(dongten.net)
Giuse Đỗ Quang
Chính, SJ
Văn hóa gia đình Việt
Khi Tin Mừng được rao truyền ở xã hội Con Rồng
Cháu Tiên này, thì Giáo hội phải thích nghi, hay nói như ngày nay là phải hội
nhập hay hòa nhập vào xã hội Việt Nam, vào nếp sống văn hóa gia đình Việt Nam.
Ai cũng biết rằng, gia đình Việt
Dưới đây chúng tôi xin đứng về mặt lịch sử trình
bày đôi nét trong nhiều nét mà Giáo hội đã hòa nhập vào văn hóa gia đình Việt
1. Hiếu thảo với ông bà cha mẹ
Thời kỳ đầu tiên truyền giáo ở Việt
Khi giải thích về điều răn thứ bốn cho các dự
tòng, cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đã viết trong cuốn Phép giảng tám ngày, xuất bản tại Roma năm 1651: “Ấy vậy mà mlời răn thứ bốn
trong kinh đức Chúa blời […] thì dạy ta thảo kính cha mẹ cho nên […]. Lại sự
thảo kính thì hằng có bốn phần, là yêu mến, kính dái, chịu luỵ, giúp cho [cha
mẹ] mọi sự” (tr.293).
Tác giả cuốn sách trên còn nhấn mạnh tới sự hy
sinh cụ thể của cha mẹ đối với con cái trong bối cảnh xã hội Việt Nam thời đó,
nên con cái thảo kính cha mẹ: “Ta chịu ơn cha mẹ vì có chịu thai, mà ta ở trong
lòng mẹ chín tháng mười ngày, chịu khốn khó mà đẻ ta, đoạn ba năm bú mớm; có
khi thì mẹ cắt [phần ăn] của miệng mình mà cho con ăn; cũng có khi mẹ ăn miếng
đắng, mà miếng ngon để dành cho con ăn; lại có khi mẹ nằm chốn ướt, mà chốn ráo
để cho con nằm. Cha đẻ con đoạn thì lo việc nuôi nấng […]. Thật con thảo kính
cha mẹ thì chậm phải, ví bằng có ai chẳng thảo kính, chẳng khứng vâng phép cha
mẹ, thật thì có tội trọng” (ntr. tr.18)
Khi cha mẹ còn sống: Ngoài việc tỏ lòng hiếu
thảo như thăm viếng, săn sóc, quà bánh… thì ngày mồng Một Tết, người dân, và cả
những quan lớn sau khi theo vua chúa đi tế Nam giao về, “ai nếy về nhà mà lạy
cha mẹ oũ bà oũ vải (ông bà ông vải), bởi vì có mlẽ (lý lẽ) ở tlaõ làõ mình
dẽại (dạy) kính phụ (cha) thứ ba là chức dưới bệy (vậy)” (ntr.tr.23). Thầy
giảng Bentô Thiện cũng viết bằng chữ Quốc ngữ trong tập Lịch sử nước An-nam năm
1659 tại Thăng Long về vấn đề này như sau: “Thói nước Annam, đầu năm, mùng một
tháng giêng gọi là ngày tết Thiên hạ đi lậy vua đoạn lậy chúa mới lậy ông bà
ông vải cha mẹ, cùng Kẻ cả bề trên, quan quyền thì lậy vua chúa, thứ dân thì
lậy bụt trước” (ghi theo chính tả ngày nay) (1).
Lúc cha mẹ qua đời: Vào năm 1625, các thừa sai
ở Hội An nói rõ với anh chị em bổn đạo là, đạo Đức Chúa Blời buộc mọi người
phải tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ, nên phải thi hành nghi lễ cúng vái,
trừ ít điều mê tín dị đoan, như đốt vàng mã, hay khi cúng lại tin là tổ tiên về
ăn của cúng (2). Một trăm năm sau, ngày 21-2-1717, cha G.B.Sanna, công bố tại
Huế cho bổn đạo biết: – Bổn đạo được mang cờ gia triệu khi di quan ra phần mộ;
– Bổn đạo được khấu đầu trước thi thể người quá cố; – Phải cúng giỗ cha mẹ, ai
không làm là lỗi điều răn thứ bốn (3). Trong các gia đình Công giáo Việt Nam,
nơi cao trọng nhất trong nhà đặt bàn thờ Chúa, sau đó đến “bàn thờ” tổ tiên
cùng những người thân trong gia đình đã qua đời.
Việc cầu nguyện, tưởng nhớ những người qua đời
không phải chỉ làm trong dịp tảo mộ, giỗ chạp, hay tháng đôi ba lần, cũng không
phải chỉ nhớ và cầu nguyện cho người thân thuộc, mà là nhớ cầu nguyện hàng ngày
sáng tối cho mọi người đã qua đời, tại nhà thờ trong Thánh Lễ, trong Kinh Phụng
vụ. Hơn nữa, việc cầu nguyện cho người thân đã lìa cõi thế, không phải chỉ làm
ở nhà thờ với tính cách xứ đạo, làng xã, Giáo hội mà đủ; đối với các gia đình
Công giáo Việt Nam, việc này còn phải được thực hiện trong ngôi nhà của gia
đình nhất là trong chính ngôi nhà người thân trút hơi thở cuối cùng. Vì vậy,
sáng tối mọi người trong gia đình phải họp nhau cầu nguyện, đặc biệt cầu nguyện
cho ông bà, tổ tiên cùng thân nhân qua đời.
Nói cách chung, việc tỏ lòng hiếu thảo “bề
ngoài” đối với người quá cố, như cúng vái nhang hương đã không thực hiện được
kể từ ngày 11-7-1742 khi Hiến chế Ex quo Singulari providentia ra đời. Nhưng từ
14-6-1965, thời thế đã thay đổi, nên người Công giáo Việt
2. Đọc kinh sáng tối trong gia đình
Vua là Thiên tử , là cha mẹ dân, thay mặt con
dân tế Trời ở Đàn Nam Giao mỗi năm một lần vào dịp đầu năm mới; tụng kinh niệm
Phật chính thức do các nhà Sư tại Chùa; cúng thờ Thành Hoàng lại do vị chức sắc
cao nhất trong làng tại Đình làng. Nhưng việc cúng vái chính thức tổ tiên thì
do các gia trưởng chủ lễ, đa số được diễn ra trong ngôi nhà của gia đình, đôi
khi do vị trưởng tộc trong từ đường, nếu có từ đường.
Ngôi nhà là nơi gia đình sinh hoạt, cũng là nơi
đặt bài vị, để mọi người trong nhà kính nhớ ông bà tổ tiên. Cho nên ngôi nhà
vừa có tính vật chất, lại vừa có tính “thần thiêng”, vì Thần chủ “ngự” ở đó;
ngôi nhà là nơi “hiệp thông” giữa kẻ sống và người chết. Ngôi nhà kết hợp những
người trong gia đình còn sống đã vậy, nhưng cũng là nơi dễ gợi nhớ đến ông bà
tổ tiên.
Đối với người Công giáo, việc thờ phượng Thiên
Chúa với tính cách tập thể gia đình trong ngôi nhà sinh hoạt chung hàng ngày
cũng quan trọng. Vì thế, người Công giáo Việt Nam “ngoan đạo” thường đọc kinh
trong gia đình sáng tối, nhất là những khi không có điều kiện đọc kinh chung
trong nhà thờ. Kinh nguyện loại này có tính cách tập thể gia đình rất chặt chẽ.
Mọi người trong nhà đều cùng nhau đọc kinh (thuộc lòng) trung bình 30 phút,
nhất là trước khi đi ngủ. những kinh thường đọc là kinh Chúa Thánh Thần, Tin
Cậy Mến, 50 kinh Mân côi, kinh Vực sâu, kinh Trông cậy, có khi thêm kinh thánh
Bổn mạng, kinh Cầu Đức Bà, hay kinh Cầu Trái Tim, vv…. Trước đây, trong những
vùng hoàn toàn nông nghiệp, hầu như gia đình Công giáo nào cũng đọc kinh tối
chung. Vì thế, vào buổi tối khoảng 7-8 giờ, nếu một ai bước vào xóm làng Công
giáo, sẽ nghe được lời kinh trầm bổng, với giọng vui, thương, mừng, từ các ngôi
nhà vọng vang qua luỹ tre xanh. Phải nói là cả một thôn xóm, một làng, từ chính
ngôi nhà thân thương, “nơi chôn nhau cắt rốn” cùng cất tiếng tạ ơn ca tụng
Thiên Chúa. Nhờ việc đọc kinh chung trong gia đình như vậy, mà đức Tin thấm
nhập dần dần, được nuôi dưỡng và lớn lên dù ở giữa những hoàn cảnh rất khó
khăn: không có nhà thờ, chẳng có linh mục, không được học giáo lý bài bản, hàng
chục năm “chạy loạn”, cả ngày “bán lưng cho trời bán mặt cho đất”.
3. Nhà Đức Chúa Trời
Tổ chức nhà Đức Chúa Trời tại các nhà cha xứ
bền vững suốt 300 năm trời, kể từ năm 1630 đến khoảng 1945. Bền vững như thế
phần nhiều do đã mạnh dạn hòa nhập sâu xa vào văn hóa gia đình Việt
Quả thật, các cha xứ, cha phó ở phương Tây
thường ăn riêng, ở nhà riêng, cha mẹ, thân nhân có thể ở chung với các ngài.
Còn tại Việt Nam, trong nhiều giáo phận, cha xứ (cha sở), cha phó cùng ở một
nhà, ăn chung với nhau; đặc biệt còn có các thầy giảng, kẻ giảng, các chú, các
cậu, và một số ông bõ. Nhà xứ lớn thì có tới vài chục người, nhà xứ nhỏ cũng
tới 5, 10 người.
Nói chung, đó là nhà Đức Chúa Trời: cha xứ, cha
phó, giống như ông bố, các thầy giảng giống như bà mẹ, các chú các cậu giống
như con cái, các ông bõ là những người giúp việc trong nhà xứ cùng ăn ở trong
nhà xứ và cũng sống độc thân như ai (kẻ thì gác cổng, người làm bếp, làm vườn,
làm ruộng…). Rõ ràng, nhà xứ mang hình ảnh một gia đình gồm cha mẹ con cái. Có
thể nói được nét làm nổi bật cái hình ảnh gia đình ở đây là mấy chú mấy cậu nhỏ
có khi tới 20 em. Vắng những chú cậu đó thì hình ảnh gia đình cũng bị lu mờ,
thiếu kẻ “nối dõi tông đường”.
Nhà xứ hao hao như một Cộng đoàn nam tu sĩ, kín
cổng cao tường, vì trên nguyên tắc, mọi của cải để chung, cha xứ là bề trên,
chịu mọi trách nhiệm. Trước khi nghỉ đêm, mọi người trong nhà xứ còn đọc kinh
tối chung, dù trước đó đã đọc kinh chung với bà con giáo hữu tại nhà thờ. Vì là
nhà Đức Chúa Trời, nên đàn bà con gái, kể cả “bà Cố” cha xứ, không khi nào được
nghỉ đêm trong nhà xứ, mà phải tạm qua đêm trong nhà giáo hữu hay nhà Mụ.
4. Linh tông
Tại nhiều giáo phận ở Việt Nam trước đây, và
ngày nay cũng còn một số nơi, các linh mục triều nhận bảo trợ đặc biệt ơn gọi
tu trì, cách riêng đối với chủng sinh và thầy giảng, nói nôm na là nuôi “các
con”, hướng dẫn và nâng đỡ chẳng những về mặt thiêng liêng, tinh thần, mà cả về
vật chất nữa, để sau này họ làm linh mục hay thầy giảng. Các cha xứ, cha phó
cũng nâng đỡ các cô Mụ (danh từ cao quý dùng để gọi các nữ tu ở miền Bắc từ đầu
thế kỷ XX trở lên thế kỷ XVII), cũng coi như là “con” của các vị tương tự như
“đám con trai” trên đây. thế là “gia đình Linh tông” này đủ cả con trai con
gái, ít ra cũng hai ba “mống”, có ông cha Bố (cha quan thầy) “mắn” hơn, “mát
tay” hơn, được tới 12 người con loại này cũng “đỗ Cụ” như cha Bố, tức là làm
linh mục, chưa kể những “con” làm thầy giảng, cô Mụ hay ngày nay gọi chung là
các nữ tu.
Rõ là đoàn con trên sẽ “nối dõi” tông đường
tinh thần này trong sứ vụ linh mục, thầy giảng, nữ tu. Hạnh phúc, rôm rả cho
cha Bố nào “con đàn cháu đống”, nhất là có được những người con “làm lớn” hay
có “vai vế” trong giáo phận do nhân đức, khôn ngoan, thông thái…
Các cha Bố thường bắt đầau vun trồng bằng cách
nhận đám con trai muốn “đi ở nhà Thầy” tức là bắt đầu “thoát ly” gia đình đến ở
trong nhà xứ với cha Bố có thể từ lúc chín mười tuổi, gọi là các cậu (danh từ
chỉ con trai trong các gia đình quý phái). Thời gian này, các cậu được tập tành
dần dần cho quen với nếp sống tu trì thời đó, được học sơ sài kinh sách, chữ
nghĩa bằng Hán, Nôm và cả Quốc ngữ mới do các Thầy giảng, Kẻ giảng cùng sống
trong nhà xứ hướng dẫn. Cha Bố được quyền sử dụng tài sản trong nhà xứ cấp
dưỡng cho các cậu tới khi các cậu khôn lớn, “thành đạt” trong đời sống tu trì.
Sau mấy năm sống trong nhà xứ, cậu nào thích hợp với đời tu, học hành tạm đủ,
thì được gia nhập tuần tự, từ trường Tập cũng gọi là trường Thử (tiến trình hơi
giống như Tập viện các Dòng tu), rồi tiểu chủng viện, đại chủng viện (quen gọi
là trường Lý đoán) cho đến khi thụ phong linh mục. Ai không đủ điều kiện để
tiến tới sứ vụ linh mục, có thể trở thành kẻ giảng, thầy giảng được phát thị
(bổ nhiệm) đi phục vụ trong các xứ đạo (giáo xứ).
Trong kỳ nghỉ hè, các chủng sinh trên đây không
về sống với cha mẹ, nhưng suốt ba tháng hè, đều ở trong nhà xứ với cha Bố.
Riêng các cô Mụ, chỉ tới thăm cha Bố chừng một hai lần mỗi năm, chuyện trò thăm
hỏi vắn tắt, chẳng bao giờ được ở lại dùng cơm với cha Bố, nói chi đến việc
nghỉ đêm trong nhà xứ là điều tối kỵ.
Tại một số giáo phận phía Bắc, khi một cậu bắt
đầu vào trường Thử, cha Bố đổi tên cậu, lấy mẫu tự đầu tên mới của cậu giống
với mẫu tự đầu tên cha Bố; ví dụ: tên cha Bố là Trần Ngọc Hưởng, thì các con có
thể mang tên với mẫu tự đầu là H, như Hân, Hảo, Hinh, Huấn… Đây là một trong
những dấu chỉ người ấy thuộc “gia đình” linh tông cha Trần Ngọc Hưởng. Các con
của một cha Bố nào đó đương nhiên là anh em với nhau, người con đầu tiên trở
thành con Cả, Bác Cả. Vai anh, thì được xưng hô bằng một danh chức mỹ miều là
Quan Bác, vai em gọi là Quan Chú. Nếu cha Bố qua đời, thì người anh Cả phải có
trách nhiệm thay cha Bố săn sóc, cấp dưỡng cho các em, khi các em còn đang
trong thời kỳ huấn luyện ở các chủng viện.
Sống tết, chết giỗ! Cha Bố còn sống các con
phải tụ họp về tết cha Bố, hoặc trong các ngày kỷ niệm của cha Bố cũng phải thể
hiện lòng biết ơn ngài. Mỗi Linh tông gồm nhiều thế hệ còn sống, có khi tới “tứ
đại đồng đừơng” thì thế hệ dưới phải chu toàn lòng hiếu thảo đối với thế hệ
trên, ví dụ: con đi tết bố, bố con đến tết ông, ông cháu kéo lên tết cố… Trong
nghi lễ an táng, tang chế, con cháu cũng phải để tang như bên Huyết tộc, dù có
vẻ đơn giản hơn. Linh tông cũng làm gia phả có kém chi Huyết tộc đâu!
Tuy nhiên, chỉ có các linh mục mới được nhận
nuôi các con; các thầy giảng, cô mụ không được phép như các linh mục; do đó họ
chỉ có thể là con là cháu, không hề được nhận ai làm con trong hệ thống linh
tông.
Năm mươi năm trước đây, và ngày nay, nhiều nơi
hệ thống linh tông này rất phổ biến; có điều xã hội đang thay đổi, nên linh
tông hiện thời không chặt chẽ, đậm đà như xưa.
Hệ thống linh tông quả là một hòa nhập của Giáo
hội Việt Nam vào văn hóa gia đình Việt Nam, vì Giáo hội chẳng những đề cao văn
hóa gia đình Việt Nam, mà còn mặc lấy cơ cấu văn hóa gia đình Việt Nam qua tổ
chức nhà Đức Chúa Trời cũng như linh tông. Ở giáo phận nào tại Việt Nam trước
đây có hai tổ chức trên, thì con số linh mục, tu sĩ đông hơn, vì đó làm môi
trường thích hợp cho việc nâng đỡ ơn gọi tu trì, và sinh hoạt tôn giáo cũng
linh động, sầm uất hơn. Tính gia tộc đã ăn sâu vào nếp sống văn hóa gia đình
Việt Nam, một người đi tu, rời xa gia đình huyết tộc, thì được tháp nhạp ngay
vào “gia đình” linh tông: tuy xa cha mẹ anh em ruột thịt, nhưng lại được gần
gũi ngay với “cha mẹ anh em” trong linh tông ngay từ lúc khăn gói đến ở nhà
Thầy, tức là vào sống trong nhà xứ với cha xứ, các thầy và các cậu.
Thiết nghĩ, bốn sự việc vắn tắt trên đây là mấy
nét son của Giáo hội trong việc hòa nhập vào văn hóa gia đình Việt
Chú thích
(1) Archivum Romanum
Societatis Iesu, Jap-Sin 81, tờ 257 mặt trước – Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ
Quốc ngữ, Sài Gòn 1972, tr.145
(2) Alexandre de
Rhodes, Divers voyages et missions, Phần 1 tr.77
(3) A. Launay, Histoire de la mission de Cochichine t.1