Tiểu sử Đức Thánh Cha Gioan XXIII
(conggiao.info)
4/23/2014 11:33:18 PM – Gioan XXIII, sinh
tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu
của ông Giovanni Battista Roncalli và bà Marianna Mazzola.
Ngay buổi chiều hôm đó, trẻ sơ sinh được
rửa tội, lấy tên là Angelo Giuseppe, người đỡ đầu là ông Zaverio
Roncalli, một trong những người bác của ông bố Battista, rất đạo đức, ở độc
thân, tự nhận lấy bổn phận dạy giáo lý cho nhiều đứa cháu. Sau
này, Đức Gioan XXIII đã cảm động nhớ lại nhiều kỷ niệm và biết ơn về những lo
lắng chăm sóc của ông.
Ngay từ thời thơ ấu, đã có một khuynh hướng nghiêm chỉnh về đời
sống Giáo Hội, nên sau khi học học bậc tiểu học, cậu chuẩn bị vào chủng viện
giáo phận nhờ sự trợ giúp học thêm tiếng Ý và tiếng Latinh của một số linh mục
trong khi theo học tại một trường có uy tín của Celana. Ngày
07.11.1892, cậu gia nhập chủng viện
Ngày 13 tháng 7 năm 1904, khi còn rất trẻ, mới hai mươi tuổi
rưởi, thầy đậu tiến sĩ thần học. Với sự nhận xét đặc
biệt của các bề trên, ngày 10 tháng Tám năm 1904, thầy được thụ phong linh mục
trong nhà thờ Đức Maria di Monte Santo; ngài cử hành Thánh Lễ đầu tiên vào ngày
hôm sau trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, dịp này ngài quyết tâm tận
hiến hoàn toàn cho Chúa Kitô và hết lòng trung thành với Giáo Hội. Sau một thời
gian ngắn về nghỉ tại quê nhà, vào tháng Mười, ngài bắt đầu theo học giáo luật
tại Rôma, và rồi phải nghỉ học vào tháng Hai năm 1905, khi ngài được chọn làm
thư ký của Giám Mục mới của giáo phận Bergamo, Đức cha Giacomo Radini Tedeschi.
Mười năm làm việc hết mình bên cạnh một giám mục có thẩm quyền, rất năng động
và đầy sáng kiến, giúp cho giáo phận
Ngoài nhiệm vụ thư ký, ngài còn kiêm nhiệm
nhiều công việc khác. Từ năm 1906, ngài còn đảm nhiệm giảng dạy nhiều môn học
trong chủng viện: lịch sử giáo hội, giáo phụ và biện giáo; từ 1910, ngài cũng
phụ trách môn thần học cơ bản. Ngoại trừ khoảng thời gian
ngắn ngưng nghỉ, ngài vẫn tiếp tục làm những công việc đó đến năm 1914.
Việc học hỏi về lịch sử đã giúp ngài viết một số nghiên cứu lịch sử địa phương,
như xuất bản những chuyến viếng thăm mục vụ của thánh Carlo Bergamo (1575), một
nỗ lực trong nhiều thập kỷ dài và tiếp tục cho đến những ngày trước cuộc bầu cử
Giáo Hoàng. Ngài cũng là chủ nhiệm tờ báo định kỳ của giáo
phận “La Vita
Diocesana” và kể từ năm 1910, ngài làm trợ úy cho Liên Hiệp những
Phụ Nữ Công giáo.
Cái chết bất ngờ của Đức Giám mục Radini năm 1914 chấm dứt một kinh
nghiệm mục vụ tuyệt vời của ngài, mặc dù gặp một vài đau khổ chẳng hạn như
những lời buộc tội vô căn cứ chống lại ngài từ chủ nghĩa hiện đại, vị Giáo
Hoàng tương lai Gioan XXIII luôn xem như điểm quy chiếu chính qua các công việc
được trao phó theo từng giai đoạn. Chiến tranh bùng nổ vào năm 1915, ngài làm
tuyên úy hơn ba năm với cấp bậc trung sĩ với việc chăm sóc thương binh trong
các bệnh viện ởBergamo, và ngài đã có những việc làm rất anh hùng. Vào tháng
Bảy năm 1918, ngài sẵn sàng phục vụ cho những người lính bị bệnh lao, dù biết rằng có nguy cơ bị lây nhiễm.
Hoàn toàn bất ngờ với lời mời của Đức Giáo Hoàng về phụ trách
công việc của Bộ Truyền Giáo tại Ý, trong khi ở
Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai
đoạn phục vụ cho ngành ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952. Sau lễ phong
chức giám mục diễn ra tại Rome vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi
Bulgaria với nhiệm vụ giúp đỡ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều
khó khăn tại đó. Khởi đầu công việc và tiếp tục cả hàng chục
năm, Đức cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông Tòa mà ngài
đã được bổ nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931. Tuy gặp nhiều
khó khăn, nhưng ngài đã tái tổ chức được Giáo Hội Công Giáo, phục hồi được mối
quan hệ thân thiện với Chính phủ và Hoàng gia Bungari, mặc dù có đôi chút trở
ngại vì đám cưới theo nghi lễ chính thống của vua Boris với công chúa Giovanna
của hoàng gia Savoia, và đó cũng là dịp để khởi động
những mối quan hệ đại kết đầu tiên với Giáo hội Chính thống Bungari. Vào ngày
27 tháng 11.1934, ngài được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy
Lạp, các nước này chưa có quan hệ ngoại giao với Vatican. Khác với Hy Lạp, nơi
mà đức Roncalli không mang lại một kết quả nào đáng kể, trái lại quan hệ với
chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dần dần có được một sự hiểu biết và sẵn sàng thể hiện được
nhờ việc đón nhận những đường lối chính trị độc lập với tôn giáo của chính phủ.
Với tính nhạy bén và năng động của mình, ngài đã tổ chức được một vài lần gặp
gỡ chính thức với Đức Thượng Phụ Constantinople, đó là những lần đầu tiên sau
nhiều thế kỷ tách biệt với Giáo Hội Công Giáo.
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã giữ được một
thái độ thận trọng của tính trung lập, nhờ vậy ngài mới thực hiện được một công
việc thật hữu hiệu, là giúp cho cộng đoàn Do Thái, cả hàng ngàn người, khỏi bị
diệt chủng, và giúp cho người Hy Lạp thoát khỏi nạn đói.
Thật bất ngờ với quyết định của Đức Piô XII, ngài được bổ
nhiệm về làm Khâm sứ tại
Tiếng vang và lòng nhiệt thành tông đồ của Giáo Hội Pháp, qua kinh
nghiệm của các linh mục thợ, làm cho Đức Roncalli phải chú ý như một nhà quan
sát thận trọng và khôn ngoan, ngài cho rằng cần phải có một thời gian để xem
xét trước khi có quyết định dứt khoát.
Với lối sống vâng phục của mình, ngài đã sẵn sàng vâng theo lời đề
nghị thuyên chuyển về Venice, nơi ngài đã đến nhậm chức vào ngày 5 tháng 3 năm
1953, lúc mới được nâng lên tước vị hồng y theo quyết định trong Công Nghị cuối
cùng của Đức Piô XII. Thời gian làm giám mục của ngài được mọi
người biết đến qua những nỗ lực làm việc và hoàn thành nhiệm vụ giám mục cách
tốt đẹp như thăm viếng mục vụ và cử hành Công Nghị giáo phận. Việc ôn
lại lịch sử tôn giáo của Venezia giúp ngài thêm những sáng kiến mục vụ mới,
chẳng hạn như kế hoạch làm cho các tín hữu gần gũi với
Kinh Thánh, làm việc theo gương của vị giáo chủ kỳ cựu, thánh Lorenzo
Giustiniani, mà ngài đã long trọng cử hành việc tưởng nhớ trong năm 1956.
Việc bầu một vị Giáo Hoàng bảy mươi bảy tuổi vào ngày 28 tháng
10.1958, đó là Đức Hồng Y Roncalli, kế vị Đức Piô XII, làm nhiều người nghĩ
rằng đây chỉ là một triều đại chuyển tiếp. Nhưng ngay từ đầu,
Đức Gioan XXIII đã chứng tỏ một lối sống đầy nhân bản và con người linh mục của
mình đã chín muồi qua những kinh nghiệm ý nghĩa. Ngoài việc khôi phục
lại các hoạt động đúng đắn trong các cơ quan của giáo triều, ngài còn hết lòng
cho công việc mục vụ theo sứ mạng của mình, bằng cách
nhấn mạnh đến bản chất giám mục với tư cách là Giám Mục Rôma. Xác tín rằng việc quan tâm trực tiếp đến giáo phận là một phần
thiết yếu của Sự Vụ Giáo Hoàng, nên ngài dành nhiều thời gian gặp gỡ các tín
hữu qua việc viếng thăm các giáo xứ, bệnh viện và nhà tù. Qua việc triệu
tập Công Nghị giáo phận, ngài muốn bảo đảm chức năng hoạt động của các cơ cấu
giáo phận bằng cách tăng cường các Giáo Hạt và bình thường hóa đời sống giáo
xứ.
Sự đóng góp lớn nhất của Đức Gioan XXIII, chắc chắn là việc
triệu tập Công Đồng Vatican II, được loan báo trong Vương Cung Thánh Đường
Thánh Phaolô vào ngày 25 tháng 01.1959. Đó là một quyết định mang tính cách cá nhân của Đức Giáo Hoàng sau
khi tham khảo ý kiến với một số vị thân cận và với vị Quốc Vụ Khanh, là Đức
Hồng Y Tardini. Các mục tiêu ban đầu của Công Đồng được nêu rõ trong bài
phát biểu vào lễ khai mạc ngày 11 tháng mười năm 1962: không phải là để xác
định những chân lý mới, nhưng để xác định lại các học thuyết truyền thống phù
hợp hơn với sự nhạy cảm hiện thời. Trong chiều hướng nhằm có được một sự cập
nhật về tất cả đời sống của Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã mời gọi hướng
về lòng thương xót và ủng hộ việc đối thoại với thế giới, hơn là lên án và phản
đối trong một nhận thức mới về sứ mệnh của Giáo Hội, đón nhận tất cả mọi người.
Trong tinh thần cởi mở phổ quát ấy, không thể loại trừ các giáo hội Kitô khác,
họ cũng được mời tham dự vào Công Đồng để khởi đầu một tiến trình xích lại gần
nhau hơn. Trong giai đoạn đầu tiên, người ta có thể nhận thấy
rằng Đức Gioan XXIII muốn một Công Đồng có tranh luận thật sự, biết tôn trọng
các quyết định sau khi mọi tiếng nói đã được trình bày và thảo luận.
Vào mùa xuân năm 1963, ngài được trao giải thưởng “Balzan” về
hòa bình, chứng tỏ những việc làm của ngài đối với hòa bình qua việc ban hành
Thông điệp Mater et Magistra (1961) và Pacem in Terris (1963), cũng như việc nhất quyết can
thiệp của ngài nhân cuộc khủng hoảng tại Cuba vào mùa thu năm 1962. Uy tín và
sự ngưỡng mộ chung, người ta có thể thấy được trong
những tuần lễ cuối đời ngài khi cả thế giới đều lo lắng hướng về quanh ngài lúc
hấp hối và đau buồn nhận tin ngài qua đời vào tối ngày 03 tháng 06 năm 1963.
Phòng Báo Chí Tòa Thánh
Linh mục Augustinô chuyển ngữ