THIÊN
CHÚA & TRẦN THẾ
Joseph Ratzinger
Biển-đức XVI.
Thiên Chúa và Trần Thế
Tin và Sống trong thời
đại ngày nay
Trao đổi với Peter
Seewald
Phạm Hồng-Lam chuyển ra
Việt ngữ
CHƯƠNG II
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ
13. MẸ THIÊN CHÚA
Lịch sử công nguyên khởi đầu với một phụ nữ. Tin Mừng kể “Và thiên thần
Chúa đã mang tới cho Maria một sứ điệp”. Đó là một cô gái từ chốn hẻo lánh
không ai biết tới Na-da-ret, và cô chẳng hiểu chuyện gì sẽ xẩy đến cho mình.
Người ta chỉ nhận ra được tầm vóc lớn
lao của biến cố đó qua dòng thời gian. Trước hết là sự xuất hiện của thiên sứ,
vị này đột ngột trao cho Maria một sứ điệp bất thường: Cô đầy ơn phúc, cô đã
được chọn để làm mẹ Thiên Chúa. Hẳn lúc đó Maria hốt hoảng.
Một con người làm mẹ Thiên Chúa!
Quả là một mâu thuẫn lớn. Thiên Chúa
trở nên bé nhỏ. Ngài trở thành người, như vậy cũng mặc lấy điều kiện đầu thai
và sinh ra của con người. Ngài có một người mẹ, và bằng cách đó, Ngài đã thật
sự được dệt vào tấm thảm của lịch sử loài người, đến nỗi một phụ nữ đã có thể
thật sự nói được với đứa con mình sinh ra: Chúa tể trần gian ở trong con.
Người ta đã tranh cãi nhau rất lâu về
chữ Mẹ Thiên Chúa. Nhóm Nestorius* bảo Mẹ không sinh ra Thiên Chúa, mà chỉ
sinh ra một con người Giê-su mà thôi. Như vậy, ngài là mẹ của đức Ki-tô, nhưng
không thể gọi là mẹ Thiên Chúa được. Câu hỏi căn bản là sự hoà quyện hai bản
tính thiên chúa và con người trong đức Giê-su Ki-tô sâu xa tới đâu, tới độ nào
để có thể nói được đứa trẻ sinh ra đó là Chúa, và như vậy Maria là mẹ Thiên
Chúa. Mẹ Thiên Chúa không phải trong í nghĩa Mẹ là người sinh ra Thiên Chúa.
Nhưng trong nghĩa Mẹ đã sinh ra một con người, và con người đó hoàn toàn kết
hiệp làm một với Thiên Chúa. Với cách đó, mẹ Maria đã hoàn toàn kết hiệp một
cách lạ lùng với Thiên Chúa.
Maria được kính thờ như Nữ vương thiên đình, như Nguyên ảnh của Giáo hội,
hay cũng như Mẹ của lòng nhân ái. Lực toả sáng của người nữ đó, đấng vẫn luôn
dấy động tâm can hàng triệu con người, không thể nào đong đo bằng tiêu chuẩn
thường tình được.
Trong lịch sử, biến cố mẹ Maria càng
ngày cũng được hiểu như là nét vẻ vang của phụ nữ. Bản chất nguyên thuỷ của phụ
nữ được biểu hiện nơi Maria, ngài là hiện thân sự tinh tuyền của nhân loại và
Giáo hội. Và trong khi Eva - người phụ nữ đầu tiên và là “nguyên mẫu”, như
người ta vẫn nói, và là người mẹ của mọi loài sống động - được sinh ra trên căn
bản để chết, thì Maria – nhờ sinh ra đấng cứu thế, đấng đã phục sinh và mang
lại sự sống – thật sự được coi như là sự thể hiện tinh tuyền hai yếu tố hàm
chứa trong chữ Eva, đó là niềm hứa hẹn và khả năng sinh sản của người nữ. Maria
trở thành mẹ của sự sống, của những gì trao ban sự sống và của mọi loài sống
động.
KÍNH CHÀO ĐỨC MARIA
Lời chào của thiên sứ đã trở thành một lời kinh nền tảng của Giáo hội công
giáo. Một vài thiên tài lớn nhất của nhân loại như Mozart*,
Rossini* và những người khác, đã dệt Ave Maria
thành nhạc: “Kính chào Maria, đầy ơn phúc! Thiên Chúa ở cùng cô. Cô là người
trong những người nữ được chúc phúc. Và Giê-su, con trong lòng cô cũng được
chúc phúc”. Và thiên sứ còn nói: “Cô đừng sợ”. Và Maria đã trả lời thế nào?
“Này tôi là tôi tớ của Thiên Chúa”.
Vâng, ngài đã học được cách chẳng sợ. Bởi vì như ta thấy trong dọc dài Kinh
Thánh, bất luận nơi mục đồng hay nơi các tông đồ: Mỗi khi con người khám phá ra
mình ở gần Thiên Chúa là họ cảm thấy sợ hãi. Họ nhận ra sự bé bỏng của mình và
giật mình trước vinh quang và thánh thiêng kì vĩ của Thiên Chúa, bởi họ thấy
mình không thể nào sánh nổi. Đây là một trong những chỗ đầu tiên trong Tân Ước
xuất hiện chữ “Đừng sợ”. Thiên Chúa không đến để gây sợ hãi nơi ta, nhưng Ngài
trở nên bé nhỏ trong sự lớn lao của mình, Ngài cởi bỏ đi nét gây sợ, bởi Ngài
tới để đem ơn cứu độ.
Giáo chủ Gio-an Phao-lô II đã nhắc lại
câu “Đừng sợ, anh chị em đừng sợ Chúa Ki-tô” trong bài diễn văn đầu tiên ngày
nhận chức. Tôi muốn nói rằng, giờ đây cả hoàn vũ ki-tô giáo nên để cho lời đó
luôn thấm nhập mình. Chúng ta không cần phải sợ Chúa, không sợ Ngài sẽ lấy mất
gì của mình hay đe doạ mình, nhưng Ngài đến để đem chở che, giúp ta thắng vượt
cả sự chết.
Kinh Kính mừng của Giáo hội gồm hai
phần. Phần đầu là lời chào của thiên thần, phần sau là lời Ê-li-sa-bét thốt lên
khi Maria tới thăm mình: “Con trong lòng em cũng được chúc phúc”. Và
Ê-li-sa-bét tiếp: “Em là người có phúc hơn mọi người nữ”. Với câu này,
Ê-li-sa-bét cũng đã tiên đoán về sự tôn kính Maria. Thánh Thần đã giúp bà tiên
tri nói lên điều đó. Nói cách khác: Ki-tô hữu cũng sẽ ca ngợi Thiên Chúa, bằng
cách họ vui mừng chào đón những con người, mà qua đó Chúa tỏ cho thấy sự lớn
lao và lòng tốt của Ngài.
Mẹ Maria có í nghĩa nào đối với cá nhân ngài?
Ngài tượng trưng cho sự gần gũi với
Thiên Chúa. Nhờ ngài, ta mới hiểu ra việc nhập thể. Tôi rất cảm động việc Con
Thiên Chúa có một người mẹ, và người mẹ đó được tất cả chúng ta tín thác. Lời
đấng bị đóng đinh trao mẹ mình lại cho Gio-an đã từ giây phút đó đi vào suốt
chiều dài lịch sử. Nhờ lời trối trăn đó mà khi cầu nguyện cùng Mẹ, ta có được
niềm tin tưởng đặc biệt, cảm thấy được gần gũi và nhất là có được quan hệ với
Chúa. Cá nhân tôi trước đây bám chặt vào phong trào phụng vụ duy ki-tô, quan
điểm đó càng được đẩy mạnh qua việc đối thoại với các bạn tin lành. Nhưng càng
ngày, qua việc sùng kính Maria với các ngày lễ của Mẹ, các buổi chầu tháng năm,
các chuỗi mân côi tháng mười, Mẹ càng có í nghĩa đối với tôi. Và càng về già,
tôi càng cảm thấy gần Mẹ Thiên Chúa hơn.
Các Tin Mừng ít đề cập tới Maria. Ngài hoàn toàn vắng mặt trong những giai
đoạn cuộc đời quan trọng của đức Giê-su, hoặc nếu có, thì cũng xuất hiện dưới
dáng tiêu cực hoặc chẳng phải là một người mẹ đáng yêu.
Đúng là truyền thống tin mừng không
quan tâm gì tới Maria. Mẹ hầu như chẳng có vai trò gì trong Mát-thêu. Trong
Mát-thêu, thời niên thiếu của đức Giê-su gắn liền với cha Giu-se. Lúc này đây
tôi có thể nói, rõ ràng người ta đã muốn tránh nói tới Mẹ, bao lâu Mẹ còn sống.
Và cả chính Mẹ cũng muốn giữ kín đáo.
Đức Giê-su kiến tạo một gia đình mới,
và ở đâu người ta ca tụng bà mẹ nào đã cưu mang Ngài và vú nào đã cho Ngài bú,
thì Ngài liền sửa ngay cái hình ảnh lúc đó về quan hệ gia đình. Đối với Ngài,
quan trọng là: “Phúc thay những ai nghe và tuân giữ lời Chúa”. Đó là tính chất
mới về gia đình và về người mẹ. Ngài diễn tả như vầy: Ai làm theo í của tôi, là
anh em, mẹ, chị em tôi. Như vậy, Ngài nâng khái niệm gia đình mà con người vẫn
hiểu lên thành một loại gia đình lớn mới, gia đình cộng đoàn trong í muốn Thiên
Chúa, và đó là điểm quan trọng. Lu-ca cho ta hay về chuyện cải chính trên,
nhưng ngài đã nối sự việc đó một cách văn hoa với cuộc đời niên thiếu của đức
Giê-su và với câu chuyện gặp gỡ bà Ê-li-sa-bet. Trong Lu-ca, Maria xuất hiện
không những như một người mẹ xác phàm, mà cả như một người lắng nghe, một kẻ
tin, một kẻ đứng trong cộng đoàn của Chúa. Theo Lu-ca, Mẹ là điển hình của
những ai lắng nghe và tuân giữ lời Chúa.
Đức Giê-su có nhiều tình cảm và gần gũi hơn với những phụ nữ khác. Còn đối
với mẹ mình thì Ngài nhiều khi tỏ ra cộc cằn. Chẳng hạn trong tiệc cưới Ca-na,
khi mẹ yêu cầu phải làm gì để giúp người ta có đủ rượu cho khách, Ngài đã thô
lỗ: “Này bà, có chi liên quan tới tôi và bà đâu!” Có thật Ngài đã xử tệ với mẹ
như thế không? Có lẽ đôi lúc Ngài đã cắt đứt liên hệ với mẹ mình?
Anh đang đề cập tới một đoạn trong Tin
Mừng Gio-an. Thánh Gio-an đưa ra một môn Maria học hoàn toàn đặc biệt. Trong
bản Tin Mừng xuất hiện tương đối trễ này vai trò của Mẹ đã được diễn đạt rõ
hơn, không như trong Mat-thêu. Chẳng hạn, bất cứ chỗ nào đức Giê-su nói với Mẹ,
Gio-an đều dùng từ “Bà”. Ta có thể nhìn ra í nghĩa thần học trong từ xưng hô
đó. Bởi vì, nếu giờ đây Maria đơn thuần được gọi là “bà” (gynae), nếu từ tiệc
cưới Ca-na cho tới núi Sọ Maria cũng bước vào một vai trò vượt lên trên vai trò
cá nhân, thì hình ảnh của Eva mới đã sáng tỏ. Ta phải đọc các màn / cảnh trong
mối liên hệ chung của chúng, trong trường hợp này là cảnh thánh giá núi Sọ với
cảnh tiệc cưới Ca-na, để thấy rằng, thoạt tiên đức Giê-su bước ra khỏi gia đình
Ngài, cho tới khi một gia đình mới xuất hiện trong giờ của Ngài – trên thánh
giá -, và trong gia đình mới này Maria có một vị trí mới quan trọng.
Nhưng cả trong Ca-na, câu nói xem ra
thô lỗ và mang vẻ từ chối kia cũng rất nhiều nghĩa. Với lời đó, đức Giê-su muốn
nói là Ngài bị trói buộc bởi giờ của Ngài. Có thể nói, Ngài không thể ưu tiên
thoả mãn những nhu cầu gia đình được. Nhưng dù vậy, Ngài đã làm phép lạ và có
thể nói đã hé lộ ra trước giờ của Ngài vì lời yêu cầu của Mẹ. Thoạt tiên bị từ
chối, có nghĩa là Maria chỉ được trả lại chỗ cũ của mình – và rồi lúc này đây,
Mẹ đồng thời lại xuất hiện như một phụ nữ đơn thuần, như là nguyên ảnh của Giáo
hội khẩn cầu, và rồi Giáo hội, cũng như chính Maria, có thể xin tham dự trước
giờ của đức Ki-tô. Như vậy, đây là một bản văn rất sâu xa, người ta có thể còn
suy nghĩ và nói nhiều về nó.
Hãy tạm rời tầng thần học cao sâu trở về với thực tại, tôi muốn nhắc lại
một kinh nghiệm gặp được qua hình ảnh Maria. Có lần tôi tới thăm điểm hành
hương Altötting ở Bayern. Trời lạnh, rảo qua công trường rộng, tôi bước vào căn
Nhà Nguyện Ơn Lành nổi tiếng. Căn phòng chật cứng. Tứ phía đều có nến cháy,
khung cảnh hơi âm u. Trong nhà nguyện toàn chỉ các bà. Họ cầu chung với nhau,
và dĩ nhiên hát với nhau những bài ngọt ngào về đức Mẹ, như Ave Maria, Mater
misericordiae, Ôi nữ vương thiên đàng, Mẹ nhân ái.
Thoạt tiên tôi cảm thấy hơi xa lạ và giữ khoảng cách, nhưng những bài hát
dễ thương quá: “Chúng con khóc lóc kêu cầu danh Mẹ từ thung lũng nước mắt”. Và
lạ lùng thay, bổng nhiên tôi cảm thông được với các bà. Có một cái gì rất thật,
rất đẹp, tôi như bắt gặp được một chìa khoá mở tung tim mình ra để cảm giác
hạnh phúc tràn vào. Có một cái gì như sức mạnh cứu độ toát ra từ những lời kinh
cầu cổ xưa. Những cảm giác đẹp đó nói cho tôi hay là tôi không cô đơn, có ai đó
đang ở bên tôi, người đó biết tôi, người đó mến tôi, người đó hiểu tôi. Và
trong mọi tình huống khó khăn, người đó luôn ở bên tôi.
Tóm lại, tôi có cảm giác đó là một thứ ngôn ngữ không những trực tiếp đánh
đúng vào chỗ yếu của mình, mà đồng thời, như người ta nói, có sức cứu độ. Và có
lẽ việc tôn kính Maria cũng là một phản ứng chống lại cái tiến trình tục hoá
trong Giáo hội, với khuynh hướng muốn vứt hay đã vứt đi rồi một phần lớn khía
cạnh linh thánh và thần bí của đức tin. Phải chăng đây là thái độ và hành động
của những con người đơn sơ chống lại thứ tôn giáo của các vị giáo sư?
Tôi tin mình có thể nói được như thế.
Hình ảnh Maria đã làm trái tim con người xúc động một cách đặc biệt. Không
những đánh động trái tim phụ nữ, là những người hiểu và gần gũi Mẹ hơn, mà còn
cả trái tim của những ông còn giữ cho mình hình ảnh về Mẹ và đức Trinh nữ. Môn
thánh mẫu học đã tạo nên tiếng nói con tim của thế giới ki-tô giáo. Ở đây, con
người có thể cảm nghiệm một cách trực tiếp Ki-tô giáo như là một tôn giáo của
lòng tin, lòng cậy. Và những lời kinh cổ, đơn giản kia, những lời lớn lên từ
lòng sùng kính dân gian và không bao giờ mất tính chất tươi mát và lỗi thời, đã
giữ con người ở lại trong niềm tin của họ, bởi vì nhờ những lời kinh gắn bó với
đức Mẹ mà họ cảm thấy gần gũi với Chúa, họ cảm thấy đạo không phải là một gánh
nặng, nhưng đạo là tin cậy và đỡ nâng giúp họ vượt qua mọi chông gai cuộc sống.
Và ta cũng hãy nghĩ tới những lời kinh khác, chẳng hạn “Mẹ rất nhân ái, hãy
nâng đỡ con”, nó gợi lên bao nhiêu là tín thác.
Thật ra, mặt khác, cũng có một thứ chủ
nghĩa tinh lọc Ki-tô giáo, một thứ hữu lí hoá đã làm cho đạo bị đôi chút đông
lạnh. Dĩ nhiên tình cảm luôn cần phải được kiểm soát và thanh lọc - ở đây ta
cần phải công nhận vai trò của các giáo sư. Không được để cho mọi chuyện biến
thành chỉ còn là tình cảm sướt mướt, khiến ta mất nền thực tế, làm cho ta không
còn nhận ra được cái cao cả của Chúa nữa. Nhưng từ thời Ánh sáng trở đi – ngày
nay ta cũng lại đang ở trong một thời Ánh sáng mới - ta chứng kiến một tiến
trình hữu lí hoá và tinh lọc rất mạnh, khiến cho tâm con người phải chống lại
nó và bám chặt vào thánh mẫu học.
Vị hồng i vĩ đại người Anh John Henry Newman*
viết: “Người không công giáo có thói quen coi việc tôn kính Maria có hại cho
đức Giê-su”. Và ngày nay những người hoài nghi cũng xem việc tôn sùng Maria một
cách quá đà khiến cho tâm điểm nền tảng của đạo, nghĩa là chính sứ điệp của đức
Ki-tô, bị lu mờ.
Ta không được phép quên điều này:
Trong quá trình truyền giáo, Mẹ là khuôn mặt đánh động con người nhất và giúp
họ hiểu được Chúa Ki-tô. Điều này đặc biệt đúng cho Nam Mĩ. Nơi đây Ki-tô giáo
đã tới bằng gươm giáo của người Tây-ban-nha và có lúc vô cùng nghiệt ngã. Ở
Mễ-tây-cơ, thoạt tiên Ki-tô giáo đã chẳng làm được gì – cho tới khi xẩy ra biến
cố Guadeloupe, và qua Mẹ mà bỗng chốc người ta tới gần được với Chúa Con.
Biến cố đó là việc gặp được tượng đức Mẹ một cách lạ lùng. Người ta có thể
nói, biến cố đó đã tạo nên một trang sử tuyệt đối mới, nếu không có nó thì việc
truyền bá Ki-tô giáo trên lục địa này đã không thể xẩy ra.
Đúng, và bỗng chốc đạo Chúa không còn
mang khuôn mặt hung ác của những tay thực dân nữa, mà là khuôn mặt dịu dàng của
Mẹ.
Cho tới ngày hôm nay, ở Nam Mĩ có hai
điểm sùng mộ: Yêu đức Mẹ và việc đồng hoá với Chúa Ki-tô chịu đau khổ. Đức tin
của họ biểu tỏ qua hai khuôn dạng đó, và nhờ đó họ không còn xem Thiên Chúa là
Chúa của những kẻ xâm lăng, nhưng là Thiên Chúa thật và cũng là đấng cứu độ. Vì
thế đặc biệt dân công giáo ở châu Mĩ la-tinh rất trân quý đức Mẹ. Và ta không
nên đứng từ quan điểm thuần lí của ta mà chê bai họ đã làm sai lệch Ki-tô giáo.
Chính chỗ này họ đã nhận ra đúng đắn: Thiên Chúa là đấng muốn cứu độ ta, chứ
không phải là Chúa của những người chiếm đóng. Nhờ vậy, họ đã có thể trở thành
ki-tô hữu qua quá trình thấy và hiểu của chính họ, chứ không phải là phải chấp
nhận chịu đựng đạo của kẻ xâm lăng.
Người tin lành xem ra từ lâu đã đẩy được đức Mẹ ra khỏi niềm tin của họ. Mẹ
không còn quê hương nơi họ nữa, cho dù chính Luther trước đây chưa bao giò bỏ
lòng tôn sùng đức Mẹ của ông. Đối với Giáo hội công giáo, huyền thoại Maria
chẳng phải là trò ảo thuật mà cũng chẳng phải là chuyện bên lề. Chính ngài đã
thuộc vào cốt lõi của đức tin. Các bí mật của ngài còn được đóng ấn tín điều
như là những sự thật không hề sai.
Phải nói thêm về chữ huyền thoại. Nếu
nó muốn ám chỉ một chuyện vượt trên sự kiện thực tế, thì ta có thể dùng từ đó.
Vấn đề quan trọng ở đây là ta đang có một câu chuyện thật, chứ chẳng phải là
chuyện bịa đặt nào cả.
Một ghi chú về người tin lành: Đúng là
đã có một khuynh hướng tinh lọc nơi họ. Ban đầu, người ta sợ rằng đức Mẹ có thể
lấy mất đi một chút gì đó nơi đức Giê-su. Và trong quá trình thanh lọc đó quan
điểm “duy Ki-tô” đã dần trở nên quá khích đến nỗi người ta tin là có một tương
quan cạnh tranh giữa hai vị, thay vì nhận ra rằng, qua khuôn mặt Mẹ, chính
khuôn mặt của đức Ki-tô hiện ra và lời đích thực của Ngài được sáng tỏ, như ta
đã thấy qua thí dụ ở Nam Mĩ.
Ngày nay, có những nỗ lực dè dặt tìm
về lại với mẹ Maria nơi người tin lành. Họ nhận ra việc xoá yếu tố nữ ra khỏi
sứ điệp ki-tô cũng là một thiếu sót về mặt nhân chủng. Một người nữ hiện diện
nơi tâm điểm Ki-tô giáo, xét về mặt thần học và nhân chủng học, là điều quan
trọng. Qua Maria và các thánh nữ khác, yếu tố nữ đã đi vào tâm của đạo Ki-tô.
Chẳng có chuyện cạnh tranh giữa hai khuôn mặt mẹ con, vì hai vị khác nhau trên
nền tàng. Đức Giê-su đã trao Mẹ cho tất cả chúng ta qua Gio-an. Không phải cạnh
tranh, nhưng là một thứ gần gũi sâu xa hơn. Đức Mẹ và đức Trinh nữ có chỗ đứng
quan trọng trong nhân sinh quan ki-tô giáo.
* Nestorius ( ? – 451): Chủ trương đức Giê-su chỉ là một người đã được tiền định mang thiên tính (Ngôi Lời) trong mình (nghĩa là Ngôi Lời và Giê-su là hai thực thể riêng). Như vậy đức Maria chỉ là mẹ của con người Giê-su Ki-tô, chứ không phải là mẹ Thiên Chúa.
* Wolfgang Amadeus Mozart (1756 – 1791): Nhạc sĩ sáng tác thiên tài người Áo, bắt đầu học chơi vĩ cầm và dương cầm, cũng như bắt đầu tập sáng tác lúc 6 tuổi.
* Gioachino Rossini (1792 – 1868): Sáng tác gia nhạc kịch người Í.
* John Henry Newmann (1801 – 1890): Nhà thần học tin lành, người Anh, sau trở lại công giáo làm linh mục và hồng i. Đề tài nghiên cứu chính của ngài là lương tâm. Quan điểm đại kết của ngài ảnh hưởng trên công đồng Vatican II.