Những suy tư tản mạn từ Đức giáo hoàng Phanxicô
Tư tưởng nơi mỗi người được hình thành qua
thời gian với sự tích lũy của suy tư và kinh nghiệm sống. Không lạ gì khi muốn
tìm hiểu về Đức giáo hoàng Phanxicô, ngay sau khi ngài được bầu chọn, người ta
tìm đọc cuốn On Heaven and Earth – cuốn sách ghi lại cuộc đối
thoại giữa Hồng y Jorge Mario Bergoglio và Rabbi Abraham Skorka, vì ở đó, người
ta có thể gặp được quan điểm và lập trường của vị giáo hoàng mới về nhiều vấn
đề.
Đúng là khi đọc toàn bộ cuốn sách này, người ta
gặp được khá nhiều những tư tưởng mà Đức giáo hoàng Phanxicô đang chia sẻ qua
những bài giảng trong các Thánh Lễ hằng ngày của ngài. Bài viết này muốn ghi
lại những gợi ý của Đức Thánh Cha về một số vấn đề gần gũi với tín hữu Việt
Tôn giáo là gì? “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con còn
mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Từ quan trọng
nhất trong lời cầu nguyện này của thánh Augustinô là từ băn khoăn, khắc
khoải. Nếu chúng ta thành thật với chính mình thì phải nhìn nhận rằng có
một cảm giác khắc khoải sâu xa phía đằng sau những kiếm tìm siêu việt nơi chúng
ta, sự kiếm tìm thúc đẩy chúng ta đến chỗ gặp gỡ Thiên Chúa. Và khi ta bước vào
cuộc gặp gỡ này thì lại tiếp tục tìm kiếm, mỗi lúc mỗi sâu hơn. Tôi muốn diễn
tả sự khắc khoải này như hơi thở của Thiên Chúa mà ta mang trong bản thân mình,
là dấu ấn Thiên Chúa để lại trong chúng ta. Nhiều khi, ngay cả nơi những người
không nghe Thiên Chúa nói, hoặc những người có lập trường chống tôn giáo, hoặc
những người chủ trương duy nội tại, thì bất ngờ, họ gặp được cái gì đó siêu
việt. Bao lâu cảm giác khắc khoải này còn tồn tại, bấy lâu tôn giáo còn tồn
tại, vẫn sẽ có những cách thế kết nối với Thiên Chúa. Đúng ra, từ tôn
giáo có nghĩa là đảm nhận một mối dây liên kết với Chúa qua sự tìm
kiếm. Nếu một tôn giáo thuần túy chỉ là nghi lễ mà không có nội dung tìm kiếm
này, thì nó sẽ chết, bởi vì tuy nó đầy rẫy nghi lễ bên ngoài nhưng tâm hồn bên
trong lại trống rỗng. Tôn giáo sẽ còn mãi bởi lẽ sự khắc khoải kia nội tại nơi
bản tính nhân loại”, nhưng tôn giáo sẽ như thế nào trong tương lai?
Tôn giáo sẽ ra sao trong tương lai? “Nếu nhìn lại lịch sử, chúng ta sẽ thấy những hình thái tôn
giáo nơi Công giáo đã thay đổi cách đáng kể. Chẳng hạn, thử nghĩ đến những
“vương quốc giáo hoàng”, ở đó thế quyền là một với thần quyền. Đó là một hình
thái sai lạc của Kitô giáo, không phù hợp với những gì Đức Giêsu mong và Thiên
Chúa muốn. Nếu trong suốt lịch sử, tôn giáo đã thay đổi rất nhiều thì tại sao
lại không thể nghĩ rằng trong tương lai, tôn giáo sẽ thích ứng với văn hóa của
thời đại? Như Công đồng Vatican II nói, cuộc đối thoại giữa tôn giáo và văn hóa
là cuộc đối thoại thiết yếu. Ngay từ đầu, Giáo Hội đã đòi hỏi sự canh tân liên
lỉ (Ecclesia semper reformanda), và sự canh tân ấy đã được thể hiện bằng
nhiều cách theo thời gian, mà vẫn không thay đổi tín điều. Trong tương lai, sẽ
có những cách thế khác để thích nghi với thời kỳ mới, cũng như ngày nay, đã có
những thay đổi so với thời chủ trương duy lề luật, duy tuyệt đối”.
Vai trò của các giáo xứ: “Đây là điều then chốt vì cộng đoàn nhỏ đáp ứng nhu cầu về căn
tính, không những căn tính tôn giáo mà cả căn tính văn hóa nữa. Tôi thuộc về
khu vực này, câu lạc bộ kia, gia đình này, tôn giáo này… nghĩa là tôi có một
nơi mà ở đó tôi cảm nhận mình thuộc về cách gần gũi. Nguồn gốc Kitô giáo cũng ở
những cộng đoàn nhỏ như thế. Khi đọc sách Công vụ Tông đồ, chúng ta thấy Kitô
giáo thuở đầu lan ra rất nhanh. Ngay khi thánh Phêrô giảng những bài đầu tiên,
đã có cả 2.000 người được rửa tội. Rồi họ được phân thành những cộng đoàn nhỏ…
Điều đem lại sự sống cho một giáo xứ là cảm nhận “thuộc về” một cộng đoàn… Đời
sống giáo xứ dẫn chúng ta đến chỗ chăm sóc cho người anh em của mình, cũng có
nghĩa là tôn giáo được chuyển thành hành động. Khi đó, vấn đề không chỉ là phát
chẩn mà còn là giáo dục, thăng tiến đời sống… Về những hành động này, người ta
có thể tố cáo chúng ta là dấn mình vào những chuyện không thuộc phạm vi của
mình. Cách đây ít lâu, tôi dâng lễ tại một điểm truyền giáo cho các nạn nhân
buôn người: nô lệ trong các nhà máy, các cô gái bị bắt làm nô lệ tình dục, các
trẻ em bị bắt đi buôn ma túy. Kết thúc Thánh lễ là cả một cuộc phản kháng nạn
buôn người, trong đó cả những người ngoài Công giáo cũng tham gia, vì tuy họ
không chia sẻ cùng một niềm tin nhưng họ có chung mối quan tâm đến anh em mình.
Tôi không làm chính trị nhưng tôi quan tâm đến anh em mình đang bị nghiền nát
trong cỗ máy nô lệ. Đúng là có những người lợi dụng việc này để làm chính trị;
vì thế điều quan trọng là phải phân định để hành động cho thích hợp trong những
hoàn cảnh tương tự”.
Một tôn giáo dấn thân: “Niềm tin tôn giáo hàm chứa sự dấn thân chứ không phải trốn chạy.
Đã có một thời kỳ trong linh đạo Công giáo có khái niệm “chạy trốn thế gian” (fuga
mundi); nhưng bây giờ là hoàn toàn khác, nghĩa là cần phải dấn thân vào thế
giới, nhưng luôn luôn là từ kinh nghiệm tôn giáo… Vấn đề trở thành nghiêm trọng
khi cái thiêng liêng bị giảm thiểu thành ý thức hệ, và kinh nghiệm tôn giáo mất
đi sức mạnh, chỉ còn sự trống rỗng, rồi quay về những ý tưởng thế gian. Một
nguy cơ nữa khi làm việc bác ái là hành động như những tổ chức phi chính phủ
chứ không phải từ kinh nghiệm tôn giáo. Đã có những cộng đoàn tôn giáo rơi vào
nguy cơ biến mình thành một tổ chức phi chính phủ. Vấn đề không chỉ là làm cái
này làm cái kia để cứu giúp tha nhân, nhưng là: Bạn cầu nguyện như thế nào? Bạn
có giúp cộng đoàn của mình bước vào kinh nghiệm gặp gỡ Chúa không? Đây là những
câu hỏi thiết yếu”.
Về lãnh đạo tôn giáo: “Tôi hoàn toàn đồng ý với khái niệm “khiêm tốn” nhưng tôi cũng
thích dùng từ hiền lành. Hiền lành không có nghĩa là yếu đuối. Một
nhà lãnh đạo tôn giáo có thể rất mạnh mẽ, kiên quyết, nhưng không gây hấn. Chúa
Giêsu nói người nào muốn cai trị phải là tôi tớ. Theo tôi, ý tưởng ấy phải được
áp dụng cho mọi tôn giáo. Quyền lực đích thực nơi lãnh đạo tôn giáo phải đến từ
sự phục vụ. Khi người lãnh đạo không còn phục vụ nữa, người đó biến thành nhà
quản lý thuần túy, thành nhân viên của tổ chức phi chính phủ. Nhà lãnh đạo tôn
giáo phải chia sẻ và chịu đau khổ với anh em mình, phục vụ anh em mình”.
Tầm quan trọng của sự thánh thiện: “Trong lịch sử Giáo Hội Công giáo, những nhà cải cách đích thực
là những vị thánh. Các ngài là những người làm thay đổi, biến đổi, thúc đẩy và
hồi sinh con đường thiêng liêng. Thánh Phanxicô Assisi đã đem tinh thần nghèo
khó vào Kitô giáo khi đối diện với sự giàu sang, kiêu ngạo và trưởng giả của
thế quyền cũng như thần quyền trong thời đại của ngài. Ngài đã đem đến một nền
thần bí về sự khó nghèo và từ bỏ, và ngài đã thay đổi lịch sử”.
(03-07-2013)
Thiên Triệu