Chứng và phản chứng
(Vietcatholic news 27 Oct 2009 09:49)
Từ lâu lắm rồi, nhưng nhất là gần đây khi
Giáo Hội Việt Nam sắp mở Năm Thánh mừng kỷ niệm 350 năm thiết lập hai địa phận
tông toà đầu tiên Đàng Ngoài và Đàng Trong (1659-2009) và 50 năm thiết
lập hàng giáo phẩm Việt Nam (1960-2010), người công giáo chúng ta thường xuyên
được nhắc nhở về nhiệm vụ loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Kitô. Chẳng
hạn trong Thư mới nhất của Hội Đồng Giám Mục gửi cộng đồng Dân Chúa ngày
9-10-2009, có đoạn viết:
“Năm Thánh 2010 phải là động lực thúc
đẩy chúng ta hăng say chia sẻ niềm vui đức tin với tất cả mọi người dân Việt.
Để thực hiện được điều này, cần phải khơi dậy hồng ân đức tin dã lãnh nhận
nhưng vì hoàn cảnh khách quan hoặc những yếu tố chủ quan, hồng ân có thể đã bị
phai mờ, lãnh quên hay mai một. Ngoài ra, cần phải canh tân các phương thức
truyền giáo nhằm đáp ứng những biến chuyển nhanh chóng của thời đại; tuy nhiên
nên nhớ rằng chứng tá đời sống vẫn luôn là cách thế cụ thể và thuyết phục nhất
trong việc làm chứng cho Tin Mừng và giới thiệu Chúa cho kẻ khác” (số 5
đoạn 2).
“Làm chứng cho Tin Mừng” cũng đồng
nghĩa với “làm chứng cho Chúa Kitô” bởi vì Tin Mừng là chính Chúa Kitô,
Chúa Kitô chính là Tin Mừng. Chúng ta đã quá quen với những cách nói này. Nhưng
làm chứng là gì?
Hình thức cao cả nhất của việc làm chứng là
tử vì đạo, lấy chính mạng sống mình minh chứng cho tình yêu đối với Chúa hay
cho chân lý của Tin Mừng. Trong huấn từ cho các Giám Mục Việt Nam ngày
27-6-2009 trong chuyến viếng thăm ad limina mùa hè năm nay, ĐTC Bênêđíctô đã
nhắc tới loại làm chứng này trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam: “Ơn huệ đức tin
đã được tiếp nhận cách quảng đại, được sống và chứng nhận [chứng thực, làm
chứng, témoigné] bởi đông đảo các Vị Tử Đạo, là những người muốn loan báo chân
lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa”.
Nhưng đó chỉ là một hình thức làm chứng, và
là hình thức “tột cùng”, nói chung ít khi xảy ra. Hình thức phổ biến hơn cả, và
cũng không dễ dàng, là sống chính cuộc sống bình thường của mình như một lời
tuyên xưng, một lời minh chứng “thầm lặng”, theo cách nói của ĐGH Phaolô VI
trong Tông huấn Loan báo Tin Mừng (Evangelii nuntiandi, 1974). Ngài viết:
“Cứ xem một Kitô hữu hay một nhóm Kitô
hữu đang sống giữa giữa cộng đồng những con người mà (biết) tỏ ra khả năng
thông cảm với kẻ khác và đón nhận, thái độ chia sẻ cuộc đời và vận mệnh với kẻ
khác, tình liên đới trong các nỗ lực chung nhằm tất cả những gì cao thượng và
tốt lành. Cứ xem họ lại chiếu toả, một cách thật đơn sơ và hồn nhiên, niềm tin
của họ vào những giá trị vượt xa những giá trị thông thường và lòng trông cậy
vào những gì người ta không trông thấy, không dám mơ tưởng. Bằng cách làm chứng
không lời như thế, những người Kitô hữu kia gợi lên những câu hỏi không tránh
được trong tâm trí những ai nhìn thấy họ sống: Tại sao họ như thế? Tại sao họ
sống như thế? Cái gì –hay ai- đang thôi thúc họ? Tại sao họ ở giữa chúng ta?
Làm chứng như thế đã là loan báo Tin Mừng một cách thầm lặng mà rất mạnh mẽ và
hiệu quả. Đó là cử chỉ khai mào cho việc Phúc Âm hoá” (số 21).
Một đoạn văn tuyệt vời đầy cảm hứng và gợi
hứng! Nên lưu ý, ở đây Đức Thánh Cha nhắc tới hai loại giá trị mà người Kitô
hữu phải theo đuổi. Một đàng là những giá trị “thông thường”, tức nhân bản hay
“tự nhiên” chung cho hết thảy mọi người, dù tin hay không tin (Đức Thánh Cha
nhắc tới liên đới, thông cảm, cộng tác vào việc chung, vv.); đàng khác là những
giá trị mà đức tin mang tới cho ta, những giá trị Tin Mừng vượt xa những giá
trị thông thường nhưng không ngược lại mà còn kiện toàn chúng. Nói cách khác,
muốn cho cuộc sống chúng ta mang một giá trị làm chứng, có sức thuyết phục hay
ít ra cũng gây được sự thắc mắc lành mạnh nơi người khác, Kitô hữu chúng ta
phải nỗ lực làm những con người tốt và những môn đệ chân chính của Chúa Kitô.
Mấy lời dạy trên của Đức Phaolô VI còn lưu
ý chúng ta về hai điểm nữa. Một là để loan báo Tin Mừng cho người chưa biết
Chúa, người Kitô hữu không được sống xa cách, khép kín, tự cô lập mình thành
một ốc đảo trong xã hội; nếu ta không cởi mở hoà mình với những người sống xung
quanh, làm sao tạo được mối liên lạc và thiện cảm “tự nhiên”, mà nếu thiếu nó
thì làm sao người ngoài chịu lắng nghe chúng ta và nhìn nhận tôn giáo chúng ta
là hay là tốt được? Nói đơn giản hơn theo Phúc Âm, là muốn làm men làm muối cho
đời thì phải nhập vào đời, miễn là vẫn giữ được nguyên chất chứ không để cho
mình bị biến chất theo đời.
Điểm lưu ý thứ hai nằm trong câu: “Họ
chiếu toả một cách thật đơn sơ và hồn nhiên niềm tin của họ”. Đức Thánh Cha
muốn nói rằng người Kitô hữu làm chứng cho Chúa Kitô bằng cuộc sống mình khi họ
để cho các giá trị Tin Mừng thấm nhập vào đời sống của mình cách tự nhiên và
sâu xa đến độ họ chỉ sống bình thường mà vẫn có sức “chiếu tỏa” như một lời
“loan báo”, nghĩa là họ không phải gồng mình lên, không phải cố tình cố ý dạy
bảo ai hay làm gương sáng cho ai, lại càng không muốn tuyên truyền để lôi kéo
ai về phía mình cả. Nói theo tục ngữ Việt Nam: hữu xạ tự nhiên hương. Một khi
người ta có cảm tưởng mình là đối tượng cho ai đó chinh phục, họ sẽ có tâm lý
tự vệ và cảnh giác trước mọi “ý đồ” truyền đạo… Còn nếu chúng ta sống tốt như
một người tin theo Chúa Kitô phải sống một cách đơn sơ bình thường thì tác dụng
có thể âm thầm nhưng chắc chắn và sâu đậm.
Ngoài ra, sống trong một môi trường văn
hoá, xã hội, chính trị cụ thể, người làm chứng còn phải lưu ý tới và thực hiện
những giá trị mà môi trường này đề cao hoặc đang cần hơn cả. Làm như thế là
giống như phát ra những “tín hiệu” mà người chung quanh dễ dàng thâu nhận. Vì
lý do đó, chúng ta thấy mấy năm qua, các Giám Mục Việt Nam thường xuyên cổ vũ
nơi các tín hữu những đức tính liêm khiết, trung thực, công bằng, tôn trọng
công ích, tôn trọng sự sống v.v., vì nói chung, đó là những điều còn thiếu trầm
trọng trong xã hội ta hiện nay. Chính Đức Thánh Cha trong bài huấn từ tôi đã
trích dẫn trên đây cũng nói với các Hội đồng Giám mục chúng ta:
“Trong lá Thư Mục vụ năm qua, Anh Em đã
biểu lộ mối quan tâm đặc biệt đối với các tín hữu giáo dân khi làm cho rõ ràng
vai trò của ơn gọi của họ trong phạm vi gia đình. Điều đáng ước mong là mỗi gia
đình Công giáo, bằng cách dạy cho con cái biết sống đúng theo một lương tâm
ngay thẳng, trong sự trung thực và trong chân lý, sẽ trở nên một trung tâm các
giá trị và đức tính nhân bản, một trường dạy đức tin và tình yêu đối với Thiên
Chúa. Còn phần họ, các giáo dân Công giáo phải dùng một cuộc sống dựa trên đức
ái, sự lương thiện và lòng mến mộ công ích mà chứng tỏ rằng một người Công giáo
tốt cũng là một công dân tốt”.
Vậy, thật là sai lầm khi giới hạn việc sống
Tin Mừng và loan báo Tin Mừng vào những việc thuần tuý tôn giáo đạo đức hay
những chương trình, những công việc ít nhiều quan trọng phải thực hiện với chủ
đích truyền giáo rõ ràng, còn trong cuộc sống diễn ra thông thường, người ta
không thấy có gì dính dáng tới “sự đạo” cả, thậm chí còn nhiều điều “phản
chứng” thay vì “làm chứng”.
Một người bạn tôi kể: Ngày kia, giáo xứ của
anh tổ chức đi hành hương tại một trung tâm cầu nguyện ở khá xa, phải đi rất
sớm và về muộn. Sau gần một ngày cầu nguyện chung và riêng, khoảng chín giờ tối
đoàn hành hương ra về, nhưng đi chưa được bao lâu thì xe bị hư, lái xe sửa chữa
cả tiếng đồng hồ vẫn không đuợc, nên đã gọi điện thoại nhờ một xe bạn đến chở
giúp. Xe vừa tới, chưa kịp mở cửa người ta đã ào ào chạy tới, chen chúc tranh
giành, bít kín cửa xe, tiếng kêu la inh ỏi. Tài xế và phụ xe quát tháo bảo mọi
người giữ trật tự để họ xếp chỗ cho. Không có kết quả, họ phải mạnh tay với mấy
người đàn ông và thanh niên đang cố sức gạt cả những người già và phụ nữ ra để
tìm đường lên xe trước. Vài người không nghe lại còn cự nự đòi đánh. Cuối cùng,
trưởng đoàn hành hưởng phải can thiệp: “Bà con muốn về hay ở lại đây? Hãy lui
ra, giữ trật tự để tôi và phụ xe cho từng người lên và xếp chỗ cho”.
Trên đường về, theo lời kể của một người
ngồi hàng ghế trên hết, người ấy đã nghe tài xế lắc đầu nói một mình: “Lộn
xộn chưa từng thấy, vậy mà họ mới cầu nguyện cả ngày với nhau!”
Hành động của đoàn người hành hương là một
phản chứng, dù không lớn nhưng một cách nào đó, vẫn góp phần vô hiệu hoá lời
rao giảng của các vị chủ chăn cũng như gương lành gương tốt của nhiều anh chị
em đồng đạo nhiệt tình; nó cũng có thể góp phần đẩy nhiều người ngoài ra xa Hội
Thánh, làm giảm lòng thiện cảm của những kẻ thiện chí muốn tìm hiểu Đạo Chúa.
Có một ví dụ nổi tiếng là trường hợp của
Mahatma Gandhi, vị anh hùng dân tộc Ấn Độ đã tranh đấu bất bạo động đề dành độc
lập cho đất nước từ tay người Anh. Trong thời gian sống và hoạt động tại Nam
Phi (1893-1914), ông đã thấy tận mắt những cách cư xử bất công do chính sách
Phân biệt Chủng tộc (Apartheit) của chính quyền người da trắng Nam Phi đối với
người da đen và da màu nói chung, chính ông và đồng bào ông tại đó cũng chung
một số phận bị khinh dể và hạ nhục. Chẳng hạn, lần kia ông ngồi trên toa xe lửa
hạng nhất, có vé hẳn hòi, nhưng vẫn bị người soát vé yêu cầu phải xuống ngồi
hạng ba. Lần khác, chủ một chiếc xe ngựa bắt ông phải xuống ngồi chỗ đặt chân
để nhường chỗ trên cho một hành khách người Châu Âu. Là một luật sư, Gandhi
đang tranh đấu cho quyền xã hội của mọi người. Vì thế ông luôn luôn từ chối
chấp hành những đối xử kỳ thị và bất công như thế, kể cả có khi là một mệnh
lệnh không hợp lý của nhà cầm quyền, và dĩ nhiên là ông thường bị hành hung
hoặc giam cầm. Ngay từ thời đó, ông đã rất có thiện cảm với Kitô giáo, ông
thích đọc Kinh Thánh và thán phục giáo lý cùng cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô đến
nỗi đã nghĩ tới việc trở thành Kitô hữu. Ông đặc biệt thích Bài Giảng Trên Núi
và tự nhủ mình sẽ có thể tìm thấy ở đó một giải pháp cho hệ thống đẳng cấp
(castes) trong nước mình. Nhưng ngày nọ, ông bước vào một nhà thờ của người da
trắng. Một người tiến đến gần và nói với ông: “Nơi này không dành cho người da
màu”. Thế là hết. Ước muốn nhập đạo của ông tan biến khi ông ra khỏi ngôi thánh
đường này.
Trong Năm Thánh sắp tới, có lẽ mỗi cộng
đoàn Kitô hữu từ giáo phận xuống giáo xứ, tu viện và gia đình, và mỗi tín hữu
giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ nên thường xuyên kiểm điểm đời sống mình về mặt phẩm
chất Tin Mừng và sức chiếu toả truyền giáo, và hết sức loại trừ, nếu có, những
bất nhất, những mâu thuẫn và do đó những phản chứng trong cuộc sống cá nhân
cũng như tập thể.
Lm Nguyễn Hồng Giáo, ofm