Một tầm nhìn sứ mạng
Vài năm nay, nhiều biến cố dồn dập xảy
ra trong Giáo Hội Việt Nam . Qua các trang mạng, nhiều Kitô hữu gần xa lên
tiếng trình bày lập trường của mình xung quanh các biến cố ấy. Không kể những
phát biểu hằn học cay cú và đả phá cá nhân - mà nhiều trang mạng có vẻ hơi quá
dễ dãi trong việc duyệt và đăng bài - thì vẫn đáng lưu ý là ngay những ý kiến
chín chắn, đầy am hiểu, đầy thiện chí, và được phát biểu cách từ tốn đúng mực…
cũng nhiều khi rất khác biệt và thậm chí đối nghịch nhau rõ rệt, mở ra những
tranh cãi xem chừng bất tận! Chẳng hạn, nên im lặng hay nên lên tiếng nói trong
tình hình X này, nên tổ chức sự kiện Y kia ra sao, nên ưu tiên sử dụng món tiền
Z nọ vào việc gì, theo định hướng nào…
Quả thực, không gì dễ bằng “có ý
kiến,” vì ý kiến là cái mà… ai cũng có! Và hẳn là ta không thể - cũng chẳng nên
mơ - đạt tới tình trạng trong đó mọi lập trường trong Giáo Hội, trước mỗi vấn
đề cụ thể, đều y chang nhau. Khác biệt có thể là phong phú cơ mà! Tuy nhiên,
thiết nghĩ là chúng ta có thể - và phải mong muốn - vượt qua những sự khác
biệt không cần thiết, tức những khác biệt không đem lại sự phong phú hơn mà
chỉ làm chia rẽ trong lòng Giáo Hội.
Cần một tầm nhìn
Cách đây hơn ba thập
niên, Cha Joseph Comblin (nhà thần học người Bỉ, cộng sự viên của Giám Mục
Helder Camara ở Bra-xin) đã chẩn đoán rằng chính sự khác biệt về tầm nhìn sứ
mạng là cái nằm đằng sau rất nhiều những sự khác biệt không cần thiết
nói trên. Ngài viết: “Vì nhiều lý do, tôi cho rằng ngày nay thần học về sứ
mạng theo Tin Mừng là vấn đề trung tâm, nơi hội tụ các cuộc tranh cãi chủ
yếu giữa các Kitô hữu. Tôi cảm thấy rằng nhiều ý niệm, nhiều luận điểm và nhiều
lập trường làm phân hoá trong Giáo Hội xem ra không đi tới gốc rễ của vấn đề.
Không có sự tiến bộ nào đạt được, do các bên liên hệ không nêu rõ ra những quan
niệm căn bản nằm phía sau các điểm bất đồng của mình. Họ không nêu rõ ra những
giả định nằm phía sau luận cứ của mình. Và nếu chúng ta tìm hiểu điều gì nằm ẩn
trong những phát biểu của họ, nếu chúng ta cố gắng xác định thần học nằm sau
những chọn lựa mục vụ của họ, chúng ta sẽ sớm khám phá ra rằng họ có những diễn
dịch khác nhau về sứ mạng theo Tin Mừng.” (The Meaning of Mission, New
York: Orbis Books, Maryknoll, 1977, tr. 1.)
Vâng, chính sự khác
biệt trong thần học sứ mạng và, do đó, trong tầm nhìn sứ mạng của người ta, sẽ
dẫn tới bao điều bất đồng khác giữa họ. Mọi Kitô hữu có trí khôn, ngay cả dù
chưa bao giờ là sinh viên thần học, cách nào đó đều có một tầm nhìn sứ mạng của
mình. Đối với người linh mục thì điều này càng rõ, không phải vì anh ta đã qua
ít nhất 4 năm thần học ở đại chủng viện, mà vì anh ta ở trong một vị trí trong
đó tầm nhìn sứ mạng của anh thường xuyên bộc lộ ra (dù có thể chính anh không ý
thức). Người linh mục bộc lộ như vậy, chẳng hạn, qua giảng thuyết, qua cách lập
kế hoạch mục vụ, qua các mối quan tâm và qua sự chọn lựa ưu tiên của anh trong
những chuyện lớn, nhỏ, chung, riêng hằng ngày.
Nói rằng ai cũng có một
tầm nhìn sứ mạng, thực ra đó chỉ là nói theo kiểu “không có ý kiến gì thì cũng
là một ‘ý kiến’”! Ừ, cách nào đó, không có một tầm nhìn, thì đấy cũng là một
‘tầm nhìn’! Nhưng, trong khi ‘không ý kiến’ lắm lúc có thể là điều tốt nhất,
thì ‘không tầm nhìn’ - cách riêng đối với sứ mạng Kitô giáo - luôn luôn chỉ có
thể là điều tệ hại. “Không có một tầm nhìn,
người ta sẽ chết” (Sách Giảng Viên 29,18).
Không có một tầm nhìn sứ mạng, đời người Kitô hữu sẽ lệch tâm, bởi sứ mạng là
lý do hiện hữu của Đức Giêsu kia mà! Không có một tầm nhìn sứ mạng, người linh
mục sẽ dựa vào đâu để định hướng cho sứ vụ của mình, dựa vào đâu để lập các
chương trình mục vụ, dựa vào đâu để có một mối thống nhất các hoạt động giảng
thuyết, cử hành phụng tự/bí tích và cai quản cộng đoàn của anh? Không có một
tầm nhìn sứ mạng, thì sẽ lấy tiêu chuẩn nào đây để đánh giá một quá trình của
cá nhân hay cộng đoàn, để đích thực là mừng những dịp kỷ niệm 100 năm,
50 năm, 25 năm…?
Tầm nhìn nào?
Giáo
Hội tự bản chất là thừa sai (Ad gentes 2) (chú
thích: ‘thừa sai’ là người được sai đi để làm sứ mạng). Đó là nền tảng
tầm nhìn sứ mạng của Vaticanô II. Nó hàm nghĩa rằng lý do hiện hữu của Giáo Hội
là sứ mạng, rằng vì có sứ mạng mới có Giáo Hội, chứ không ngược lại. Không phải
Giáo Hội có sẵn đó, rồi sứ mạng là một cái gì thêm vào sau (như kiểu có một
nhóm người hơi rảnh, rồi mới tìm việc chi đó để làm cho qua thời giờ!) Giáo Hội
được định hướng bởi sứ mạng. Vì thế, tất cả đời sống Giáo Hội - cơ chế, nhân sự, cơ
sở, tổ chức, sinh hoạt, đào tạo, phụng vụ... - phải hướng về và phục vụ cho sứ
mạng. Giáo Hội sơ khai, trong giai đoạn nguyên sơ nhất, nào có gì đâu, trừ một
bầu khí sục sôi sứ mạng? Và chính từ sứ mạng đang diễn tiến đó mà Giáo Hội nhận
ra các nhu cầu về cơ chế, tổ chức, luật lệ, lễ nghi…, kể cả nhu cầu làm thần
học. Quả thật, “sứ mạng là mẹ của mọi khoa thần học” hay “mọi thần
học đều phải có nền tảng sứ mạng học” – nghĩa là việc dạy và học tín lý,
luân lý, giáo luật, phụng vụ, mục vụ, vv… tất cả đều cần phải được dạy và học
trong định hướng sứ mạng!
Tầm nhìn sứ mạng của
Vaticanô II nói trên đã thúc đẩy rất nhiều sự duyệt xét lại về nguồn gốc, về
mục đích, về ý nghĩa, về tác nhân, về phương thức và về động lực của sứ mạng
Kitô giáo. Đã có các cố gắng làm sáng tỏ hơn để nhận hiểu tốt hơn về Phép Rửa,
về ơn cứu độ, về vai trò của Giáo Hội và về Nước Thiên Chúa. Người ta thấy cần
phải trở về với chính sứ mạng của Thiên Chúa (missio Dei) như được Đức
Giêsu thể hiện trong các Sách Tin Mừng, để xác nhận thật rõ sứ mạng Kitô giáo
là gì và bao hàm gì. Người ta mổ xẻ lại những vấn đề ‘nhạy cảm’ như: phải chăng
ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ, phải chăng Giáo Hội đồng nhất với Nước Thiên
Chúa, phải chăng việc của các môn đệ Đức Kitô chỉ là trồng Giáo Hội và cứu
linh hồn…
Evangelii Nuntiandi và Redemptoris
Missio
Kể từ Vaticanô II cho
tới nay, giáo huấn quan trọng bậc nhất của Giáo Hội Công Giáo về sứ mạng là
Tông Huấn Evangelii Nuntiandi của Đức Phaolô VI và Thông Điệp Redemptoris
Missio của Đức Gioan Phaolô II. Hai vị giáo hoàng đã không chỉ khai triển
khía cạnh ‘cái gì’ và ‘tại sao’ của sứ mạng, mà nhất là các ngài
đã hữu ý đề cập sâu rộng đến khía cạnh ‘thế nào’ của sứ mạng Kitô giáo
trong thế giới ngày nay. Theo Đức Phaolô VI, sứ mạng, hay loan báo Tin Mừng,
là “đem Tin Mừng đến cho mọi người, mọi cơ cấu, để chuyển hoá và đổi mới
nhân loại từ bên trong;” và ngài nêu rõ rằng phương thức đệ nhất để làm sứ
mạng là trình bày chứng tá đời sống Kitô giáo đích thực. Đức Gioan
Phaolô II cũng xác nhận tầm quan trọng này của chứng tá và nhấn mạnh rằng đó là
những chứng tá trong phục vụ con người, trong hội nhập văn hoá và trong đối
thoại với anh chị em thuộc các niềm tin khác.
Ở Việt Nam , có vẻ vì
hoàn cảnh, âm vang của cả Evangelii Nuntiandi lẫn Redemptoris Missio
đều khá nhạt mờ. Evangelii Nuntiandi được ban hành năm 1975, vào lúc mà
Việt Nam vừa ra khỏi cuộc chiến và Giáo Hội tại đây thấy mình ở giữa bao ngổn
ngang và đang đối mặt với trập trùng sóng gió. Thời điểm của Redemptoris
Missio tuy đỡ hơn (1990), vì lúc này nhà nước đã rục rịch ‘đổi mới’, nhưng
cũng phải nhận rằng thông điệp này cũng không được người Công Giáo Việt Nam chú
ý cho đúng mức.
Ecclesia in Asia
Thực ra, các giám mục
FABC (Liên Hiệp Các Hội Đồng Giám Mục Á Châu) đã đi trước cả Evangelii
Nuntiandi và Redemptoris Missio trong việc xây dựng một tầm nhìn sứ
mạng cho Giáo Hội tại lục địa này theo hướng đối thoại và chứng tá. Các ngài
không chỉ đi trước, mà còn đi liên tục (từ 1970 đến nay) và đi rất kỹ nữa. Đến
với Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu hồi năm 1998, các giám mục FABC đã không
nói điều gì mới mẻ, mà chỉ nói lại những gì các ngài đã cùng nhau đào sâu suy
tư, cầu nguyện và nhận định ngót 30 năm. Tông Huấn Ecclesia in Asia -
được Đức Gioan Phaolô II ban hành năm sau đó - là kết quả của thượng hội đồng
này.
Tuy bản văn Ecclesia
in Asia có những thêm bớt (so với Bản Đề Nghị) gây phiền lòng ít
nhiều cho các giám mục FABC, nhưng xét chung nó phản ảnh được những nét chính
trong tầm nhìn sứ mạng của các ngài. Ecclesia in Asia cổ võ việc ưu tiên
chọn lựa người nghèo, việc hội nhập văn hoá và đối thoại với các tôn giáo. Tông
Huấn cũng xác nhận tầm quan trọng hàng đầu của chứng tá đời sống; đặc biệt, bản
văn có dành một đoạn đề cao các Cộng Đoàn Giáo Hội Cơ Bản, mô hình từng được
FABC gọi là “một cách thế mới để thể hiện Giáo Hội.” Ecclesia in Asia
ngay lập tức được đưa vào các giáo trình sứ mạng học tại các học viện thần học
ở Á Châu. Tại Việt Nam , tông huấn này có dấy lên được một phong trào học tập
vào khoảng thời gian Năm Thánh 2000, nhưng sau đó thì ít được nghe nói đến nữa.
Năm 2004, Jonathan Yun-ka Tan - giáo sư thần học người Malaysia gốc Hoa, giảng
dạy tại Đại Học Công Giáo Washington - đã xuất bản một khảo luận nổi tiếng tổng
hợp tầm nhìn sứ mạng của FABC. Ông gọi đó là tầm nhìn “missio inter
gentes” (đối lập với ‘ad gentes’!) và ghi nhận rằng đó là một
kiểu thức mới của thần học sứ mạng.
Tầm nhìn sứ mạng của
các giám mục Việt Nam
Giáo Hội tại Việt Nam
suốt một thời gian dài bị ‘cách ly’ với Giáo Hội hoàn vũ và cả với khu vực. Thế
nhưng, thật thú vị là các giám mục Việt Nam, ngay từ cuối thập niên 1990, đã tỏ
ra rất ‘đồng thanh tương ứng’ với tầm nhìn sứ mạng ‘inter gentes’ của FABC.
Trong Bản Trả Lời cho Lineamenta chuẩn bị Thượng Hội Đồng Giám
Mục Á Châu 1998, các giám mục Việt Nam viết:
“Chỉ một Giáo Hội
nghèo mới có thể dấn thân vào đại dương những người nghèo. Một Giáo Hội khiêm
tốn và bé nhỏ sẽ dễ dàng hơn để hoà đồng với đa số người nghèo ở Á Châu. Một
Giáo Hội không có quyền lực sẽ dễ gần gũi số đông những người chỉ mơ ước được
làm người, được cơm no áo ấm, được học hành và có việc làm…
“… Đã đến lúc cần
sáng tạo ra những ‘mô hình’ mới của Giáo Hội như là những cộng đồng nhỏ bé, dễ
hòa mình vào xã hội của người nghèo: những cộng đồng nghèo hơn, ít bề thế, ít
cồng kềnh, khiến người ta không còn e dè sợ hãi khi tiếp cận, gặp gỡ, những
cộng đồng mở rộng hơn là khép kín. Sau cùng đó là những cộng đồng quan tâm
nhiều hơn đến đời sống toàn diện của con người, không chỉ khép kín trong đời
sống thuần túy tôn giáo, nghĩa là trong việc cử hành bí tích hay phụng
vụ, mà còn dấn thân trực tiếp vào việc cải thiện đời sống vật chất, nâng cao
văn hóa và giáo dục cho người dân, nhất là những người nghèo…
“… Đức Giêsu đã
không rao giảng Tin Mừng chỉ bằng lời nói, mà Tin Mừng của Ngài là ‘người mù
được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, và người
chết trỗi dậy.’”
Vẫn trong Bản Trả
Lời trên, các giám mục Việt Nam xác nhận cách thức loan báo Tin Mừng tại
Giáo Hội địa phương mình:
“Giáo Hội Việt Nam
quan niệm loan báo Tin Mừng trước hết là chia sẻ đời sống… Chúng tôi muốn chia
sẻ với các Giáo Hội địa phương khác về tầm nhìn sứ mạng của chúng tôi và về
cách thức loan báo Tin Mừng mà chúng tôi lựa chọn. Đó là, không tìm cách thuyết
phục, tuyên truyền, càng không phải là chinh phục kéo cho được đông người ‘vào’
Ðạo, nhưng trái lại là đi đến với mọi người (x. Mt 28,19) làm người với mọi
người (x. Ga 1,14), trong tư cách là nhân chứng của Chúa Kitô, hiện thân tình
yêu của Cha trên trời.”
Thay lời kết
Tầm nhìn sứ mạng trên đây
của các mục tử Giáo Hội Việt Nam đã hiện ra trên giấy trắng mực đen cách đây
hơn 10 năm, thiết tưởng rằng tầm nhìn đó vẫn còn hoàn toàn thích đáng cho ngày
hôm nay, khi cộng đoàn Dân Chúa ở đây bước vào cuộc cử hành Năm Thánh 2010. Ước
mong rằng vẫn tầm nhìn ấy sẽ được đặt ở vị trí nền móng, định hướng cho mọi
chương trình và kế hoạch của Giáo Hội địa phương. Càng có nhiều người hơn, nhất
là các linh mục, chia sẻ tầm nhìn này của các giám mục, sẽ càng bớt đi những sự
khác biệt không cần thiết, và sẽ càng có nhiều triển vọng hơn cho sứ mạng
loan báo Tin Mừng trên quê hương thân yêu này.
(Bài viết mừng dịp họp
mặt cựu sinh viên Xuân Bích 2009,
và mừng khai mạc Năm
Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam )
Lm. Lê Công Đức
nguồn WHĐ