nhìn ra nhiều tương
đồng lạ lùng và thấy được nhiều chuyện đã được nói trước. Nghĩ rằng trong Kinh
Thánh đã chứa sẵn mọi sự kiện thực nghiệm, là hoàn toàn sai.
Cái toàn thể và tổng thể có thật trong Kinh Thánh
mang bản chất hoàn toàn khác. Kinh Thánh nói về toàn bộ lịch sử, và cũng mở ra
những nguồn sáng cơ bản chiếu soi đường đi của lịch sử. Nhưng Chúa không nghĩ
thay chúng ta. Ngài không thay thế khoa học, không thay thế những nỗ lực tinh
thần của chính chúng ta. Ngài để cho chúng ta, như đã nói, tự do vật lộn với
thế giới. Ngài không nhảy vào lỗ hổng kiến thức của ta, nhưng ban cho ta khôn
ngoan - sự khôn ngoan này dĩ nhiên bao gồm cả kiến thức trong nó, vì nếu không,
thì nó chẳng phải là khôn ngoan thật sự. Ngài cho ta những định hướng cần thiết
để ta có thể sống đúng. Những bảng chỉ đường của Ngài có giá trị cho toàn bộ
lịch sử, cho mọi nơi mọi thời, nhưng vấn đề là ta phải luôn hiểu chúng một cách
mới. Sách giáo lí có ghi lại câu của đại giáo chủ Grê-gô-ri-ô: Lời trong Kinh
Thánh lớn lên với người đọc. Và người đọc cũng lớn lên với Lời đó, và chỉ như
thế Lời mới cho thấy nét cao cả của nó và đồng thời lớn lên trong lịch sử.
Có người tin rằng Kinh Thánh chứa đầy bạo tàn, bất
dung và thiếu độ lượng. Họ đếm được 250 chỗ nói tới việc tiêu diệt kẻ thù. Mặt
khác, một thầy dòng già nói với tôi, càng đọc Kinh Thánh, cuộc sống thường nhật
của ta bắt đầu càng thay đổi, tiến về hướng tốt đẹp hơn.
Đúng, tôi cũng muốn nói như thế. Nếu tôi đọc Kinh
Thánh chỉ để tìm những cảnh rùng rợn, hay để thu góp những màn máu me, thì việc
đọc hẳn chả giúp gì cho tâm hồn.
Một mặt, Kinh Thánh quả là tấm gương phản chiếu lịch
sử, nhưng mặt khác, nó cũng là con đường dẫn đưa từng người tiến về ánh sáng.
Khi tôi đọc Kinh Thánh đúng với tinh thần của nó, nghĩa là đọc trong tư thế
hướng về đức Ki-tô, cũng như khi người Do-thái đọc nó với tinh thần vô tư và
tin tưởng, lúc đó Kinh Thánh có sức biến đổi thật. Nó đưa tôi vào phong cách
của đức Ki-tô, chỉ ra cho tôi í nghĩa cuộc đời và làm chính tôi biến đổi.
Ngài có lần
nói, sở hữu chủ của Kinh Thánh là dân thường, chứ không phải là hạng thông
thái.
Điều đó tôi muốn nói với thần học giải phóng. Đúng là: Kinh Thánh do Dân
Chúa viết ra, các tác giả riêng rẽ được linh ứng, vì thế tiếng nói của họ cũng
là tiếng nói của Giáo hội, và qua Giáo hội Chúa nói với ta. Vì thế, Kinh Thánh
cũng được trao cho đức tin của những người đơn sơ.
Dĩ nhiên cần có những chuyên viên, những học giả để
diễn giải những chuyện thuần lịch sử và khoa học. Nhưng í nghĩa quyết định của
Kinh Thánh thì ngay tín hữu bình dân cũng hiểu được. Kinh Thánh thật sự được
viết ra cho mọi người nên ai cũng hiểu. Thánh An-tịnh có một câu thật hay: Con
thỏ và con lừa rừng đều uống từ một nguồn suối, cả hai đều đã khát. Mà quả thực
như thế, thỏ và lừa đều nhận được của uống phù hợp cho mình.
Có một lô những
tài liệu không được nhận vào Tân Ước. Ngày nay, những tài liệu thuộc loại ẩn
thư đó đã được khai quật và được nói đến khá nhiều. Có lẽ người ta đã kết thúc
công việc điển chế Kinh Thánh quá sớm?
Chuyện điển chế là một trong những vấn đề lớn, ngay
cả cho Cựu Ước. Cựu Ước cũng có nhiều ẩn thư, và cũng có những quy điển khác
nhau.
Người ta đã phân biệt rất sớm giữa quy điển
Alexandria, là tập hợp các sách Cựu Ước được dịch ra tiếng Hi-lạp, và quy điển
Masora, mà đạo Do-thái đã ấn định sau thời đức Ki-tô. Dĩ nhiên, đã có những tài
liệu quan trọng – như kinh Thora và cả phần nhiều các sách Tiên tri – từ lâu đã
được xếp vào loại quy điển rồi, nhưng nói chung, vào thời đức Ki-tô công việc
điển chế vẫn còn chưa xong.
Từ cái nhìn Tân Ước, hầu như toàn bộ quy điển
Alexandria được công nhận là quy điển của Cựu Ước. Còn các giáo sĩ Do-thái chọn
quy điển Masora, là bản mỏng hơn, vì theo họ bản Alexandria chứa quá nhiều yếu
tố ki-tô giáo. Cuối cùng, Luther chọn bản quy điển do-thái, mà ông cho là bản
duy nhất đúng. Vì vậy ngày nay Cựu Ước của Tin lành mỏng hơn Cựu Ước của ta.
Lịch sử điển chế Tân Ước quả rất nhiêu khê. Dù các
phần cơ bản đã định hình vào cuối thế kỉ thứ hai rồi, nhưng chuyện điển chế vẫn
dây dưa mãi tới thế kỉ thứ năm.
Nhìn từ quan điểm thuần lịch sử, hay nói như nhà
thần học tin lành Harnack*, là nhìn
từ góc độ tự do, ta có thể nói được rằng, việc điển chế Tân Ước xẩy ra một cách
tình cờ, dù vậy, các tài liệu thật sự quan trọng và giá trị đều đã được nhận
vào đầy đủ trong đó. Nếu xét từ góc độ đức tin, thì việc quy điển đã không do
một ai làm nên cả, chẳng phải do một nhóm nhà thông thái tụ nhau lại nghiên cứu
sắp đặt, nhưng nó đã được hình thành lần hồi qua việc Giáo hội sống trực tiếp
với những bản văn sống động đó, và nhất là chúng cũng đã được bảo toàn nhờ
phụng vụ. Người xưa đã tự hỏi: Cái gì nên đọc? Cái gì mang giá trị phổ quát?
Cái gì đã được ki-tô hữu do-thái, hi-lạp và la-tinh công nhận? Có thể nói, qua
một tiến trình sàng lọc khó khăn, Giáo hội đã chọn ra những gì là nền tảng
chung (dĩ nhiên có những chút khác biệt tuỳ từng vùng trong Giáo hội).
Ngày nay, có những nỗ lực xét lại và làm lại từ đầu
một phần quy điển. Đặc biệt các phong trào nữ quyền thấy quan điểm của họ được
phản ảnh trong các tài liệu ngộ giáo và những tài liệu này lại không được nhận
vào Tân Ước. Vì thế, họ đòi có một quy điển khác. Nhưng, như vậy có nghĩa là
chối bỏ Giáo hội sống động để thay vào đó những tái cấu trúc của các nhà thông
thái. Như vậy là người ta muốn có một cuộc trưng cầu về đức tin. Vấn đề là: Tôi
tin có Giáo hội, Giáo hội này được nhận ra nơi một đức tin chung và đặt nền
tảng trên đức tin đó. Hay tôi cho rằng việc tuyển chọn các bản văn mang tính
tình cờ và lịch sử? Nếu tôi theo quan điểm thứ hai, thì tôi cứ việc tìm lấy một
Ki-tô giáo khác, và cứ việc tìm cho mình những nguồn mới khác.
Mặt khác, chẳng tìm đâu ra một nguyên bản các sách
Kinh Thánh nào. Lại nữa, làm sao tránh khỏi lỗi lầm khi chép lại các văn bản.
Như vậy làm sao xác định được sự trung thực của Kinh Thánh?
Vẫn xác định được, đó là điều chắc chắn. Dĩ nhiên
người ta vẫn còn tranh luận nhau từng chữ từng câu. Cứ đọc ấn bản Tân Ước mới
và mang tính phê bình của Nestle-Aland* thì rõ, trong đó có biết bao điểm khác với ấn
bản thường. Nhưng, dù đọc và học được nhiều cái hay trong các bản chép tay đó,
dù biết được những phong trào và kinh nghiệm của Giáo hội phản ảnh trong đó,
cuối cùng ta vẫn nhận ra nét bản chất không đổi của Kinh Thánh. Dù ta chọn cho
mình một bản chép tay khác hay chọn một lối đọc khác, thì Kinh Thánh vẫn vậy.
Có nhiều biến thái và khía cạnh hay, nhưng bản văn và bản chất thực của nó nhìn
chung vẫn không đổi. Và chính vì tính trung thực của nó được bảo đảm, nên nó có
thể xuất hiện dưới nhiều biến thái khác nhau.
Phan-sinh
không những đọc Kinh Thánh, mà còn dùng nó như một lối chơi bài. Tương truyền,
khi lập dòng, ngài mở đại một trang sách và nói: “Chúng ta làm như thế!”. Rồi
lại mở một trang khác và nói: “Đấy là luật dòng chúng ta!”. Cả thánh An-tịnh
cũng có lần mở đại một trang và áp dụng cho đời mình; trang đó đã biến đổi hoàn
toàn con người ngài.
Chuyện đó có lâu lắm rồi. Cả thánh An-tịnh cũng đã
từng nghe chuyện đó. Trang Kinh Thánh đã đổi đời An-tịnh và Phan-sinh. Vua
Baudouin nước Bỉ có lần kể cho tôi hay, ông cũng áp dụng cách thức đó, và luôn
gặp được những câu ông cần, và chúng đã mang lại cho ông ơn ích không thể
tưởng. Trong một cuộc khủng hoảng chính phủ thật trầm trọng, ông không còn biết
làm sao để lập chính phủ, ông liền vào nhà nguyện, cầm Kinh Thánh dở ra và đã
tìm được phương cách giải quyết. Chuyện có thể xẩy ra.
Và đó là lời khuyên cho những ai muốn lập chính phủ…
Dĩ nhiên. Nhưng ta không thể đơn giản dùng nó như
một toa thuốc. Bằng không, Kinh Thánh trở thành sách bói toán. Điều đúng và
quan trọng, là ta đọc Kinh Thánh thường đều, và để lời Chúa đồng hành và hướng
dẫn ta. Cứ suy tư với nó, ta sẽ gặp được những lời thiết thực có ích cho ta
trong những tình huống nhất định.
* Adolf von Harnack (1851 – 1930): Người Đức, nhà thần học và sử gia Giáo hội tin lành nổi nhất cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20.
* Nestle-Aland: thuộc Viện nghiên cứu văn bản Tân Ước của đại học Münster, Đức (INTF). Mục tiêu của Viện là thu thập, xếp loại, đánh giá các văn bản Tân Ước cổ bằng tiếng Hi-lạp (nay đã phát hiện được 5700 văn bản) với hi vọng tái tạo lại được bản gốc của Tân Ước.