HOÀN CẢNH MỚI VÀ HƯỚNG ĐI ĐANG HÌNH THÀNH (www.giaolyductin.net/ 07/08/11, 12:11 pm)

(Trích TRẦN VĂN TOÀN (Lambersart), Thần học sau Công Đồng Vatican II (1963-1965). Chuyển biến và tác động của nó trong đời sống Kitô hữu ở châu Âu, đăng trong Hiệp thông. Bản tin của HĐGMVN, số 63 (tháng 1 & 2 năm 2011, trang 162-197).

Những hoàn cảnh mới mà Công đồng chưa biết tới

Công đồng bế mạc được ba năm thì ở Âu Mỹ có cuộc cách mệnh văn hóa: năm 1968, thanh niên, nhất là trong giới sinhviên, đứng lên phản đối các thứ uy quyền.

Vẫn biết là uy quyền của Giáo Hội ở Pháp thì đã mất dần từ khi có Cách Mệnh Pháp năm 1789. Xã hội dân sự thì thành ra thế tục hóa, và đến năm 1905 thì nhà nước và Giáo Hội được tách rời ra như hai thực tế biệt lập: ở Pháp cũng như ở nhiều nước Âu châu thì không còn có quốc giáo, như hiện có trong nhiều nước khác, nhất là trong các nước theo Hồi giáo, hay là như có một số người đó đây vẫn đang mơ ước.

Nhưng nay thì cả uy quyền của nhà nước cũng bị sút giảm, lớp người làm thầy dậy học, kể cả ở cấp đại học, cũng mất uy quyền. Tất cả các uy quyền đều bị hạ bệ, các định chế thì bị nghi kỵ là áp chế tự do cá nhân. Cho đến nay xã hội Âu châu vẫn còn tìm tiêu chuẩn pháp lý và đạo đức rõ rệt để người ta có thể chung sống với nhau. Đó là một kinh nghiệm đã đánh mạnh vào tâm tư vị giáo sư Joseph Ratzinger, hiện nay là Đức Giáo Hoàng Biển Đức thứ XVI. Mất uy quyền rồi thì từ nay ai nấy phải tìm gây lại uy tín nhờ vào sở trường và vào cách ăn ở của mình mà thôi.

Thêm vào đó thì công giáo lại bị khủng hoảng nội bộ: một số khá đông linh mục cũng hồi tục. Từ nay số chủng sinh học tập làm linh mục, số người vào nhà tập của các nhà dòng nam nữ cũng đều xuống dốc. Do đó các chủng viện và nhà tập để trống đã được đổi thành những trung tâm tổ chức những khóa hội thảo, những lớp huấn luyện thích thời (hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa) về Thánh Kinh, giáo lý, về việc đối thoại giữa các tôn giáo. Những trung tâm đó ngày nay do giáo dân đảm nhiệm, có linh mục hay thầy dòng làm cố vấn về tôn giáo, và hoạt động có kết quả, thu hút được nhiều người đến học hỏi.

Từ mấy chục năm nay ở Pháp, tôi nhận thấy rằng đại đa số các chủng sinh đều vào nhà trường muộn, sau khi họ đã có nghề nghiệp làm ăn, hay là đã có bằng cấp đại học. Họ muốn làm linh mục không phải là vì ở ngoài đời họ không làm được nghề ngỗng gì. Tôi biết có người đã làm kỹ sư có lương cao, khi nghe tiếng Chúa gọi, họ biết rõ là họ sẽ chỉ sống bằng đồng lương tối thiểu, do một thiểu số người công giáo đóng góp cung cấp mà thôi, nhưng họ vẫn quyết định. Trong hoàn cảnh như thế, những người có chí thì càng có ý thức hơn.

Từ nay những người có ăn học, biết tự lập và ý thức được tự do như thế, không phải là hạng người bảo sao nghe vậy, không phải là đầy tớ để sai vặt. Muốn bảo được giáo dân, hàng giáo sĩ phải có uy tín, muốn bảo được các linh mục thời nay, hàng giám mục cũng phải có uy tín. Có uy tín mới thuyết phục được những con người tự do. Vì thế việc truyền đạo đang chuyển sang hướng mới.

Cũng nên chú ý là: chính vì tình trạng văn hóa Âu Mỹ: 1) đã phân biệt tôn giáo với các phạm vi thế tục khác, 2) đã đề cao tự do và trách nhiệm của cá nhân, 3) đã duy lý về mặt tư tưởng và 4) duy nghiệm về mặt thực hành, cho nên đòi phải có lối tư giáo mới như thế. Chứ ở những nước mà tôn giáo vẫn còn lẫn lộn với văn hóa và chính trị, người dân chưa ý thức được tự do, chưa tự lập về mặt suy tư, thì xã hội, tập tục và người cầm quyền định đoạt về tất cả nếp sống cũng như về tôn giáo, về quốc giáo.

Hướng đi đang thành hình

Hướng đi mới đã manh nha từ lâu, do sáng kiến của nhiều người có lòng ưu tư về đạo Chúa. Từ hơn mười năm nay nhiều giáo phận, như Tournai (Bỉ), Poitiers (Pháp), v.v. đã thí nghiệm hướng đi mới. Ở trong cùng một hoàn cảnh, cùng có một tinh thần phục vụ, lại cùng do một thần khí của Chúa hướng dẫn, cho nên những sáng kiến song song với nhau, dần dần sát cánh nhau và vạch ra một lối đi chung. Lối đi chung này đã được đem ra thí nghiệm ở nhiều nơi, nhưng về mặt lý thuyết thì cũng mới được trình bầy một cách tổng quát, có mạch lạc, trong hai cuốn sách bằng Pháp văn, viết tập thể, gồm nhiều tác giả người Bỉ, Pháp và Canada, do Philippe Bacq và Christoph Theobald chủ trương, dưới một cụm từ còn mới mẻ là “pastorale d’engendrement”. Trong công việc này các cha dòng Tên (Jésuites) đóng vai trò quan trọng, vì một là có liên hệ chặt chẽ với Viện nghiên cứu về phương pháp dạy giáo lý Lumen vitae (Bruxelles, Bỉ) của dòng Tên, hai là cha dòng Tên, Christoph Theobald, mới cho xuất bản về hướng đi mới một cuốn sách lý thuyết gồm hai tập.

Lối đi này vừa là hội nhập văn hóa, đi vào văn hóa mới, lại vừa là trở về nguồn đã có trong Phúc âm. Tôi xin giới thiệu, nhưng không thể trình bầy tỉ mỉ về hướng đi này, chỉ xin tóm tắt mấy điểm chủ chốt.

Một là: Nhận định lại tình thế

Thoạt nhìn vào đạo công giáo ngày nay ở Âu châu, thì thấy không có vẻ gì là khả quan. Sau Cách Mệnh Pháp và sau khi tách rời tôn giáo với chính trị, người ta không cần bám vào tôn giáo mới làm ăn nên, mới lên thang trong xã hội. Mà ngược lại thì có. Cho nên uy quyền của Giáo Hội đã mất, số người giữ đạo cũng bớt đi nhiều. Trong khi đó thì thấy nhiều tôn giáo hay Giáo Hội khác đang ồ ạt lôi cuốn quần chúng, có vẻ là rất thịnh hành, căn cứ vào một vài khẩu hiệu đơn sơ, theo phương pháp chiêu hàng ngày nay. Có điều dị biệt thật là quan trọng, nhưng ít ai để ý trong khi so sánh, là người Âu châu đã ý thức được tự do cá nhân, tự do tôn giáo: ngày nay người ta theo đạo Kitô không còn phải là vì thói quen, vì áp lực xã hội, hay là vì quyền lợi, vì danh lợi, như trường hợp ở nhiều xã hội xưa nay. Hiện nay có nhiều người biết rõ như thế, nhưng vẫn xin tòng giáo, và nhẫn nại học tập hai năm, cho nên lễ nhập đạo của họ có ý nghĩa sâu xa, chứ không còn phải như kiểu “nước đổ đầu vịt” nữa. Như vậy cũng đủ thấy Giáo Hội công giáo không phải là không còn uy tín.

Những người chủ trương lối đi mới thì nhận định rằng đây là “một cơ hội mới cho Phúc âm”, vì nó hợp với quyền tự do tôn giáo: tôn giáo không còn phải là một yếu tố mà nhà nước hay xã hội bắt buộc người ta phải theo, như các định chế hay tập quán thế tục khác. Cũng là hợp với ý của Đức Giêsu chủ trương tách rời tôn giáo với chính trị. Và cũng đúng như quan niệm của vị giáo phụ Tertullianô (thế kỷ II-III): “người ta là môn đồ của Đức Kitô không phải là do bẩm sinh, nhưng là vì đã trở thành như thế (Christiani non nascuntur, fiunt)”. Cho nên việc theo đạo là do niềm thâm tín của cá nhân, và việc truyền giáo là việc lấy nếp sống mà chứng thực, lấy lời lẽ mà thuyết phục từng người, chứ không phải là tuyên truyền ầm ĩ như chiêu hàng, để lôi cuốn từng loạt quần chúng, càng không phải là dùng áp lực bắt người dân phải theo.

Có mấy điều có vẻ đáng lo ngại, là: đạo công giáo, tuy trước đây đã định hình sâu đậm cho văn hóa Âu châu, nhưng nay cả người ngoại cuộc lẫn người trong cuộc (sécularisation interne) đều kể như là đạo đã ra ngoài văn hóa đó. Nhưng cũng phải nhận rằng những lối hội nhập trước đây đã thích thời trong văn hóa cũ, thì chưa hẳn là bây giờ còn thích thời. Vấn đề không phải là chú trọng vào những bản thống kê hiện nay về tình hình tôn giáo, theo một số tiêu chuẩn bề ngoài như xưa, rồi thất vọng trong tinh thần hoài cổ, mà không xét đến những hình thức sống đạo sâu xa của giáo dân đang nảy nở. Cho nên, nay có cơ hội mới để trở về nguồn là Phúc âm, và dùng lối mới để đưa Phúc âm vào văn hóa mới, đang đề cao con người cá nhân biết suy nghĩ, biết phê bình và định đoạt lấy cho mình.

Hai là: Xét lại con đường đã đi

Cần phải nhận định ngay là những hình thức sống đạo và truyền đạo trước đây là những nỗ lực hội nhập văn hóa đã thành công ở Âu châu.

“Gặp thời thế thế thì phải thế”. Thực vậy, từ thế kỷ V trở đi, đạo và đời hợp nhất ở Âu châu, tôn giáo không tách rời ra khỏi chính trị và văn hóa chung, cho nên người ta truyền đạt văn hóa theo lối “encadrement”, là tập cho ai nấy “vào khuôn vào phép” bề ngoài. Trong tổ chức “tư giáo” (équipe d’animation pastorale), thì khuôn phép của đạo Kitô gồm có ba yếu tố: a) một số tín điều cần phải biết, tóm tắt trong Kinh Tin Kính, và trong Sách Bổn; b) một số điều luật phải giữ trong đời sống cá nhân và trong tổ chức Giáo Hội; c) một số nghi lễ phụng tự phải cử hành cho phải phép, cho thành phép. Tất cả đều dựa vào Phúc âm, chứ không phải do ai tự tiện đặt ra. Điều thiều sót là ít ai để ý đến kinh nghiệm và niềm thâm tín của cá nhân. Tuy nhiên, cũng như trong các xã hội khác, khi đa số dân chúng còn nghèo đói và thiếu học, thì dễ tin theo tôn giáo của những người lãnh đạo, hoặc là vì họ có uy tín, hoặc là vì họ có uy quyền hay võ lực bắt buộc phải theo, cho nên người ta “vào khuôn vào phép” đã có sẵn một cách rất tự nhiên.

Khi dân trí tới mức độ cao hơn, khi cá nhân có học thức, biết suy luận và tự do định đoạt lấy cho mình, thì tất nhiên phải trình bầy tôn giáo sao cho hợp lý hợp tình. Loại văn “minh giáo” (apologétique) đã được phát triển ngay từ khi đạo được truyền vào xã hội Hy Lạp, thì lại càng thích thời. Từ Cách Mệnh Pháp trở đi, thì đạo công giáo đã phải nghĩ đến những đường lối mới để truyền đạo, nhất là để ý đến việc giáo dục thanh thiếu niên, và việc bênh vực cho lớp công nhân trong chế độ tư bản đang lên.

Sau Thế Chiến thứ II, thì đường lối “tư giáo” là đón tiếp (accueil): là phải gần gũi với người ta, tìm hiểu lối suy luận, ước vọng bên trong của những cá nhân tự do, mà không ai lấy khuôn phép bên ngoài mà bắt buộc được. Có một đường lối khiêm tốn hơn, mà tôi thấy các linh mục làm công nhân, cũng như hội dòng tiểu đệ và tiểu muội theo tinh thần Charles de Foucauld, đã dùng, là chôn vùi (enfouissement), nghĩa là làm chứng nhân sống đạo ở giữa lớp dân nghèo, một cách âm thầm như hạt giống chôn vùi trong đồng ruộng, như Đức Giêsu đã sống ở Nazareth (30 năm ở cùng Đức Mẹ), chờ ngày Chúa cho đâm hoa kết quả.

Vào năm 1996 thì Hội đồng Giám mục Pháp viết một lá thư cho giáo hữu trong đó có đưa ra phương pháp “tư giáo” mới, là đề nghị (proposition). Đề nghị tức là muốn lên tiếng, chứ không im lặng nữa. Cũng là hợp lẽ, vì không nói ra thì ai biết mình muốn gì, nhưng đối với người có tự do, thì mình chỉ có thể đề nghị niềm tin của mình mà thôi. Thế nhưng các tác giả theo hướng đi mới thì lại cho rằng như thế vẫn còn là bất cập, vì với thái độ đó, mình vẫn còn vô tình cho rằng mình ở vị trí cao hơn, có những điều muốn chia sẻ với những người không biết, mình không hỏi han đối thoại, mà đã biết sẵn câu trả lời rồi!

Ngoài ra trong thư vừa nhắc tới còn đưa ra một phương pháp nữa là đưa đường (initiation): làm sao cho xứ đạo có một nếp sống cộng đồng trong tình anh em, rồi đưa đường cho người ta tham gia vào đó, cũng như vào các lễ nghi, để dần dần kinh nghiệm được thế nào là nếp sống của đồ đệ của Đức Giêsu (Xem trong thư, trang 99-100).

Vấn đề bây giờ không phải là lôi cuốn người ta vào khuôn vào phép của tổ chức Giáo Hội, như là những hội viên vô danh, nhưng là làm cho người ta phát huy được cá tính trong khi đối thoại, trao đổi với người khác, và cùng sinh lại thành người mới. Vì thế những người chủ trương hướng đi mới muốn là phải đi ngược qua những yếu tố “khuôn phép”, để trở về nguồn, trở về những câu truyện được kể lại trong Tin Mừng Phúc Âm, có thể đem lại sinh khí cho đời người.

Ba là: Hướng đi mới

Như ai nấy đều biết, cái tình trạng mới của xã hội Âu châu bây giờ là: Tổ chức xã hội đã thế tục hóa, cho nên không còn phải là tay vịn cho tôn giáo nào cả, vì cá nhân đã tự lập, suy nghĩ và tự do định đoạt lấy cho mình về niềm tin. Trong tình trạng đa nguyên trong phạm vi tôn giáo, việc “tư giáo” không còn phải là sản xuất một loạt tín đồ giống nhau như cùng đúc theo một cái khuôn đã có sẵn.

Lối “tư giáo” theo hướng đi mới này gọi là “pastorale d’engendrement”. Chính từ ngữ tiếng Pháp dùng đây, tự nó cũng chưa rõ nghĩa. Dự định muốn đưa ra là: đối thoại, trao đổi với người khác, và cùng sinh lại thành người mới, trong niềm tin mới. Thoạt nhìn thì nó gợi cho ta hai chữ “born again” của một nhóm Giáo Hội Tin Lành phát nguồn từ miền Nam Hoa Kỳ và lan sang Nam-Mỹ và Phi-châu. Nhưng về đạo lý và về phương pháp thì khác xa, cho nên các Giáo Hội Tin Lành đã có lâu đời ở Âu châu cũng lấy làm nghi ngại, vì như đã nói trên đây, có nhiều mục sư, mỗi ông đều có thể tự tiện đứng ra  lập ra một Giáo Hội, truyền giáo ầm ĩ như trong hội chợ, theo kiểu chiêu hàng và kinh tài lối Mỹ, và lại còn hay dùng tôn giáo để làm chính trị nữa.

Tư tưởng làm nền tảng cho hướng đi mới ở đây là: phải căn cứ vào niềm tin tưởng tự nhiên mà ai sống ở đời cũng đã sẵn có, rồi mới cùng đào sâu thêm, làm cho người ta khám phá ra Tin Mừng Phúc Âm như là đã có mầm mống trong hướng mình ước vọng. Vì lẽ rằng: nếu tự nhiên mà đã không tin được những người chứng nhân mà mình trông thấy, thì làm sao có thể tin được vị Thiên Chúa mà chưa ai thấy bao giờ, nhưng chỉ nghe qua những chứng nhân mà thôi.

Ba tiêu chuẩn trong hướng đi đang thành hình

Hướng đi này được thành hình, khi người ta lấy quan điểm Phúc Âm mà nhìn vào xã hội. Vì thế có ba tiêu chuẩn cần phải liên kết với nhau: Tin Mừng Phúc âm là tiêu chuẩn chính, Giáo Hội là chứng nhân loan báo Tin Mừng, và xã hội là môi trường hành động.

Thứ nhất: Tin Mừng Phúc âm

Tin Mừng mà Thiên Chúa muốn thông báo cho mọi người đó là gì? Đó là tin rằng: xét cho cùng thì đối với mọi người cuộc đời là tốt đẹp. Thực vậy, đọc Thánh Kinh thì ta thấy là từ đầu đến cuối đều có cái nhìn lạc quan về cuộc đời. Từ đầu trong Sách Sáng Thế, ta đã thấy rằng tất cả các vật được tác tạo nên, thì Thiên Chúa đều bảo là tốt cả. Lịch sử dân Chúa có lúc thăng lúc trầm, nhưng bao giờ cũng có hy vọng tìm ra giải pháp tốt đẹp. Có lạc quan, có hy vọng, mới sống được.

Cuộc đời là tốt đẹp? Thực ra cái đó xem chừng không có gì là hiển nhiên cả: người ta có nhiều lý do để không tin như thế. Có điều là một việc xẩy ra một cách tự nhiên hay tất nhiên, thì không ai nghĩ là đáng đưa tin, ví dụ: nước Arập vừa bầu một người Arập làm quốc trưởng. Trái lại nếu nước Arập vừa bầu một người Do-thái làm quốc trưởng, thì đó là một việc rất đáng đưa tin. Kinh nghiệm của ta cho thấy là ở đời ta gặp nhiều cái không tốt, và nhà Phật, như ta biết, cũng đã tổng quát hóa kinh nghiệm hạn hẹp của tất cả chúng ta trong câu: vạn sự khổ, đời là bể khổ. Hiển nhiên quá. Nhưng xét cho cùng nếu mà cuộc đời đối với mọi người là tốt đẹp, thì đó thực là một tin đáng mừng, đáng thông báo. Có điều là khi phải chạm trán với thực tại, thì lại thấy rằng cái Tin Mừng đó rất là mong manh, rất khó tin! Lấy gì, lấy ai, mà bảo đảm được?

Tuy vậy nếu không có niềm tin, niềm hy vọng phổ thông lạc quan như thế, thì làm sao trong cõi người ta lại có những cố gắng để sống, để đối phó với bao nhiêu trở ngại? Nói cách khác, sống tức là tín cẩn vào cuộc sống, tuy biết là nó chưa hoàn hảo, vì từ khi sinh ra ta đã tín cẩn vào người khác rồi. Nếu không tin được vào ai, thì làm sao sống được, nếu không có hy vọng thì lấy đâu làm lẽ sống? Thà đi ra ngoài cuộc đời còn hơn.

Niềm tin này là niềm tin tự nhiên cần phải có để sống, nhưng chưa tất nhiên đã là niềm tin tôn giáo.

Thứ hai: cộng đồng Giáo Hội

Nói đến Tin Mừng, thì cũng phải nói có ai đưa tin. Vấn đề bao giờ cũng là: người đưa tin có đáng tin hay không?

Người đưa tin đầu tiên là Đức Giêsu Kitô. Nếu cho đến nay đạo của người còn được truyền bá, thì là vì đã có những người thấy là đáng tin, rồi truyền lại tiếp đi cho người khác. Ngoài cái nội dung Tin Mừng có thể làm cho người ta sống có ý nghĩa, thì còn có ba lý do đã làm cho người ta tín cẩn vào Người. Một là: Người có uy tín, vì nói sao làm vậy, mà không sợ lụy đến thân. Hai là: Người biết chờ cho người khác dần dần nhận ra mình là ai, vì Người thường hỏi: thiên hạ nghĩ tôi là ai? các anh nghĩ tôi là ai? Ba là: niềm tin vào Đức Giêsu không phải là từ ngoài ép vào, nhưng từ trong thâm tâm tự do của người ta mà phát ra, sau khi đã nghe báo Tin Mừng; nói cách khác, Người không tấn công từ ngoài vào để bó buộc người đuối lý phải chịu phục, nhưng đánh thức niềm tin đã có sẵn bên trong, đang mặc nhiên hướng ra ngoài về ai khác (Thiên Chúa).

Nhưng cái niềm tin ấy cũng rất là mong manh. Vì khi Người còn bình sinh, thì chỉ có một thiểu số tín cẩn vào Người, còn đa số những chức sắc về phần đạo đều không tin, lại còn cho rằng Người đáng tội tử hình. Thế rồi cái thiểu số tin như thế cũng không có bề thế vững chãi: họ không phải là chức sắc có uy tín trong đạo Do Thái, cũng không phải là vương tướng có uy quyền trong đế quốc Rôma, lại còn gặp nhiều trở ngại. Tin là dám tin, dám hy vọng. Nhưng chính cái mong manh đó là bảo đảm cho tính cách tự do của niềm tin.

Cái chuỗi người cho đến nay đã kế tiếp nhau làm chứng nhân cho cái Tin Mừng rất mong manh mà Người giảng giải, trong những hoàn cảnh lúc thuận, lúc nghịch, đó là Giáo Hội của Người. Khi người ta đọc Kinh Tin Kính thì nói lên là mình tin Giáo Hội, tin Hội Thánh, là thân thể Chúa Kitô, tức là nơi Chúa Kitô hiện hình và loan báo Tin Mừng của Người. Tuy được Chúa hứa là sẽ cho Giáo Hội được trường tồn, nhưng Giáo Hội không phải là một pháo đài cố định. Thực ra Giáo Hội gồm những chứng nhân sống trong cái thân phận mong manh, có nhiều quyến rũ, cho nên chỉ là hình thức lịch sử chưa hoàn thành, nhưng đang cố gắng mang sứ mệnh là truyền bá cái Tin Mừng, có thể gây ra cho mọi người một nếp sống có ý nghĩa, có hy vọng. Thế nghĩa là Tin Mừng đã tồn tại, qua nhân chứng của những con người mà nhiều khi “lực bất tòng tâm”, nhưng muốn chia sẻ với người khác một lối nhìn và một lối sống trong các hình thức văn hóa khác nhau.

Thứ ba: xã hội

Xã hội là môi trường sống, gồm tất cả tư tưởng, hành vi, ước vọng của người ta. Phải biết môi trường ấy là thế nào mới có thể đưa Tin Mừng cho thích hợp.

Như ta vừa thấy trước đây, trừ Đức Giêsu là người đầu tiên đưa Tin Mừng, thì những người đưa tin tiếp theo (Giáo Hội) không hoàn toàn vững tâm, vì chính cái Tin Mừng đó cũng khó tin. Chỉ biết một điều là nó hợp với hy vọng của người muốn đạt thân trong đời, vì nếu không tin, không tín cẩn được vào đâu, không hy vọng rằng dù sao đi nữa đời người cũng vẫn là tốt đẹp, thì khó mà tìm ra lý do để có can đảm đối phó với các trở ngại trong đời, nghĩa là trong cái xã hội biến chuyển mà không ai đoán trước được.

Người ta mong muốn một xã hội đại đồng, trong đó con người hòa hợp được với thiên nhiên và với người khác, nhưng cái mong muốn ấy vừa khó tin, vừa gặp nhiều trở ngại. Ví dụ nước Pháp đã nêu ra từ hơn hai thế kỷ cái khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Huynh đệ”, nhưng vẫn chưa thực hiện được nhiều, vì ai nấy đều có tính ích kỷ. Cái Tin Mừng mà đồ đệ đức Giêsu cố gắng giới thiệu là: cái ước vọng đó có thể thực hiện được, vì cuộc đời là tốt đẹp, đồng thời cũng giới thiệu quan điểm có thể giúp thực hiện, là coi mọi người là anh em, vì cùng là con của một cha chung. Vì lẽ rằng nếu không có cha chung thì cũng không có anh em. Cái hy vọng đó tự nó vẫn là mong manh, khó tin, nhưng nó không phải là ảo vọng vì có những người đáng tin đã dám tin và làm như thế.

Đi vào thực hành

Đi theo hướng mới không phải là phế bỏ tất cả ba yếu tố của khuôn phép cũ, nhưng là tương đối hóa, để trở về nguồn là Thánh Kinh nói chung và Phúc Âm nói riêng. Tương đối hóa là chấp nhận rằng có nhiều thể thức sống đạo. Những yếu tố thần học và lễ nghi nào đã thích hợp với văn hóa cũ, nhưng không hợp với tâm thức người bây giờ, thì sẽ dần dần nhường chỗ cho những sáng kiến mới, làm cho người ta sống đạo một cách thích thời hơn.

Có điều nên chú ý là: khi đi truyền đạo thì các giáo sĩ Tin Lành thường đưa sách Phúc Âm ra giảng ngay từ đầu. Ngược lại, các giáo sĩ công giáo thì mang khuôn phép đã có sẵn ra dậy, là: Sách Bổn, Sánh Kinh, Sách các phép, và ít sách nguyện gẫm. Đó là cái khuôn do người Âu châu sáng tạo ra trong văn hóa riêng của họ. Thành ra người công giáo Việt Nam trong mấy thế kỷ đã bị thiệt thòi, vì không được đọc thẳng lời Phúc Âm. Cho nên đạo công giáo ở bên ta khó tránh được một ít hình thức Tây phương. Dù sao thì trong cuộc giao lưu văn hóa, không có tôn giáo nào mà không nhận ảnh hưởng của văn hóa khác để làm giầu cho mình. Cho nên cái hình thức Âu châu, tuy là tương đối, nhưng cũng không phải là vô ích, vì nó thêm kinh nghiệm cho ta, tránh cho ta cái đầu óc hẹp hòi, làm cho ta ý thức được tính cách phổ biến của đạo Chúa.

Nếu ta nhìn vào Giáo Hội buổi sơ khai thì theo như Sách Công Vụ Tông Đồ ta thấy là sau khi Đức Giêsu khuất đi thì các đồ đệ đọc và suy gẫm Thánh Kinh, nhớ lại nếp sống của Người và được Thần Khí của Chúa giúp sức, nhưng họ phải tùy theo các biến cố bất ngờ trong xã hội chung quanh mà tìm ra đường lối hoạt động.

Đọc Thánh Kinh, đọc Phúc âm không phải là đóng cửa đọc một mình, chờ Thánh Thần hay Thần Khí của Chúa soi sáng riêng cho mình. Như thế có cái nguy hiểm là mỗi người đọc một “phách”, rồi không ai chịu nghe ai, và người ngoại cuộc sẽ có thể nghĩ rằng tôn giáo chỉ là do mỗi người tự tạo ra cho mình. Đọc ở đây là đọc trong Giáo Hội (en Église), là cùng đọc với nhiều người khác (tính cách cộng đồng), và đặt lời Tin Mừng vào trong hoàn cảnh cụ thể của mỗi người. Có thế mới nhận thức được cái âm vang của Tin Mừng trong lòng mình và trong lòng người khác. Có thế, những điều ta nói lên mới thực là do niềm thâm tín của ta, chứ không còn phải là bài học thuộc lòng mà thiên hạ tới tấp nhồi sọ cho nhau. Rồi sau đó ta phản ứng bằng lời nguyện và bằng hành động thích hợp. Có thế ta mới thực là chứng nhân, là người làm chứng cho Tin Mừng. Vì người làm chứng không phải là người nhắc lại điều đã nghe, nhưng chứng thực về điều mình đã chứng kiến hay là tin chắc.

Dĩ nhiên là có nhiều ý kiến, nhưng có trao đổi với nhau mới tương đối hóa được cái nhìn chủ quan của mình. Đồng thời cũng phải so sánh với cái nhìn và hành động của những người trong Giáo Hội đã sống trong hoàn cảnh văn hóa khác ta (tính cách lịch sử). Trao đổi về những hình ảnh và quan niệm về Thiên Chúa, về nhân sinh, và về truyền thống, làm cho ta học lẫn nhau, kèm cho nhau, để giúp nhau tự nhận ra đường lối, giúp nhau sinh lại thành người mới theo tinh thần Phúc âm. Đó là lối “tư giáo” gọi là “engendrement”. Tôi xin đề nghị tạm phiên dịch là “tương sinh”.

Có lẽ chính vì đã quá quen với lối “tư giáo” cũ, mà ta thường muốn người khác cũng tin và làm y như ta, và như thế ta truyền bá đức tin theo kiểu “đúc theo khuôn” hay là đòi phải bắt chước ta. Cần phải nhìn nhận một cách khiêm tốn là khi đi kèm cho người xin tòng giáo thì ta đánh thức niềm tin vào cuộc đời đã sẵn có, nhưng không biết trước được cái kết quả của sự cộng tác giữa Thần Khí có sức sáng tạo của Chúa và quyết định tự do của người ấy.

“Tư giáo” theo lối “tương sinh” này bắt đầu được áp dụng đó đây, không những trong khi gặp gỡ những người xin tòng giáo, mà cả trong sinh hoạt của xứ đạo nữa. Giám mục Albert Rouet, giáo phận Poitiers, đã trình bầy mười năm kinh nghiệm mới trong cuốn sách Một bộ mặt mới của Giáo Hội. Kinh nghiệm các cộng đoàn địa phương tại Poitiers. Một ví dụ khác mà tôi biết, là sau hội nghị năm 2001 của lớp người trẻ, thì tổng giáo phận Lille đã thành lập một hiệp hội gọi là Fraternités Diocésaines des Parvis, huấn luyện cho các thành phần, để cùng sống đạo theo lối “tư giáo” này. Cho đến nay đã có 5 nhóm, mỗi nhóm gồm có một linh mục vàdăm sáu người nam nữ, có người độc thân, có người có gia đình, mỗi nhóm được tòa giám mục chính thức giao cho trách nhiệm hoạt động “tư giáo” trong một xóm có nhà thờ. Lễ ngày chủ nhật thường lâu chừng một giờ rưỡi, vì có để ra thì giờ suy gẫm và trao đổi kinh nghiệm và ý kiến. Hiệp hội bắt đầu lan ra mấy giáo phận chung quanh.

Hiện nay có một việc rất đáng chú ý, đó là hội đồng các giám mục tại Rôma trong tháng 10 năm 2008, để bàn về đề tài “Lời Chúa”. Các vấn đề đã được đề cập là: chỗ đứng của các chuyên gia về Thánh Kinh, việc phiên dịch Thánh Kinh, các bài giảng trong thánh lễ. Hội đồng cũng tiếp tay với Đức Giáo Hoàng để nhấn mạnh vào ba nền tảng không thể rời nhau của đời sống của đồ đệ Chúa Giêsu, là: Lời Chúa, Lễ Đại-tạ (Eucharistia) và các việc bác ái. Hội đồng này rất quan trọng, vì nó sẽ có ảnh hưởng nhiều lên đời sống người công giáo toàn cầu.

 


Trở Về Trang Nhà