THIÊN CHÚA và TRẦN THẾ
Joseph
Ratzinger
Biển-đức
XVI.
Thiên Chúa và
Trần Thế
Tin và Sống
trong thời đại ngày nay
Trao đổi với Peter
Seewald
Phạm Hồng-Lam
chuyển ra Việt ngữ
CHƯƠNG II
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ
11. SỰ THẬT (tiếp)
LẠY CHA CHÚNG CON
„Kinh Lạy Cha“ là lời cầu duy nhất đức Ki-tô đã dạy cho môn đệ, và từ 2000
năm nay, kinh này là phần không thể thiếu trong thánh lễ. Kinh này – cũng như
kinh tin kính, như các bộ tộc Is-ra-en, như số các tông đồ và số hình sao trên
trời – có tất cả 12 câu. Và 12 câu này lại gồm đúng 7 lời cầu. Hẳn phải có một
bí ẩn lớn trong đó?
Có phải gồm 12 câu hay không, tôi
không biết. Và trong bản bằng tiếng Hi-lạp cũng có số câu như vậy hay không,
lại là một chuyện khác nữa. Nếu quả như vậy, thì đây là một cấu trúc khá đặc
biệt. Ta có hai kinh Lạy Cha, một theo Lu-ca và một theo Mát-thêu. Quả thật
hay, khi toàn bộ nội dung và thứ tự mong ước được gói trọn trong bảy lời cầu,
và mỗi chữ đều mang một í nghĩa sâu xa.
Chỉ một từ Cha mà thôi, nói lên tương quan cha – con giữa Chúa và ta, đã đầy
ắp í nghĩa rồi. Từ chúng con cũng
quan trọng không kém. Con cái Chúa không phải là „con“ đơn lẻ, mà là „chúng
con“. Như thế, cấu trúc lời kinh đó chứa đựng một kho tàng, mà í nghĩa chỉ được
khám phá dần dần qua bao nhiêu thế kỉ.
Kinh Lạy Cha chẳng bao giờ trở nên cổ hủ…
Không biết có bao nhiêu tác giả đã
viết về kinh đó, vì mỗi người có một cảm nhận riêng. Vì thế, cũng như lời Chúa
và kinh Tin kính, kinh này một mặt mang một hình thù bất biến, nhưng mặt khác
nó luôn mới, vì là nguồn cho những cảm nghiệm bất tận, nó luôn đẩy ta đi tới.
Ta không bị trói vào quá khứ cứng đơ, nhưng kinh Lạy Cha là một vùng đất đầy
khám phá, trong đó chính mỗi người cũng có thể tìm ra cho mình những điều mới.
Tại sao Giáo hội cầu kinh đó hàng ngày trong thánh lễ? Phải chăng vì đó là
lời kinh do đức Ki-tô dạy?
Có lẽ chỉ một lí do đó thôi cũng đã đủ
rồi. Đó là lời kinh nguồn cội, mà ta cùng đức Ki-tô cầu nguyện nhiều nhất và
đúng đắn nhất. Đại giáo chủ Grê-gô-ri-ô viết trong một lá thư, kinh Lạy Cha
trong thánh lễ mang tầm quan trọng nền tảng, vì rốt cuộc đó là kinh do chính
đức Ki-tô dạy. Ngài nói thêm, kinh đó cao trọng hơn bất cứ một kinh nào do con
người lập, và cũng quan trọng hơn những lời kinh phụng vụ.
Một chỗ trong kinh Lạy Cha: “và đừng dẫn chúng con vào chước cám dỗ”. Tại
sao một Thiên Chúa nhân từ lại muốn cho chúng ta sa chước cám dỗ? Có phải đây
là một lỗi dịch thuật? Sư huynh Roger, người sáng lập phong trào Taizé, một
cộng đoàn đại kết ở Pháp, đề nghị nên cầu như vầy: “và đừng để chúng con sa
chước cám dỗ”.
Người ta đã thắc mắc nhiều về chuyện
trên. Tôi biết, thủ tướng Đức Adenauer đã ép hồng i Frings phải xét lại câu đó.
Chúng tôi vẫn luôn nhận được thư đề nghị nên đổi theo hướng trên. Dịch đúng chữ
phải là “đừng dẫn chúng con vào chước cám dỗ”. Đâu là í nghĩa của câu này?
Những người cầu xin biết rằng Chúa
chẳng ép mình vào đường xấu. Ở đây, có thể nói họ khẩn cầu Ngài đi với họ trong
cơn cám dỗ. Thư thánh Gia-cô-bê nói rõ, Thiên Chúa trắng ngần không một vết nhơ
chẳng cám dỗ ai cả. Nhưng Chúa có thể thử thách chúng ta – như trường hợp
Ab-ra-ham - để chúng ta trưởng thành hơn, để chúng ta đối diện với hố thẳm của
mình, và để rồi lại đưa ta về bên Ngài. Như vậy, chữ “cám dỗ” cũng có nhiều
tầng í nghĩa. Rõ ràng Chúa chẳng bao giờ dẫn ta vào đường xấu. Nhưng có thể
Ngài không cất đi khỏi ta những cám dỗ, Ngài muốn giúp và dẫn ta, như đã nói,
qua thử thách.
Ta cầu Ngài đừng để ta sa chước cám
dỗ, đừng để ta đi vào đường xấu, đừng thử thách ta quá sức; cầu Ngài ra tay
giúp đỡ sự yếu hèn của ta, để ta khỏi mất Ngài.
Nghĩa là vẫn để nguyên câu đó?
Theo tôi nên để nguyên. Mà cũng không
có việc nghiêm cấm chuyện dịch theo các lời đề nghị như kiểu của sư huynh Roger
Schütz. Tuy nhiên, theo tôi, vì lòng khiêm tốn, cứ để nguyên như vậy và gắng đi
vào chiều sâu của lời kinh thì tốt hơn.
NGUYÊN TẮC
CHA – CON
“Không ai biết Con hơn Cha, và không ai biết
Cha hơn Con”, thánh sử Mat-thêu viết như thế. Rõ ràng tính cách Cha của Thiên
Chúa cũng giống như một thứ chìa khoá giúp ta hiểu về các thế hệ hoặc về sự trở
thành và sự qua đi. Các tông đồ bảo Chúa Cha là “nguồn và cùng đích mọi sự”,
chỉ có trong Ngài ta mới hiểu được chính mình. Phải chăng quan hệ này, một cách
nào đó, đã được khắc sâu vào cuộc sống như một nguyên tắc?
Trước hết, điều có lẽ quan trọng với
tôi, là phải làm sao nêu bật lên nét đặc thù của quan hệ Cha – Con thật đặc
biệt này. Câu “không ai biết Cha ngoài Con, không ai biết Con ngoài Cha” trước
hết nói lên một quy luật nhận thức tổng quát. Câu đó có í nói rằng chỉ có những
gì giống nhau mới nhận ra nhau. Không thể nhận ra Chúa, nếu không có sự tương
đồng nội tâm với Ngài. Thật ra, chỉ có Chúa mới có thể nhận ra Ngài mà thôi.
Con người được phép nhận ra Chúa, chỉ khi họ được Chúa đưa vào một quan hệ thân
thuộc với Ngài, và khi nơi con người có được nhiều tương đồng với Ngài giúp họ
có thể nhận ra Ngài. Và đức Giê-su nói tiếp: “Không ai có thể nhận ra, ngoài kẻ
mà Cha muốn mạc khải cho”. Nói cách khác: Nhận thức chỉ xẩy ra khi cả hai đều
muốn.
Phải chăng quan hệ Cha – Con [của Chúa] cũng không phải là một mối liên hệ
tiêu biểu cho cuộc sống con người?
Có thể nói được đó là một quan hệ tiêu
biểu. Trước hết, đó chỉ là một thứ khung ngôn ngữ và suy tư, một chút hé mở từ
xa nhằm giúp ta hiểu được một chút về Thiên Chúa – mà vẫn luôn biết rằng, như
công đồng Laterano thứ 4 nói, giữa ta với Chúa cái khác nhiều hơn gấp bội lần
tất cả những cái giống. Nhưng mặt khác, có lẽ không thể dùng quan hệ Cha – Con
làm hình ảnh tương đồng giúp ta hiểu từ xa cái bí ẩn bên trong của Chúa, nếu
như trong quan hệ đó không ẩn chứa một vết tích nào của Thiên Chúa. Quan hệ Cha
– Con đặc biệt này là một mối quan hệ uyên nguyên của con người. Đây là một
quan hệ cho đi, nhận vào và trao trả lại. Nếu ta bắt đầu từ đây cứ triết lí
tiếp, tất nhiên ta sẽ đề cập tới toàn bộ câu hỏi về gia đình nhân loại, và như
thế chắc chắn ta sẽ gặp phải giới hạn. Nhưng đúng là ngón trỏ bàn tay ta có thể
vươn lên trời được bao nhiêu, thì quan hệ rất đặc biệt kia cũng vươn xa được
tới đó.
Thời đại tân tiến ngày nay đang gặp khủng hoảng về vai trò làm cha. Một khi
vai trò làm cha mất, í niệm quyền uy cũng đổ theo. Và xem ra một số lớn kiến
thức cũ cũng mất hoặc bị gạt bỏ đi một cách oan uổng. Xem ra, một cách nào đó,
người ta không còn dễ dàng tin vào những gì lưu truyền. Làm như thế, nói một
cách bóng bẩy, là người ta hất luôn cả đứa con khi đổ chậu nước tắm.
Lời xưa có viết, Thiên Chúa đã trao cho các bậc làm cha một sứ mạng. Và quả
thật, xưa nay việc chuyển tiếp gia sản đã diễn ra trong quan hệ cha con; việc
chuyển tiếp này hầu như luôn là một diễn tiến căng thẳng, một cuộc chiến đấu,
trong đó một phía phải được thuần hoá và được lãnh đạo, trong đó cần có phản
kháng để mới lớn lên được.
Nhà tâm lí Erich Fromm đã có lần phân biệt tình cha và tình mẹ như thế này:
Tình mẹ, theo ông, là đương nhiên. Tình đó được trao tặng cho người khác. Nó
gần như là một thứ tình đui mù. Và tình này không đòi hỏi một bổn phận luân lí
nào. Tình cha, trái lại, là một tình yêu có điều kiện. Đó là một tình yêu người
ta có thể sinh lợi cho mình, nếu họ cố gắng sống theo quy luật.
Đó là những vấn nạn thâm sâu về mặt
nhân chủng. Việc chuyển tiếp đời sống, khôn ngoan và kinh nghiệm xẩy ra như thế
nào? Những quan hệ nguồn cội giữa cha mẹ và con cái, giữa cha với con trai,
giữa mẹ với con gái hệ tại ở đâu? Chúng nói cho ta biết cái gì về bí ẩn Thiên
Chúa, cái gì không? Trước hết, một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh rằng, có một
chuỗi bất tận cái không giống trong tương quan giữa ta với Chúa, rằng có cái
giống nhưng lại xuất hiện hoàn toàn khác, và vì vậy ta phải vô cùng thận trọng
trong việc dùng các hình ảnh tương đồng và trong những ứng dụng. Càng hiểu về
con người, về quan hệ cha với con trai, về tương quan mẹ với con, ta càng nhờ
đó có thể hiểu thêm chút gì về Thiên Chúa. Chẳng hạn như ta sẽ hiểu rằng Thiên
Chúa cũng có một mối tình mẹ con với ta, cho dù – như đã nói – ta không dùng
chữ “mẹ” đối với Ngài trong lời cầu kinh.
Về quan điểm của Erich Fromm mà tôi
quả không biết, tôi thấy rất hay và đáng suy gẫm. Nhưng phải nói ngay, tôi
không đồng í với tất cả những điều anh nêu. Tôi nghĩ rằng tình mẹ trước hết là
một mối tình tự nhiên - là vì bà mang con trong lòng, đó là máu thịt của bà -,
nhưng đó không chỉ là sự thiết thân hay tình yêu do quy luật sinh lí mà thôi.
Bà còn có trách nhiệm cung cấp cho con mình cả thể lí lẫn tình yêu để nó có thể
thành người.
Tôi tin rằng trong đó đã có sẵn một
yêu sách đạo đức rồi. Làm mẹ chẳng bao giờ chỉ là một diễn tiến thuần sinh lí,
nhưng đó cũng là một diễn tiến tinh thần.
Mẹ mang con trong lòng, sinh nó ra và phải trải qua một quá trình cọ xát
tinh thần với con. Đây là một quá trình có sự
tham gia toàn bộ con người của mẹ.
Quan hệ giữa cha và con trai rõ ràng
khác và rắc rối hơn. Một nhà thần học đã nói, ngày nay ta phải thay chuyện
người con đi hoang bằng chuyện các người cha đi hoang. Cha thường bỏ hết thì
giờ cho nghề nghiệp và công việc, hơn là để í tới con, thường nghĩ tới năng
xuất nhiều hơn là nghĩ tới tặng phẩm Trời cho và tới những bổn phận mình phải
có đối với tặng phẩm đó. Nhưng mất vai trò cha cũng có nghĩa là con bị thiệt
hại. Nhìn vào các thần thoại ngoại giáo, chẳng hạn trong câu chuyện về thần
Zeus, ta thấy quan hệ ở đây được trình bày như là bất thường, bất nhất và độc
đoán: Người cha ở đây tuy có sức mạnh và uy quyền, nhưng thiếu trách nhiệm cần
thiết, ông dùng quyền nhiều hơn lí và tình. Còn người cha trong Cựu Ước thì
khác hẳn, nhất là người cha trong dụ ngôn của đức Giê-su lại càng khác: Ở đây
có sự đồng cân giữa quyền và trách nhiệm, vừa có lí có tình, quan hệ đặt trên
niềm tin chứ không trên sợ hãi. Thiên Chúa là cha có nghĩa là Ngài hướng đến
ta, đón nhận ta vào lòng Ngài, khiến ta có thể lấy tình yêu con cái mà đối xử
với Ngài. Thiên Chúa là cha có nghĩa là Ngài đề ra khuôn thước và cũng sửa phạt
ta một cách khắt khe, nhưng khắt khe đó đồng nghĩa với yêu thương và luôn đặt
nền trên tha thứ. Câu chuyện người con đi hoang trong Tân Ước qua lời kể của
đức Giê-su có lẽ cũng là một hình ảnh đánh động nhất về tư cách làm cha của
Thiên Chúa.
Câu chuyện đó, như vậy, trở thành
khuôn thước cho vai trò làm cha của ta, để ta tu chỉnh theo nó. Hình ảnh Thiên
Chúa là Cha trong Kinh Thánh không phải là để cho ta phóng chiếu nhìn lên,
nhưng ngược lại: Từ trên cao Ngài nói xuống cho ta biết vai trò làm cha thật sự
ra sao, và ta có thể và nên đóng vai trò đó như thế nào với nhau.