THIÊN CHÚA VÀ TRẦN THẾ
Joseph Ratzinger
Biển-đức XVI.
Thiên Chúa và Trần Thế
Tin và Sống trong thời đại ngày nay
Trao đổi với Peter Seewald
Phạm Hồng-Lam chuyển ra Việt
ngữ
CHƯƠNG II
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ
Thưa hồng i, có thể nói được rằng hình người trên khăn liệm ở Turin là
đức Giê-su thật?
Khăn liệm Turin vẫn
còn là một ẩn số, chưa có lời giải rõ ràng, dù có rất nhiều điểm cho thấy đó là
tấm khăn thật. Dù sao, không ai trong chúng ta lại không cảm xúc trước sức hút
đặc biệt của bóng người đó, trước các vết thương dễ sợ.
Và trước khuôn mặt đầy ấn tượng.
Cả cuộc khổ hình hiện
lên một cách mãnh liệt trên khuôn mặt. Đồng thời ta cũng thấy một phẩm giá lớn
lao trên đó. Khuôn mặt gợi lên nét yên tĩnh và thoải mái, bình an và thương
xót. Như vậy, khăn có thể giúp ta mường tượng được đức Ki-tô.
Một con người với nét tự tin lớn...
Nếu chỉ là một tự tin
của con người, thì đó là một tình tự thái quá. Nhưng trên khuôn mặt đó có một
cái gì khác và lớn hơn nhiều: Đức Giê-su biết rằng Ngài hoàn toàn làm một với
Cha Ngài, với Chúa. Sự hợp nhất này có tính chất gia đình, nó vượt lên trên tất
cả mọi thứ hợp nhất thần bí mà chúng ta biết. Vì vậy đức Giê-su có lí do để
dùng tên gọi Thiên Chúa cho mình – “Ta là điều đó”.
Đó cũng là một con người thỉnh thoảng tỏ ra thô lỗ và cáu kỉnh: „Này,
thế hệ không tin và không thể dạy bảo được kia!“ Ngài thất vọng kêu lên: „Tôi
phải ở bên các ngươi bao lâu nữa? Tôi còn phải chịu đựng các ngươi bao lâu
nữa?“
Chính tôi cũng luôn
bị đánh động bởi sự nghiêm khắc và thiếu kiên nhẫn của Ngài đối với con người.
Đây có thể là một bài học cho ta về tình yêu, tình yêu luôn đòi hỏi, chứ không
đơn giản chỉ là mềm lòng hay chấp nhận thua thiệt mà thôi.Đức Giê-su nhìn con
người với đôi mắt Thiên Chúa. Từ cái nhìn đó, ta có thể nhận ra nỗi thất vọng
của Ngài đối với con người, và nhận ra cơn giận của Ngài trước cách con người
đối xử với tạo vật của Ngài. Những câu trên cho thấy nỗi chán chường và vô tâm
của con người đối với Thiên Chúa đã trầm trọng tới cỡ nào, cho thấy khả năng
bịt tai và khép kín của con người đã thật sự trầm trọng ra sao trước mặt
Chúa.
„Khóc lóc và nghiến răng“ là câu đức Giê-su thích nói nhất. Hễ khi nào
muốn ám chỉ điều gì xấu, Ngài lại dùng câu đó.
Bảo đó là câu Ngài
thích nói thì có lẽ không đúng. Đó là chữ Ngài dùng khi vấn đề trở nên nguy
kịch. „Khóc lóc và nghiến răng“ ám chỉ cái đe doạ, cái nguy hiểm, tóm lại ám
chỉ một con người đã hư mất. Nó nói lên hoàn cảnh thế giới, trong đó con người
đang ngất ngư trong độc chất và truỵ lạc, rồi vừa khi thoát ra được bỗng nhận
ra toàn bộ sự mâu thuẫn của cuộc sống mình.
Hoả ngục thường được
diễn tả bằng lửa đốt. Còn nghiến răng chỉ xẩy ra khi bị rét lạnh. Khóc lóc
nghiến răng là hình ảnh của một người bị bỏ rơi, bị đẩy ra ngoài trời lạnh, vì
hắn không còn chấp nhận tình yêu. Người đó bị đẩy hoàn toàn ra khỏi thế giới
của Chúa, cũng là thế giới của thương yêu – đến nỗi phải nghiến răng khóc lóc.
Thỉnh thoảng đức Giê-su làm trò ảo thuật. Khi môn đệ hết tiền trả thuế
Đền thờ, Ngài nói với Phê-rô: „Chèo thuyền ra hồ thả câu; khi bắt được con cá
đầu tiên, mở miệng nó ra, anh sẽ thấy một quan tiền trong đó. Dùng tiền đó mà
trả thuế cho anh và cho Thầy“.
Không phải bạ đâu
Ngài làm phép lạ ở đó. Ngài chỉ làm khi có liên hệ tới đức tin. Ngài nói rõ: Ta
đến không phải để làm phép lạ, nhưng để loan truyền nước Thiên Chúa.
Câu chuyện anh kể
trên có một í nghĩa khác, sâu xa hơn. Thật ra Chúa không cần phải trả thuế, bởi
vì đền thờ rốt cuộc là chính Ngài, nhưng Ngài đã trả vì vâng lời, và đã trả
theo cách thật đặc biệt do Chúa ban. Tôi thấy Ngài mỉm cười khi làm chuyện
đó.
GIÊSU - NHÂN VẬT GIẢ TƯỞNG?
Mối hoài nghi về nhân vật Giê-su lịch sử chẳng bao giờ dứt. Có người
cho đó là một nhân vật giả tưởng. Có kẻ bảo đó là một thứ thủ lãnh của một giáo
phái. Có kẻ lại bảo Ki-tô chỉ là một trong những sơ nguyên tượng được dùng để
nói lên bi kịch của kiếp người: đau khổ, lo âu, tình yêu. Và có người còn nói:
Vị sư phụ đó xem ra hay đấy, nhưng ông ta đâu có liên hệ gì tới tôi.
Dĩ nhiên, như ta vẫn
thấy, người ta có thể hoài nghi mọi chuyện lịch sử. Chẳng hạn như có một vị trí
thức bảo không có Đại đế Karl*, nghĩa là ông chối bỏ cả một lịch sử
hai trăm năm. May mà chúng ta không ăn theo trong vụ này. Tài liệu lịch sử cho
ta biết về biến cố, nhưng chúng không giúp ta sờ được chính sự kiện.
Như vậy nghĩa là còn có chỗ cho những giả định, hồ nghi?
Không. Ngay cả khi ta
chỉ dùng những tiêu chuẩn lịch sử đã được công nhận để xét, thì sự hiện hữu của
đức Giê-su đã quá rõ và đầy đủ, đến nỗi ta không còn nghi ngờ gì nữa về nhân
vật lịch sử này. Những gì được truyền tụng về Ngài khác hẳn với những gì có thể
tạo ra hay tưởng tượng ra. Chúng bẻ gẫy mọi mô hình giả định.Và ở đây ta có thể
nhận ra cả dấu vết của biến cố lẫn những gì sau đó đã hình thành nên từ biến cố
đó. Cả hai không thể giải thích được bằng những phạm trù tư tưởng, mà chỉ bằng
va chạm nền tảng với một sự kiện đã thực sự xẩy ra. Vì vậy, theo tôi, việc hoài
nghi về sự hiện hữu của đức Giê-su là chuyện thiếu đứng đắn.
Nhưng đâu là nguồn sử liệu thật sự khả tín?
Anh cũng biết, càng
ngày người ta càng đào sâu vào tài liệu và bới qua bới lại quanh chúng. Người
ta muốn chẻ nhăm chúng ra để phân tích. Để cuối cùng chỉ còn lại một nhúm dữ
kiện nghèo nàn và người ta bỗng tự hỏi, làm sao một khuôn mặt nghèo nàn như thế
này mà lại cưu mang được những biến cố như thế kia.
Ta không được phép
quên điều này: Bức thư thứ nhất gởi giáo đoàn Cô-rin-tô, lá thư làm chứng về
việc sống lại của Chúa và về việc lập phép Thánh Thể, đã có bằng văn bản, trước
khi Phao-lô khởi sự viết. Lá thư được viết vào thập niên 50 sau ngày chúa Ki-tô
sinh. Và nội dung lá thư ghi lại những gì đã được truyền tụng trước đó ở
Giê-ru-sa-lem. Như vậy có nghĩa là Phao-lô đã chép lại những gì đã được viết
ra, như chính ngài đã nói. Cả văn phong của thư cũng cho thấy ta đang tiến sát
thật gần chính ngay các sự kiện.Tôi phải thú thật, càng nghe về những nỗ lực
nghiên cứu nguồn sử liệu, tôi càng bớt tin vào các giả thuyết đi quá đà của các
chuyên gia. Và những giả thuyết đó cứ lặp đi lặp lại và không ngớt mâu thuẫn
nhau. Ngay Albert Schweitzer* đã chỉ trích việc cố công nặn ra một
Giê-su lịch sử để đối lại với đức Ki-tô của niềm tin, việc làm đã được khởi sự
từ khi mở đầu thời kì Ánh sáng. Schweitzer bảo, ta tưởng lúc này đây đã có được
khuôn mặt thật của Ngài, nhưng thực ra Ngài đã vượt qua thời đại chúng ta rồi
và đã trở về lại với chính Ngài rồi.
Tôi nghĩ, tất cả những
nỗ lực kia chỉ là những tái cấu trúc, trong đó người ta luôn chỉ nhận ra khuôn
mặt của nhà tái tạo mà thôi. Dù là đức Ki-tô của Adolf Harnarck – phản chiếu
típ người tự do của ông; hay là đức Ki-tô phản chiếu loại triết lí hiện sinh
của Bultmann*. Tất cả những cấu trúc đó đều được thực hiện với í
nghĩ nền tảng này: Không thể có Chúa như là một con người được. Vì thế, họ
không công nhận tính lịch sử của các biến cố làm tiền đề cho Ngài. Có nghĩa là
ở đây người ta đã khởi sự làm việc với một điều kiện, là phải loại ra khỏi biến
cố cái lực nội tại của nó – nhưng chính lực này mới là cái tạo cho biến cố sự
lôi cuốn và đầy đủ í nghĩa.
Vậy cách làm việc của ngài như thế nào?
Tôi nghĩ, đúng hơn ta
nên đặt câu hỏi: „Khuôn mặt như trong Tân Ước mô tả có nói lên í nghĩa gì
không? Và câu trả lời của tôi có thể sẽ là: Chỉ có khuôn mặt như trong Tân Ước
mới thật mang í nghĩa. Chỉ như thế nó mới mang chiều kích cao cả và mới có thể
tạo ra được những biến cố như kia. Vì thế, theo xác tín của tôi, ta có lí do để
tin vào Tin Mừng, dù cho mọi phê bình nguồn sử liệu, mà mình cũng có thể học
được trong đó nhiều chuyện. Có thể có những tiểu tiết lưu truyền đã bị người
đời sau làm biến thể, nhưng tựu trung các chứng từ Tin Mừng đều đáng cậy, và ta
có thể gặp được khuôn mặt thật của đức Ki-tô trong đó. Tin Mừng đáng cậy hơn
nhiều so với những tái cấu trúc lịch sử xem ra vững chắc.
Tôi muốn thêm: Tin
Mừng Gio-an, mà một thời gian dài chỉ được xem như là một sáng tác thuần tuý
thần học (Bultmann chẳng hạn đã cố minh chứng đó là sản phẩm của các phong trào
ngộ giáo), ngày nay lạ lùng thay đã được công nhận là một sử liệu. Tin Mừng này
có những chỉ dẫn địa lí đúng đắn nhất, và có một kiến thức đúng nhất về lối
nghĩ và cách sống của người Do-thái thời đó. Nhà chú giải Klaus Berger ở Heidelberg
vì vậy muốn coi nó là bản văn kì cựu hơn các Tin Mừng khác. Điểm này có lẽ tôi
không cùng quan điểm. Tục truyền bản văn hình thành vào cuối thế kỉ thứ nhất.
Ta cứ việc biết như thế. Tuy nhiên đó là một tài liệu với kiến thức rất chính
xác, và viễn kiến thần học của nó không tách khỏi nền tảng lịch sử.
8. MẠC KHẢI
Có lần, nhà thần học người Pháp Henri de Lubac* nói, chính
cuộc đời đức Ki-tô là điểm mầu nhiệm được ưa thích nhất. Việc làm của Ngài, một
mặt, là hành vi của một con người thường, nhưng mặt khác cũng là hành vi của
một con người mang thiên tính. De Lubac viết: „Tìm hiểu í nghĩa cuộc đời đức
Ki-tô có nghĩa là thâm nhập vào thực tại của Thiên Chúa“. Phải chăng có nghĩa
là khi ta tập tìm hiểu cuộc đời đức Ki-tô, ta sẽ nhận ra và bắt gặp được Chúa
cũng như toàn bộ cuộc đời mình?
Cuộc sống của ta chỉ
có chất liệu và nền tảng, khi ta càng thấm nhập vào và cùng sống với cuộc sống
của đức Ki-tô. Nhờ nền tảng đó, ta mới có thể hiểu được Thiên Chúa. Đó là điểm
cơ bản. Lời đức Ki-tô có tầm quan trọng không có gì thay thế được, nhưng ta
không được phép thu gọn Ngài vào lời mà thôi. Thịt, như thánh Gio-an nói, cũng
có vai trò của nó, đó là lời được sống, và thịt cũng đã dẫn tới thập giá. Chỉ
khi ta ngắm nhìn cả con người toàn diện và sống động của đức Giê-su, lúc đó lời
mới toát ra chiều kích cao cả chứa đựng trong nó. Như thế, muốn hiểu được sứ
điệp của Ngài, nhất thiết phải ngắm nhìn cuộc sống và khổ nạn của Ngài.
TIÊN TRI VÀ SỨ GIẢ
Như vậy, ta hãy tìm hiểu rõ hơn về hình dáng, cuộc sống và sứ điệp của
đức Giê-su Ki-tô. Hãy bắt đầu với Gio-an: „Từ khởi thuỷ là Lời / và Lời đã trở
thành thịt / và ở giữa chúng ta, / và chúng ta đã thấy vinh quang của Lời, /
vinh quang của Con một của Cha, đầy ân phúc và chân lí“. Hẳn đây là đoạn mở đầu
cao sang nhất xưa nay chưa từng được viết ra trên thế giới.
Những lời đầu tiên
của Tin Mừng Gio-an là nhịp cầu nối liền lịch sử tạo dựng, nguồn cội mọi loài,
với biến cố đã xẩy ra ở Pa-les-tin . Chúng nói lên điều này: Logos / Lời sáng
tạo làm nên thế giới kia đã hiện thân trong con người Giê-su. Nguồn lực sáng
tạo thế giới, như vậy, đã đi vào trần thế và nói chuyện với ta. Một mâu thuẫn
lớn đã xẩy ra: Thiên Chúa quá vĩ đại để có thể trở nên bé bỏng. Và bé bỏng đến
mức Ngài gặp gỡ ta qua thân xác một con người. Thiên Chúa không đơn giản từ
trời rơi xuống và trình diện trước mặt ta, nhưng Ngài đã xuất hiện qua một biến
cố lịch sử, biến cố đó là một con đường dẫn tới Ngài. Trên con đường đó, có thể
nói, người ta đang chờ Ngài và sứ điệp của Ngài có thể được ta nghe biết.
Gio-an tẩy giả là sứ giả trực tiếp của đức Ki-tô. Tin Mừng viết: “Ông
tới như một người chứng, để làm chứng cho Ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà
tin”.
Trong biến cố lịch sử
kia, xét về thời điểm lịch sử, đã có một tiên tri, một chứng nhân cuối cùng,
xuất hiện trước đức Giê-su. Gio-an làm phép rửa là đại diện của một thứ phong
trào cảnh tỉnh. Is-ra-en sôi bỏng lúc đó đang nóng lòng về một vị cứu tinh, một
Messias. Dân tộc này bị ngoại bang thống trị, vẫn luôn mang trong mình hi vọng
được giải phóng, và họ tin là chuyện đó sẽ trở thành hiện thực. Mặt khác, đó là
một thời không có tiên tri. Xem ra ánh sáng tiên tri lúc đó đã tắt.
Gio-an đến từ sa mạc, và ông giảng điều mới mẻ. Ông bảo, ông là “tiếng
kêu trong sa mạc”. Ông làm phép rửa liên tục “bên kia bờ sông Gio-đan”, như
sách chép. Và hôm đó, khi thấy đức Giê-su tới với mình, ông đã nói một câu đầy
bí ẩn: “Hãy xem Con Chiên Thiên Chúa, đấng xoá tội trần gian. Đây là người mà
tôi đã nói: Sau tôi sẽ tới một người, người đó vượt trước tôi, vì người đó có
trước tôi”.
Gio-an xuất hiện nơi sa mạc như một người được Thiên Chúa thánh hiến.
Thoạt tiên, ông giảng về hối cải, thanh tẩy và tụ tập dân chuẩn bị cho Chúa
đến. Việc rao giảng đó, có thể nói, là tóm tắt toàn bộ lời tiên tri dẫn vào
đúng lúc lịch sử đang hối hả tiến tới mục tiêu của nó. Sứ mạng của Gio-an là mở
tung cánh cửa ra cho Chúa, để dân Is-ra-en sẵn sàng đón nhận Ngài và chuẩn bị
giờ lịch sử cho Ngài.
Có hai điều quan trọng: thứ nhất, những bài giảng hối cải của ông chứa
đựng toàn bộ lời tiên tri; thứ hai, việc chứng tá của ông về đức Ki-tô đã cụ
thể hoá các lời tiên tri đó, qua hình ảnh con chiên, nay là Con Chiên Thiên
Chúa. Ta hãy nhìn lại câu chuyện của Ab-ra-ham và I-sa-ac, nhìn lại chuyện tế
thú vật mà trong đó chiên giữ vai trò quan trọng, đặc biệt phải có chiên làm
của lễ trong dịp vượt qua. Giờ đây đã hoàn tất mọi nỗ lực thay thế đó. Đối với
chúng ta, chiên vượt qua trên nguyên tắc là người. Giờ đây Chúa Ki-tô là chiên
vượt qua, như thế là Ngài chia sẻ thân phận của ta và làm biến đổi thân phận đó.
Câu thứ hai là một nhắc nhở nhẹ nhàng về thiên tính nơi đức Giê-su Ki-tô,
cho dù điều này Gio-an đã chưa nghĩ tới hết và nói ra hết. Ông bảo, đây không
phải là một nhân vật lịch sử nào đó, nhưng là một kẻ vượt lên trước tất cả
chúng ta, kẻ đến từ muôn đời Thiên Chúa và là vị thân tín của Ngài.
Tổ phụ Gia-cóp có lẽ đã diễn tả thời điểm vị
Cứu tinh này xuất hiện giống như vào lúc đức Ki-tô giáng sinh. Đó là lúc nhiều
người mất đức tin, đám Pha-ri-sêu thì, như sách chép, sống trong kiêu căng và lạnh
lùng, những người khác cảm thấy mình như một đàn thú không có người chăn. Ước
mong về một vị Cứu tinh đã trở nên nóng bỏng cả nơi dân Do-thái lẫn nơi lương
dân. Tiên tri I-sai-a than thở: “Xin trời hãy đổ người công chính xuống!”, “Mây
hãy mưa người công chính xuống!”. Nhưng phải chăng những lời báo trước về đức
Ki-tô đó chỉ mới được bịa ra sau này?
Phần đầu câu hỏi của anh có lẽ liên quan tới cái gọi là lời chúc lành của
Gia-cóp (Kn, 49), lời đó gồm một số lời hứa đầy bí ẩn cho mười hai con trai của
Gia-cóp. Lời chúc cho Giu-đa như thế này: “Nước thống trị sẽ không rời khỏi
Giu-đa và gậy quyền hành không rời chân nó, cho đến khi nào vị xứng đáng và
được muôn dân tuân phục đến” (49, 10). Lời này sau đó được coi là lời hứa cho
vương quốc Đa-vít (Đa-vít thuộc dòng dõi Giu-đa), và đến khi vương quốc này bị
xoá sổ - nghĩa là vào thời đức Giê-su – nó được coi là lời hứa cho một con trai
Đa-vít mới, là đấng Messias, đấng mà cả các dân tộc ngoài Do-thái đều vâng
phục. Hẳn nhiên, ki-tô hữu coi con trai Đa-vít mới đó là đức Ki-tô. Nhưng thời
điểm đức Ki-tô đã chưa được viết ra, những câu trên (mà các học giả vẫn chưa
thống nhất về thời gian xuất hiện) đề cập tới một điều đang tới với đầy bí ẩn,
và ngữ nghĩa của chúng chỉ được sáng tỏ dưới ánh sáng của đức Ki-tô.
Giờ hãy nói về tiên
tri I-sai-a. Thật ra I-sai-a đã nói: “Trời của các ngươi hãy đổ sự công chính”.
Nhưng sau khi sự công chính đó hiện thân qua một người, ki-tô hữu mới đọc nó
theo kiểu nhân cách hoá. Ta cũng có thể đọc và hiểu tương quan thống nhất giữa
Cựu và Tân Ước như một lối mở đường như thế. Lời cựu ước hướng về đức Ki-tô,
lời đó đồng thời kiếm tìm Ngài từ trong bóng tối.
Dĩ nhiên, người ta có
thể coi Cựu Ước không có liên hệ gì tới đức Ki-tô. Nhưng như thế thì lời sẽ khó
hiểu, vì thật ra chúng hướng về Ngài. Và dù cho người Do-thái không thể coi đức
Ki-tô là vị đã hoàn thành những lời đó, thì đó chẳng phải là vì họ có ác í gì,
song cũng là vì sự khó hiểu của lời kinh, và vì tương quan căng thẳng giữa hình
dạng đức Ki-tô với lời cựu ước. Với đức Ki-tô, Cựu Ước mang một nghĩa mới – và
chỉ nhờ Ngài mà những lời cựu ước mới nhận ra liên quan, hướng đi và í nghĩa
của chúng.
Như thế, có thể loại
trừ yếu tố đức Ki-tô ra khỏi Cựu Ước. Mà cũng có thể làm ngược lại. Cả hai lập
luận đều có lí do chính đáng. Đó là cuộc tranh luận hiện nay giữa người Do-thái
và ki-tô hữu. Nhưng không chỉ giữa hai tập thể đó mà thôi. Một số đông các nhà
chú giải theo khuynh hướng thuần phê bình lịch sử cũng không chấp nhận tính
cách con đường và dẫn đường của Cựu Ước, và họ xem lối diễn giải của Ki-tô giáo
là không hợp hay đi quá xa nguyên nghĩa lịch sử.
Tóm lại: Cựu Ước
không phải là một thứ bói toán, mà là một con đường. Điểm này người ta có quyền
tự do chấp nhận hay không. Theo tôi, chính việc tồn tại của Cựu Ước đã là một
bảo chứng nói lên Cựu Ước tự nó có í nghĩa. Cựu Ước rõ ràng có trước đức Ki-tô
về mặt lịch sử, cũng như đức tin của người Do-thái và kinh sách của họ có trước
Ki-tô giáo. Các giáo phụ thẳng thắn coi việc người Do-thái công nhận Cựu Ước và
phủ nhận đức Ki-tô là sứ mạng lịch sử nhằm bảo đảm cho tính xác thực và tuổi
tác của các sách thánh của họ. Vì thế, các ngài bảo, người Do-thái đã phải tiếp
tục là Do-thái, chứ không trở thành ki-tô hữu. Cựu Ước tự nó vẫn có nghĩa,
nhưng nếu ta đọc nó với đức Ki-tô, thì nó mới toát ra í nghĩa mới và mở ra một
cái nhìn toàn diện.