VĂN KIỆN JUSTITIA IN MUNDO – CÔNG BẰNG TRÊN THẾ GIỚI
THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC, ĐẠI HỘI ĐỒNG LẦN THỨ HAI
JUSTITIA IN MUNDO
CÔNG BẰNG TRÊN THẾ GIỚI
Thăng Tiến Công Bằng Trên Thế Giới
30.11.1971
LỜI TỰA
Do nhu cầu học hỏi, chúng tôi đã chuyển ngữ
văn kiện « La justice dans le
monde » (« Iustitia
in mundo ») của Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971, diễn ra tại
Quả thế, văn kiện này ra đời trong bối cảnh thế giới đầy những bất công,
được kinh tế gia người Anh, bà Barbara Ward-Jackson, mô tả như là « Những năm 70 phẫn nộ ». Đó là tiếng
kêu cứu của các dân tộc ở các nước thế giới thứ ba đang đau khổ và phẫn nộ, sau
cuộc Chiến Tranh Thế Giới lần II và sau thập niên phát triển đầu tiên (những
năm 60) được Liên Hiệp Quốc phát động. Sự chênh lệch to lớn giữa người giàu và
người nghèo, giữa nước giàu và nước nghèo ; những con người bất hạnh phải
chịu cảnh đói nghèo và sống trong những điều kiện phi nhân ; « những bất công nghiêm trọng đang dệt nên một mạng
lưới những thống trị, những áp bức, những bóc lột trên mảnh đất nhân sinh.
Chúng bóp nghẹt các quyền tự do…» (số 3)… tất cả đó đưa đến
những kinh nghiệm tiêu cực và từ đó khơi dậy ý thức mạnh mẽ về công bằng để
« nâng dậy thế giới »
(số 4). Đặc biệt, nó giúp Giáo Hội, dưới ánh sáng của Tin Mừng, « ý thức về ơn gọi … hiện diện giữa lòng thế giới để
loan báo Tin Mừng cho người nghèo, sự giải thoát cho người bị áp bức, niềm vui
cho người sầu khổ» (số 5). Đó cũng là thời kỳ của những nền thần
học giải phóng đầu tiên.
Đây là văn kiện đặc biệt được dành riêng bàn
về vấn đề công bằng trên thế giới. Nó mạnh mẽ khẳng định rằng « cuộc đấu tranh cho công bằng và việc tham gia biến
đổi thế giới xuất hiện… như là một chiều kích cấu thành của việc rao giảng Tin Mừng » (số
7). Lời khẳng định này được tiếp sức bởi Đức Bênêđictô XVI, tuy nhiên với
một thay đổi từ ngữ không phải là không có ý nghĩa : « Dấn thân cho công bằng và nhằm biến đổi thế giới là
một đòi hỏi thuộc về bản chất
của công cuộc Phúc Âm hóa » (Verbum Domini, số 100).
« Công
bằng trên thế giới » có những
ảnh hưởng đáng kể. Nó mang lại những thay đổi trong nếp sống cá
nhân và cộng đoàn, đặc biệt nơi các dòng tu. Nó làm mới lại sự chọn lựa ưu tiên
của Tin Mừng cho người nghèo, những người bên lề xã hội, đấu tranh cho công lý
và nhân quyền chống lại những cơ chế bất công, ưu tư về môi trường. Điều thú vị
là các cộng đoàn Kitô hữu có cơ hội xét lại vấn đề công bằng ngay trong nội bộ
của mình : chỗ đứng của giáo dân và nữ giới, liên đới tài chính, sự tham
gia chủ động trong các cộng đoàn và vấn đề thực hành công bằng ở đó, thậm chí
vấn đề công bằng được đặt lên hàng đầu trong định hướng tu trì và cả một linh
đạo về công bằng được khơi lên.
Học hỏi về công bằng đặt ra một vấn đề cụ thể
và cấp bách : giáo dục về công bằng,
ý thức rằng những bất công xã hội sẽ không thể được sửa chữa, nếu trước tiên nó
không được thay đổi nơi tâm hồn mỗi người, « nếu mỗi người không tuân giữ các trật tự mà Thiên Chúa đã thiết lập »
(Mater et Magistra, số 165).
Chính trong tinh thần đó mà chúng tôi chuyển
ngữ văn kiện làm nên phần gia sản của Giáo Hội này, không phải trước tiên với
mục đích giới thiệu và phổ biến chúng, nhưng là để học hỏi và hun đúc nơi bản
thân chúng tôi ý thức về công bằng và thực hành đức công bằng trong xã hội hôm
nay như là một phần đòi hỏi thiết yếu và có tính ngôn sứ của sứ điệp Tin Mừng.
Đại Chủng Viện Huế, ngày 01.01.2013
Lớp Thần học III (Khóa VII)
LỜI GIỚI THIỆU
Văn kiện sau đây có tác giả là Thượng Hội Đồng
Giám Mục, cấp đoàn thể mới, xuất thân từ Công đồng Vatican II. Thượng Hội Đồng
nhóm họp vào năm 1971 (từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 6 tháng 11) là Thượng Hội
Đồng thứ ba tính từ các Thượng Hội Đồng chung đã nối tiếp nhau kể từ Công Đồng.
Có một Thượng Hội Đồng, gọi là “thông thường”, vào năm 1967; một Thượng Hội
Đồng khác, được gọi là “ngoại thường”, giới hạn hơn, vào năm 1969. Thượng Hội
Đồng năm 1971 một lần nữa được gọi là thông thường.
Thượng Hội Đồng 1971 có hai chủ đề trong
chương trình làm việc: – Thừa tác vụ linh
mục, – Công bằng trên thế giới. Trên mỗi một chủ đề này, Thượng Hội
Đồng đã soạn thảo và bỏ phiếu một văn kiện tập hợp các quan điểm quan trọng
nhất và các mong ước của Hội nghị. Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI đã công bố cả hai
văn kiện vào ngày 30 tháng 11 năm 1971.
***
Chủ đề Công
bằng trên thế giới đã được giới thiệu ở Thượng Hội Đồng ngày 14
tháng 10 năm 1971, qua bản báo cáo của Đức cha Alberto y Valderrama, chủ tịch
Hội Đồng Giám Mục Phi-líp-pin. Tuy nhiên, cuộc thảo luận chỉ bắt đầu vào ngày
20 tháng Mười, như thế là khá muộn, trong một Hội nghị vừa mới nghiên cứu các
vấn đề khó khăn, đặc biệt về vấn đề độc thân linh mục, trong một bầu khí căng
thẳng; thế nhưng việc bàn luận về vấn đề Công
bằng trên thế giới thì cụ thể, cởi mở và phóng khoáng.
Các buổi họp thảo luận đầu tiên (20-22 tháng
10) đều được khai mạc, không phải bởi các giám mục, nhưng bởi các chuyên gia
giáo dân thuộc Uỷ ban Giáo Hoàng “Công Lý và Hoà Bình”: Barbara Ward (Phu nhân
Jackson), chuyên gia kinh tế nổi tiếng người Anh, giảng viên ở Hoa Kỳ sau khi
làm việc ở Ghana mãi đến năm 1961; Candido Mendes de Almeida, hiệu trưởng một
viện đại học ở Rio de Janeiro; cuối cùng là Kinhide Mushakoji, giáo sư tại Đại
học Sofia, ở Tokyo.
Chính vấn đề công bằng quốc tế từ rất sớm đã nằm ở hàng đầu. Hơn nữa,
tình hình đang thúc giục cách cấp bách. Chắc chắn vào năm 1971, người ta vẫn
còn ở đỉnh cao của làn sóng tăng trưởng ngoạn mục đánh dấu các nền kinh tế được
công nghiệp hoá từ sau chiến tranh. Chỉ vào năm 1973 mới xảy ra vụ “sốc” dầu
hoả đầu tiên. Tuy nhiên, đã có cuộc “bất ổn văn minh” đáng lo ngại này vào cuối
thập niên 60, báo hiệu cuộc khủng hoảng. Nhưng nhất là hố ngăn cách được đào
sâu giữa Phương Tây vẫn còn đang phát triển và thế giới thứ ba, đang bị thất
bại cay đắng trong niềm hy vọng phát triển nhanh chóng. Thập niên phát triển
đầu tiên của Liên Hiệp Quốc, bao gồm những năm 60, đã không giữ được lời hứa
của mình. (Vả lại, thập niên đó hẳn đã có thể (phát triển) được chăng? Phải
chăng người ta đã không khuyến khích vài ảo tưởng về sự dễ dàng của “các cuộc
thoát khỏi tình trạng lạc hậu”?). Một thập niên thứ hai vừa mới bắt đầu, trong
một bầu khí khá suy sút. Có cảm giác rằng có điều gì đó thực sự không ổn trong
hệ thống các quan hệ kinh tế quốc tế. Đàng khác, một cơn giận cách mạng dữ dội
đã bùng lên trong những năm gần đây. Nó được biểu tượng hoá, nếu người ta muốn,
bởi số phận của Che Guevara, bộ trưởng Thương Mại Cu-ba, người đã quay về với
nhóm du kích quân và đã bị giết vào năm 1967, ở Bô-li-vi-a.
***
Các Thượng Hội Đồng liên tiếp kể từ Công đồng
Vatican II đã thể hiện một sự “giải Tây Phương hoá” dần dần của Giáo Hội, các
giám mục Châu Mỹ La-tinh, Châu Phi và Châu Á trở nên ngày càng đông và ngày
càng tự tin. Điều này chỉ khởi đầu vào năm 1971. Vậy mà người ta có cảm giác
rằng chính vấn đề về công bằng quốc tế như những người thuộc thế giới thứ ba
nhận thấy, mới chi phối cuộc tranh luận của Thượng Hội Đồng về Công bằng trên thế giới. Người ta đang
ở khá xa Octogesima Adveniens,
Tông Thư gửi hồng y
Một khái niệm quan trọng, ngay từ đầu cuộc
thảo luận của Thượng Hội Đồng, là khái niệm tố cáo những bất công. Vả lại, báo
cáo viên mời các Nghị Phụ tố cáo các bất công trong Giáo Hội, chứ không chỉ ở
những nơi khác. Một đoạn văn tự phê bình do đó sẽ được duy trì ngay cả trong
văn kiện chung quyết.
Nhưng đã có nhiều khó khăn đối với các bản
kiến nghị riêng biệt tố cáo những bất công nhắm đến nước này hay nước kia: ví
dụ như Nam Phi đối với nạn phân biệt chủng tộc, Ít-ra-en đối với việc chiếm các
Nơi thánh, Liên Bang Xô-Viết đối với cách đối xử các người Công giáo U-krai-na,
… Các Nghị Phụ đã kết luận rằng việc tố cáo các bất công riêng biệt phải là
công việc của các Giáo Hội địa phương, biết rõ trực tiếp các hoàn cảnh.
***
Công việc soạn thảo trong Thượng Hội Đồng được
một nhóm các Giám Mục điều hành: Đức cha Torrella Cascante, phó chủ tịch Hội
Đồng giáo dân và của Uỷ ban Giáo hoàng “Công Lý và Hoà Bình”; Đức cha Plourde (
***
Tài liệu chung kết dưới đây được trình bày
thành ba phần:
I. Một phân tích về sự hỗn độn của thế giới
(“Công bằng và xã hội thế giới”).
II. Một suy tư thần học về mối liên hệ giữa hy
vọng và sự giải phóng trần thế của nhân loại (“Sứ điệp Thánh Kinh và sứ mạng
của Giáo Hội”).
III. Vài hướng đi cho việc chứng tá và hành động
hiệu quả, nhất là có tính giáo dục, đối với các bất công hiện nay (“thực hành
sự công bằng”).
***
Ngoài những vấn đề bất công quốc tế tương xứng
với các ngõ cụt của sự phát triển, vốn nằm ở trung tâm các mối bận tâm, cần
phải nêu lên lợi ích rất lớn mà Thượng Hội Đồng đã mang lại cho khái niệm thần
học về “giải phóng” – sẽ được Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI nói lại sau đó trong
Tông huấn Evangelii nuntiandi,
được công bố vào năm 1975 tiếp sau Thượng Hội Đồng 1974–, cũng như cho vấn đề
giải giáp vũ khí và vấn đề thăng tiến phái nữ (dù rằng đoạn văn liên quan đã bị
làm yếu đi vào giờ chót).
Đối với thẩm quyền của văn kiện, cần ghi nhận
rằng Đức Thánh Cha, dường như sau khi có dự kiến riêng, đã từ chối trao cho
Thượng Hội Đồng một “lá phiếu biểu quyết”.[2] Một văn kiện như thế dĩ nhiên
mang tính chất tham vấn. Sau đó, Đức Giáo Hoàng đã công bố văn kiện, như chúng
tôi đã ghi nhận, nhưng ngài không muốn bênh vực nó cách trực tiếp bằng thẩm
quyền của mình – kể ra là hành động cùng cách đối với văn kiện về Thừa Tác Vụ Linh Mục. Chỉ dụ công bố
nói rằng Đức Giáo Hoàng “tiếp nhận và xác
nhận mọi kết luận mà, trong hai văn kiện, đều tương hợp với các chuẩn mực hiện
hành”. Điều này muốn nói rằng chúng phải được giải thích bởi các
văn kiện có thẩm quyền hiển nhiên hơn.
***
Văn kiện Công
bằng trên thế giới không gây ảnh hưởng sâu rộng lắm nơi các Giáo
Hội tại các nước Phương Tây. Có phải đó là do tính kịch liệt của ngôn từ được
dùng nói với các nước giàu? Ví dụ như những câu này: “Chúng tôi lấy làm tiếc việc hoàn toàn từ bỏ ý tưởng
chia sẻ và trách nhiệm toàn cầu này từ phía các nước giàu (được ghi khắc trong
các mục tiêu của thập niên phát triển thứ hai). Chúng tôi hy vọng rằng một sự
sa sút như thế về liên đới quốc tế sẽ không làm mất đi mọi nỗ lực thảo luận về
thương mại được chuẩn bị bởi Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát
triển (CNUCED).”
Ở những môi trường của Giáo Hội, người ta cảm
thấy thoả mãn hơn nhiều, nhất là ở Châu Mỹ La-tinh, Châu Phi và Châu Á, những
nơi nhạy cảm trực tiếp đối với các vấn đề bất công kinh tế quốc tế. Cũng cần
ghi nhận một tầm ảnh hưởng đặc biệt của Công
bằng trên thế giới trong việc soạn thảo văn kiện “Phục Vụ Đức Tin và Thăng Tiến Công Bằng”
của Tổng Công Nghị lần thứ XXXII của Dòng Tên (1975). Ở đây, có một nhân tố gợi
hứng rất quan trọng. Công Nghị đã tuyên bố “ việc
thăng tiến công bằng” là “đòi buộc tuyệt đối” của việc phục vụ
đức tin, y như Thượng Hội Đồng đã định rõ “cuộc
đấu tranh cho công bằng và việc tham gia biến đổi thế giới” thuộc “chiều kích cấu thành của việc rao giảng Tin Mừng”.
***
Đàng khác, quả thật, nếu văn kiện của Thượng
Hội Đồng không nhận được sự đón nhận đầy ấn tượng trong toàn thể Giáo Hội, thì
ít ra nó đã ảnh hưởng đáng kể trên những vấn đề đặt ra của Thượng Hội Đồng tiếp
theo (1974), dành cho công cuộc Phúc Âm hoá, được đánh dấu đậm nét bởi vấn đề “giải phóng” cũng như vấn đề đấu tranh
cho công bằng. Vả lại, ở đây người ta lại bàn về những hạn từ “chiều kích cấu thành” (“dimension
constitutive”) được nhắc lại ở đoạn trước, vì nhiều người nghĩ rằng “chiều kích bộ phận” (“dimension
intégrante”) diễn đạt chính xác hơn mối liên hệ phải tồn tại giữa cuộc đấu
tranh cho công bằng và việc rao giảng Tin Mừng.
Bất chấp sự lãng quên tương đối mà từ đó văn
kiện của Thượng Hội Đồng gặp phải, cuộc thảo luận năm 1971 về Công bằng trên thế giới vẫn còn là một
giai đoạn ý nghĩa. Chắc chắn không có văn kiện nào của Giáo Hội đã mạnh mẽ nhắm
thẳng những bất công đáng lo ngại trên toàn thế giới như thế, mà thế giới vẫn
chưa thoát khỏi. Và sẽ thật đáng tiếc nếu hướng nghiên cứu này không được theo
đuổi, và nếu chúng ta không tiếp tục nghiên cứu một số con đường được Thượng
Hội Đồng khai mở: hoặc về chứng tá mà Giáo Hội phải thể hiện, bằng nhiều phương
thế, đối với công bằng; hoặc vấn đề “giáo
dục về công bằng”; cũng như về những trách nhiệm của các dân tộc,
các chính phủ, các tổ chức quốc tế để đẩy lùi bất công trên thế giới.
Jean-Yves Calvez
MỤC LỤC
Dẫn nhập
(số 1-7)
I. CÔNG BẰNG VÀ XÃ HỘI THẾ
GIỚI
Cuộc
khủng hoảng liên đới toàn cầu (8-13)
Quyền
được phát triển (14-20)
Những
bất công khôn tả (21-31)
II. SỨ ĐIỆP THÁNH KINH VÀ
SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI (32)
Công
lý cứu độ của Thiên Chúa nhờ Chúa Kitô (33-38)
Sứ
mạng của Giáo Hội, phẩm trật và các Kitô hữu (39-41)
III. THỰC HÀNH SỰ CÔNG
BẰNG
Chứng
tá của Giáo Hội (42-51)
Giáo
dục về công bằng (52-61)
Sự
hợp tác giữa các Giáo Hội địa phương (62-63)
Sự
cộng tác đại kết (64-65)
Hành
động quốc tế (66-74)
Những
ước mong của Thượng Hội Đồng (75-76)
IV. NIỀM HY VỌNG (77-80)
CÔNG BẰNG TRÊN THẾ GIỚI
Văn kiện được các Nghị Phụ của Đại Hội
Đồng lần thứ hai của Thượng Hội Đồng Giám Mục thông qua và được Đức Thánh Cha
Phaolô VI công bố
DẪN NHẬP
1. Nhóm họp từ khắp thế giới, trong sự hiệp thông với tất cả những ai tin
vào Chúa Giêsu-Kitô và với toàn thể gia đình nhân loại, trong sự ứng trực cho
Chúa Thánh Thần, Đấng làm nên mọi sự mới mẻ, chúng tôi đã tự vấn về sứ mạng của
Dân Thiên Chúa đối với việc thăng tiến công bằng trên thế giới.
2. Trong khi khám phá các dấu chỉ của thời đại và tìm cách phân định ý nghĩa
của lịch sử đang diễn ra, khi chia sẻ những khát vọng và những vấn nạn của tất
cả những ai muốn một thế giới nhân bản hơn, chúng tôi đã đặt mình lắng nghe Lời
Chúa để hoán cải bản thân nhằm thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài trên thế
giới.
3. Cho dầu việc đào sâu phân tích tình hình thế giới không phải là phạm vi
của chúng tôi, thế nhưng chúng tôi đã có thể đánh giá được những bất công
nghiêm trọng đang dệt nên một mạng lưới những thống trị, những áp bức, những
bóc lột trên mảnh đất nhân sinh. Chúng bóp nghẹt các quyền tự do và ngăn cản
một phần lớn nhân loại tham dự vào việc xây dựng và vui hưởng một thế giới công
bằng và huynh đệ hơn.
4. Nhưng đồng thời chúng tôi cũng đã nhận thấy một phong trào ngấm ngầm đang
nổi lên và đang nâng dậy thế giới. Có những thành quả đã đóng góp vào sự tiến
bộ trong công bằng. Trong các nhóm người hay các dân tộc, có một ý thức đang
thức tỉnh, đẩy lùi sự nhẫn nhục hay thuyết định mệnh, dẫn đưa họ đến sự giải
thoát chính mình và đảm nhận số phận của mình. Những phong trào đang xuất hiện,
biểu lộ hy vọng về một thế giới tốt hơn và ý muốn biến đổi những gì đã từng trở
nên bất bao dung.
5. Khi lắng nghe tiếng kêu của những ai đang chịu cưỡng bức và bị đè bẹp bởi
những hệ thống và những cơ chế bất công, chẳng khác nào như thách đố của một
thế giới mà sự băng hoại của nó đi ngược với kế hoạch của Đấng Tạo Hóa, chúng
tôi đã cùng nhau ý thức về ơn gọi của Giáo Hội hiện diện giữa lòng thế giới để
loan báo Tin Mừng cho người nghèo, sự giải thoát cho người bị áp bức, niềm vui
cho người sầu khổ.
6. Những hy vọng và sức mạnh đang xâm chiếm thế giới cách sâu xa không hề xa
lạ với sự năng động của Tin Mừng mà, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, giải
thoát con người khỏi tội lỗi cá nhân của mình và khỏi những hậu quả của nó
trong đời sống xã hội.
7. Chúng tôi hướng sự bấp bênh của lịch sử, như những tích hợp đau khổ đang
xảy ra trên con đường tiến triển của cộng đồng nhân loại, đến Lịch Sử thánh mà
Thiên Chúa đã tỏ mình cho chúng ta, bằng cách biểu lộ cho chúng ta kế hoạch
giải thoát và cứu độ của Ngài, được thực hiện, một lần cho tất cả, trong cuộc
Vượt Qua của Chúa Kitô. Cuộc đấu tranh cho công bằng và việc tham gia biến đổi
thế giới xuất hiện, đối với chúng tôi, như là một chiều kích cấu thành của việc rao giảng Tin Mừng là
chính sứ mạng của Giáo Hội để cứu rỗi nhân loại và giải thoát nó khỏi hoàn cảnh
áp bức.
I. CÔNG BẰNG VÀ XÃ HỘI THẾ
GIỚI
Cuộc khủng hoảng liên đới toàn cầu
8. Thế giới mà Giáo Hội đang sống và hành động là tù nhân cho một thứ nghịch
lý đáng sợ. Chưa bao giờ các sức lực đang làm việc cho sự lên ngôi của một xã
hội thế giới thống nhất đã tỏ ra mạnh mẽ và năng động như thế; chúng có cội rễ
nơi ý thức về sự bình đẳng căn bản trọn vẹn và nhân phẩm của mọi người. Con
người, thành viên của chính gia đình nhân loại, được gắn liền với nhau trong số
phận duy nhất của hành tinh mà nó phải chia sẻ trách nhiệm.
9. Những khả năng công nghệ kỹ thuật mới dựa vào sự thống nhất của khoa học,
vào tính toàn cầu và tính đồng thời của sự tương giao và vào sự hình thành của
một thế giới kinh tế hoàn toàn độc lập. Như thế, con người bắt đầu nắm lấy một
chiều kích mới mẻ và triệt để hơn của sự thống nhất khi khám phá ra rằng các
tài nguyên, các tổng thể quý giá không khí và nước cần thiết cho sự sống,
« bầu sinh quyển » nhỏ bé và mong manh của tất cả những gì đang sống
trên trái đất, không phải là vô hạn, nhưng trái lại chúng phải được bảo quản và
gìn giữ như là gia sản độc nhất của toàn thể nhân loại.
10. Sự nghịch lý ở chỗ, trong viễn ảnh thống nhất này, các lực chia rẽ và đối
kháng càng ngày càng gia tăng áp lực của chúng. Những chia rẽ trước đây giữa
các quốc gia và các đế quốc, giữa các chủng tộc và giai cấp, giờ đây sở hữu
những phương tiện kỹ thuật hủy diệt mới mẻ ; cuộc chạy đua vũ trang nhanh
chóng đang đe dọa thiện ích lớn lao nhất của con người là sự sống ; nó làm
cho người nghèo, các dân tộc hay các cá nhân, còn nghèo hơn nữa và chỉ làm giàu
cho những kẻ đã có quyền thế rồi ; nó sinh ra một nguy cơ chiến tranh
thường xuyên mà, trong trường hợp vũ khí hạt nhân, đe dọa hủy diệt sự sống trên
trái đất. Đồng thời, có những chia rẽ mới đang xuất đầu lộ diện để chia rẽ con
người với tha nhân của mình. Tác động của trật tự công nghệ và kỹ thuật mới,
nếu nó không được khắc phục và vượt qua bởi hoạt động xã hội và chính trị, sẽ
tạo điều kiện cho việc tập trung của cải, quyền lực, quyền quyết định, vào tay
của một nhóm lợi ích lãnh đạo, tư hay công. Sự bất công kinh tế và việc thiếu
sự tham gia xã hội tước đoạt việc thực thi các quyền căn bản của con người và
xã hội.
11. Niềm hy vọng, được lan rộng trong suốt hai mươi lăm năm qua – đó là việc
tăng trưởng kinh tế có thể tạo nên một lượng lớn tài nguyên đến nỗi nó cho phép
người nghèo được ăn những vụn bánh từ bàn ăn rơi xuống – đã tỏ ra vô hiệu nơi
các nước đang phát triển và nơi các ốc đảo nghèo nàn của các nước phát triển,
bởi sự gia tăng nhanh chóng dân số và nhân công, bởi tình trạng trì trệ ở nông
thôn và việc thiếu những cải cách ruộng đất, bởi sự di trú hàng loạt đến các
thành thị trong đó các nền công nghiệp, với mật độ tư bản dày đặc, cung ứng
việc làm quá ít ỏi, đến độ đôi khi nhiều người lao động không có việc làm. Tất
cả các áp lực cưỡng bức này liên tục tạo nên những đám đông « những người
bên lề xã hội » thiếu ăn, phải ở trong những điều kiện phi nhân, mù chữ,
bị tước đi khả năng chính trị như là những điều kiện cần thiết cho trách nhiệm
hay cho phẩm giá luân lý.
12. Vả lại, nhu cầu về các nguồn tài nguyên và năng lượng nơi các nước giàu
hơn – theo chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội – (cũng như những hệ quả của
việc đổ chúng vào không khí hay đại dương) đến nỗi các yếu tố thiết yếu của đời
sống trần thế là không khí và nước uống, có thể bị tàn phá cách vô phương cứu
chữa nếu các định mức tiêu thụ và ô nhiễm cao không ngừng gia tăng, lại được mở
rộng cho toàn thể nhân loại.
13. Sức đẩy mạnh mẽ hướng đến sự thống nhất toàn cầu, sự phân chia bất đồng
đều đang để việc kiểm soát ba phần tư các lợi tức, sự đầu tư và thương mại, chỉ
cho một phần ba dân số thế giới mà thôi, một phần ba mà đã hưởng tỉ suất tăng
trưởng rồi – cũng như sự thất bại của việc phát triển thuần túy kinh tế và sự
hiểu biết mới mẻ về những hạn chế vật chất của « sinh quyển » – đã
dẫn chúng ta đến chỗ ý thức sự kiện rằng đang nổi lên trong thế giới hiện đại
những phương thức mới quan niệm về phẩm giá con người.
Quyền được phát triển
14. Đối diện với những hệ thống thống trị quốc tế, việc thực thi công bằng
càng ngày càng gắn kết với ý muốn thăng tiến.
15. Trong các quốc gia đang phát triển, và trong thế giới mang danh xã hội chủ nghĩa, trước tiên ý muốn
thăng tiến được khẳng định trong cuộc chiến đấu cho những hình thức đòi hỏi và
phát biểu mà chính sự tiến triển của hệ thống kinh tế sinh ra.
16. Khát vọng công bằng này được khẳng định trong bước chuyển qua ngưỡng cửa
mà bắt đầu ý thức về một “giá trị hơn và người hơn” (cf. Populorum progressio, 15) cho toàn thể
con người và cho mọi người: khát vọng này được bộc lộ trong sự nhận thức về
quyền được phát triển. Người ta phải thừa nhận quyền này trong sự thâm nhập
năng động lẫn nhau của tất cả các quyền căn bản của con người, trên đó những
khát vọng của các cá nhân và các quốc gia được xây dựng.
17. Thế nhưng, ước muốn này sẽ không thể lấp đầy những ước nguyện của thời
đại chúng ta nếu nó không biết đến những trở ngại khách quan mà các cơ cấu xã
hội sử dụng để đối lại việc cải hóa lòng người, hoặc đối lại việc thực hiện
hoàn thành một lý tưởng bác ái. Khát vọng này đòi hỏi vượt lên một tình trạng
chung những người sống ngoài lề xã hội, những phong tỏa và những vòng luẩn quẩn
đang trở thành những hệ thống, ngăn cản sự thăng tiến tập thể nhờ hưởng được
thù lao thích đáng của hoạt động sản xuất và tăng thêm sự bất bình đẳng trong
việc tiếp cận những dịch vụ và phúc lợi xã hội đối với phần lớn dân chúng. Nếu
các quốc gia và các vùng đang phát triển thất bại trong cuộc giải phóng họ bằng
việc phát triển, thì có một nguy cơ thật sự khiến hoàn cảnh của họ, chủ yếu do
sự thống trị thực dân tạo ra, tiến triển thành một chủ nghĩa thực dân mới, trong đó các quốc gia đang phát triển
sẽ là nạn nhân của cuộc chơi của các quyền lực kinh tế quốc tế. Như vậy, trước
tiên quyền được phát triển này là quyền được hy vọng, được biểu lộ cách tương
xứng cụ thể đối với thế hệ chúng ta. Để giải đáp vấn đề này, cần phải giải
phóng ý tưởng thay đổi những truyền thuyết và những niềm tin sai lạc mà một cơ
cấu tâm thức tù nhân của một khái niệm định
mệnh thuyết và máy móc nào đó về tiến bộ vẫn còn lưu truyền.
18. Khi đảm nhận vận mệnh của mình trong một ý muốn thăng tiến, các dân tộc
đang phát triển – thậm chí nếu họ không đạt đến kết quả cuối cùng – sẽ thể hiện
cách đích thực sự nhân cách hóa của mình. Để đương đầu với những quan hệ bất
bình đẳng của vấn đề toàn cầu hiện nay, một chủ
nghĩa quốc gia hữu trách
mang lại cho họ nhiệt huyết cần thiết để đạt tới căn tính của mình. Chính từ sự tự quyết nền tảng này mà có thể nảy
sinh những nỗ lực sáp nhập những tập hợp chính trị mới khả dĩ làm cho sự phát
triển toàn vẹn của mình đứng vững được, nảy sinh những biện pháp cần thiết để
cất đi những trì trệ cản trở sự phát triển này – như trong một số trường hợp
việc áp lực dân số – hoặc nảy sinh những hy sinh mới mà việc kế hoạch hóa gia
tăng đòi hỏi nơi một thế hệ để xây dựng tương lai.
19. Mặt khác, người ta không thể ấp ủ một sự thăng tiến thật sự mà không nhận
ra sự cần thiết – nơi một chính sách đòi hỏi – về một sự phát triển bao gồm cả
tăng trưởng kinh tế và sự dự phần chung chia; về một sự làm giàu mà cùng lúc
kéo theo tiến bộ xã hội của toàn thể cộng đồng, trong sự vượt quá những chênh
lệch vùng và những lãnh thổ phồn thịnh nằm trong những lãnh địa khác (enclaves
de prospérité). Nhưng sự dự phần chung chia tự nó là một quyền phải được áp
dụng trong lĩnh vực kinh tế cũng như trong lĩnh vực xã hội hoặc chính trị.
20. Trong khi một lần nữa tái khẳng định quyền được có căn tính của các dân
tộc, chúng ta cũng khám phá cách rõ ràng hơn rằng không thể chống chọi lại việc
hiện đại hóa có tính phi nhân bằng việc chỉ nại đến những tập quán lịch sử bất
khả xâm phạm và những lối sống đáng trân trọng mà thôi. Trái lại, chính khi đón
nhận tính hiện đại để biến nó phục vụ cho thiện ích quốc gia mà sẽ có thể tạo
ra một nền văn hóa có khả năng xây dựng một “ký
ức xã hội” hành động đích thực, sáng tạo một nhân cách đích thực,
trong sự đồng lòng giữa các quốc gia.
Những bất công khôn tả
21. Chúng ta nhận thấy trong thế giới một loạt những bất công làm nên điểm
mấu chốt của những vấn đề của thời đại chúng ta, và để giải quyết những vấn đề
này đòi hỏi phải có những nỗ lực và trách nhiệm của mọi thành phần trong xã
hội, nhất là đối với những vấn đề liên quan đến xã hội toàn cầu mà chúng ta
đang tiến tới trong những năm hậu bán thế kỷ XX. Như vậy, chúng ta phải sẵn
sàng đảm nhận những trách nhiệm và những công việc phục vụ mới trong mọi lĩnh
vực của sinh hoạt nhân loại, và đặc biệt là trong lãnh vực của xã hội toàn cầu
này, nếu chúng ta thật sự muốn công bằng trở nên hiện thực. Hành động của chúng
ta trước hết phải hướng về những con người và những quốc gia mà, do những hình
thức áp bức khác nhau và do đặc tính hiện thời của xã hội chúng ta, là những
nạn nhân của sự bất công thầm lặng và thậm chí bị tước mất khả năng được lắng
nghe.
22. Chẳng hạn, đó là trường hợp của những người di trú, rất thường bị bó buộc
phải rời bỏ quê hương để đi tìm việc làm, mà ở nhiều nơi, cánh cửa khép lại
trước mắt họ vì các thái độ phân biệt đối xử, hay nếu được phép vào, thì họ
thường buộc phải sống trong tình trạng bất an, đồng thời bị đối xử hạ thấp nhân
phẩm. Cũng thế, đối với các nhóm bị gán cho một trình độ thăng tiến xã hội thấp
hơn, chẳng hạn như các thợ thuyền và nhất là những nông dân; thế nhưng họ lại
góp một phần lớn trong quá trình tiến bộ. Đặc biệt đáng tiếc là trường hợp của
hàng triệu người tị nạn, của tất cả các nhóm hay dân tộc bị bách hại – thường
dưới cách thức được thể chế hoá – do nguồn gốc chủng tộc, sắc tộc hay bộ tộc
của họ. Những sự bách hại như thế vì lý do nguồn gốc thậm chí có thể dẫn đến
những cuộc diệt chủng thật sự.
23. Cũng vậy, trong nhiều vùng, sự công bằng bị nhạo báng một cách nghiêm
trọng nơi những người bị bách hại vì niềm tin của họ hay nơi những người bị áp
bức không ngừng và dưới nhiều cách thức khác nhau, bởi các nhóm chính trị và
chính quyền, tuân theo sự tuyên truyền vô thần áp đặt hay bị tước đi quyền tự
do tôn giáo: hoặc là họ bị từ chối không cho công khai thờ phượng Thiên Chúa,
hoặc họ bị cấm giảng dạy công khai hay truyền bá niềm tin của mình, hoặc họ bị
cấm chế mọi hoạt động trần thế tuân theo các nguyên tắc của tôn giáo mình.
24. Công bằng bị cũng bị vi phạm bởi những hình thức áp bức mới phát xuất từ
những hạn chế các quyền cá nhân, từ những trấn áp do bởi chính quyền cũng như
từ những bạo lực do những phản ứng riêng tư – cho đến những điều kiện cơ bản
của sự toàn vẹn bản thân. Người ta biết rõ những trường hợp tra tấn, đặc biệt
là đối với những tù nhân chính trị, mà thường bị từ chối xét xử theo tiến trình
thông thường, hay phải chịu xét xử một cách độc đoán. Cũng không được quên
những tù nhân chiến tranh mà, ngay sau Hiệp Ước Genève, đã bị đối xử một cách
phi nhân.
25. Sự tranh luận về sự hợp pháp hóa việc phá thai, về sự bắt buộc dùng những
phương tiện tránh thai và những áp lực chống chiến tranh là những hình thức
biểu trưng của yêu sách đòi quyền sống.
26. Mặt khác, ý thức của thời đại chúng ta đòi hỏi sự thật trong các hệ thống
truyền thông xã hội, điều mà được thể hiện bằng một quyền được các phương tiện
truyền thông đại chúng trình bày một hình ảnh khách quan, và vì thế quyền có
thể sửa chữa sự thao túng nó.
27. Cũng cần phải nhấn mạnh đến quyền, nhất là đối với trẻ em và người trẻ, được
giáo dục, được hưởng các điều kiện sống và được sử dụng các phương tiện truyền
thông lành mạnh về mặt luân lý, một lần nữa đang bị đe doạ trong thời đại của
chúng ta.
28. Vai trò của các gia đình trong đời sống xã hội chỉ được nhìn nhận cách
hiếm hoi và không đầy đủ bởi chính quyền.
29. Cũng không được quên con số đang gia tăng những người bị gia đình hay xã
hội bỏ rơi: những người già, trẻ mồ côi, những người tàn tật và tất cả những
người bị bỏ rơi.
30. Để thực hiện sự thống nhất mà một xã hội nhân bản toàn cầu đòi hỏi và
đang tìm kiếm, vai trò của các trung gian là cần thiết để một ngày nào đó vượt
qua những đối lập, những cản trở và những cấu trúc lỗi thời mà chúng ta gặp
phải trên con đường dẫn đến một xã hội nhân bản hơn.
31. Nhưng một trung gian hiệu quả phải bao gồm việc tạo nên một bầu khí đối
thoại. Để thực hiện nó dần dần, tất cả mọi người phải có thể gặp nhau mà không
phải chịu sự cưỡng ép về những điều kiện địa lý chính trị, ý thức hệ, kinh
tế-xã hội hay những rào cản giữa các thế hệ. Để khôi phục ý nghĩa cuộc
sống bằng việc gắn bó với các giá trị đích thực, sự tham gia và chứng tá của
những người trẻ là cần thiết như sự trao đổi giữa các dân tộc.
II. SỨ ĐIỆP THÁNH KINH VÀ
SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI
32. Đứng trước tình trạng của thế giới hiện nay, được đánh dấu bởi tội bất
công ngày càng nhiều, một mặt chúng ta cảm thấy trách nhiệm của mình và, mặt
khác, cũng cảm thấy bất lực trong việc loại bỏ bất công này. Tình trạng này mời
gọi chúng ta lắng nghe Lời Thiên Chúa với thái độ khiêm nhường và cởi mở tâm
trí. Chính Lời Chúa sẽ chỉ ra cho chúng ta những con đường mới mẻ cho hành động
của mình trong thế giới.
Công lý cứu độ của Thiên Chúa nhờ Chúa
Kitô
33. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa tự mặc khải cho chúng ta như là Đấng giải thoát
những người bị áp bức và là Đấng bảo vệ những người nghèo khổ. Ngài đòi hỏi con
người tin vào Ngài và sống công bằng đối với tha nhân. Chỉ những ai thực thi
những nghĩa vụ công bằng đối với con người thì mới thực sự nhận biết Thiên
Chúa, Đấng giải thoát những người bị áp bức.
34. Trong hành động và sứ điệp của mình, Chúa Kitô đã nối kết một cách không
thể phân chia mối tương quan của con người với Thiên Chúa và mối tương quan
giữa con người với nhau. Chúa Kitô đã sống cuộc sống của mình nơi trần thế này,
trong sự trao hiến hoàn toàn chính mình cho Thiên Chúa vì loài người. Trong sứ
điệp của mình, Ngài đã công bố tình phụ tử của Thiên Chúa cho tất cả mọi người,
và sự can thiệp của công lý của Thiên Chúa đối với những người nghèo khổ và
những người bị áp bức (x. Lc 6,21-23). Ngài đã liên đới với “những người anh em
bé nhỏ nhất” của mình, đến độ đã nói: “mỗi
lần các ngươi làm như thế cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Ta
đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
35. Giáo Hội sơ khai đã sống và hiểu biến cố tử nạn và phục sinh của Chúa
Kitô như là lời Thiên Chúa mời gọi hoán cải tin vào Chúa Kitô và yêu thương anh
em, được thực hiện nhờ sự giúp đỡ hỗ tương cho đến độ đặt mọi sự làm của chung.
36. Niềm tin vào Chúa Kitô, Con Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ, và tình yêu tha
nhân, là một chủ đề nền tảng của các bản văn Tân Ước. Thánh Phaolô tổng hợp
toàn bộ cuộc sống của người Kitô hữu trong đức tin, được thực hiện trong đức
mến và trong việc phục vụ tha nhân, mà bao hàm cả những nghĩa vụ về công bằng.
Người Kitô hữu sống theo luật của sự tự do nội tâm, trong lời mời gọi thường
xuyên hoán cải triệt để từ sự tự mãn của mình đến tin tưởng vào Thiên Chúa, và
từ tính ích kỷ của mình đến tình yêu tha nhân vô vị lợi. Đó là sự giải thoát
đích thực của người Kitô hữu và là sự dấn thân của họ cho công cuộc giải thoát
những người khác.
37. Sứ điệp của Kitô giáo sáp nhập thái độ của con người đối với tha nhân vào
trong chính thái độ của nó đối với Thiên Chúa: lời đáp trả của con người đối
với tình yêu của Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta qua Chúa Kitô, chỉ trở nên
hữu hiệu nhờ tình yêu và việc phục vụ tha nhân. Tình yêu tha nhân và sự công
bằng không thể tách rời nhau được. Trên hết, tình yêu đòi buộc tuyệt đối công
bằng, nghĩa là thừa nhận phẩm giá và các quyền của tha nhân. Về phần nó, công
bằng chỉ đạt đến sự tròn đầy nội tâm trong tình yêu mà thôi. Bởi vì mọi người
là hình ảnh hữu hình của Thiên Chúa vô hình và là người anh em của Chúa Kitô,
nên người Kitô hữu nhận thấy nơi mỗi người chính Thiên Chúa với những đòi buộc
tuyệt đối của Ngài về công bằng và tình yêu.
38. Hoàn cảnh hiện nay của thế giới, xét dưới ánh sáng đức tin, mời gọi chúng
ta quay trở về với chính cốt lõi của Kitô giáo, và cho phép chúng ta đạt được
một ý thức mới về ý nghĩa thực sự và những đòi hỏi cấp bách của nó. Sứ mạng
loan báo Tin Mừng ngày hôm nay đòi hỏi sự dấn thân triệt để cho công cuộc giải
phóng toàn vẹn con người, ngay từ bây giờ, trong chính thực tại hiện sinh của
nó trong thế giới này. Thật vậy, nếu sứ điệp tình yêu và công bằng của Kitô
giáo không được thể hiện trong hành động vì sự công bằng trên thế giới, thì nó
xem ra khó tin đối với con người người hôm nay.
Sứ mạng của Giáo Hội, phẩm trật và các
Kitô hữu
39. Giáo Hội đã nhận từ Chúa Kitô sứ mạng loan báo sứ điệp Tin Mừng,
bao gồm ơn gọi hoán cải từ tội lỗi đến tình yêu của Chúa Cha, tình huynh đệ phổ
quát, và qua đó, sự đòi buộc công lý trên thế giới. Vì thế Giáo Hội có quyền và
bổn phận công bố sự công bằng ở bình diện xã hội, quốc gia và quốc tế, và tố
cáo các tình trạng bất công khi các quyền lợi cơ bản và chính ơn cứu độ con
người đòi buộc. Giáo Hội không phải là thực thể duy nhất chịu trách nhiệm về
công bằng trên thế giới; tuy nhiên trong lĩnh vực này, Giáo Hội có một trách
nhiệm đặc thù và riêng biệt, được đồng nhất với sứ mạng làm chứng trước mặt thế
gian về sự đòi buộc bác ái và công bình được chứa đựng trong sứ điệp Kitô giáo,
lời chứng mà Giáo Hội sẽ phải thực hiện trong các thể chế riêng của mình và
trong đời sống các tín hữu.
40. Giáo Hội, với tư cách là cộng đồng tôn giáo và phẩm trật, không có các
giải pháp cụ thể về trật tự xã hội, chính trị hay kinh tế cho sự công bằng trên
thế giới. Nhưng sứ mạng của Giáo Hội bao hàm việc bảo vệ và thăng tiến phẩm giá
và các quyền căn bản của nhân vị.
41. Các thành viên của Giáo Hội, cũng như các thành viên của xã hội dân
sự, có quyền và nghĩa vụ theo đuổi công ích như các công dân khác. Các Kitô hữu
phải hoàn thành các trách nhiệm trần thế của họ bằng khả năng và sự thành tín.
Họ phải hành động như chất men trong cuộc sống gia đình, nghề nghiệp, xã hội,
văn hoá và chính trị của họ. Trong tất cả các lĩnh vực này, chính họ phải nhận
trách nhiệm riêng của mình, bằng cách để mình được dẫn dắt bởi tinh thần của
Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội. Họ cũng làm chứng về quyền năng của Chúa
Thánh Thần trong hành động phục vụ anh chị em của họ, ở những nơi mà cuộc sống
và tương lai của họ thể hiện. Trong các hoạt động này, nói chung họ tự nguyện
hành động mà không lôi kéo theo trách nhiệm của hàng giáo phẩm của Giáo Hội;
tuy nhiên, ở đây, họ dấn thân cách nào đó trách nhiệm của Giáo Hội, bởi vì họ
là thành viên.
III. THỰC HÀNH SỰ
CÔNG BẰNG
Chứng tá của Giáo Hội
42. Nhiều Kitô hữu được thúc đẩy tới những
lời tuyên xưng đích thực về sự công bằng qua những lối hành động
khác nhau vì công bằng, được thôi thúc bởi lòng bác ái theo ân sủng nhận được
từ Thiên Chúa. Đối với một số người, hành động này nằm trong lãnh vực của những
cuộc xung đột xã hội hay chính trị trong đó các Kitô hữu làm chứng cho Tin Mừng
bằng cách cho thấy rằng, trong lịch sử, có chỗ cho các nguồn tiến bộ khác với
việc đấu tranh, đó là tình yêu và luật pháp. Sự ưu tiên cho tình yêu trong lịch
sử này đã dẫn các Kitô hữu khác thích chọn con đường hành động bất bạo động và
hành động trên công luận.
43. Nếu Giáo Hội phải làm chứng cho công bằng, thì Giáo Hội nhìn nhận rằng
bất cứ ai dám nói với người khác về sự công bằng, thì trước tiên họ phải sống
công bằng trước mắt những nguời đó. Vậy ở đây phải tra vấn một cách cẩn thận
các thủ tục, những thủ đắc và những nếp sống của Giáo Hội.
44. Các quyền trong nội bộ Giáo Hội phải được tôn trọng. Không một người nào
phải chứng kiến mình bị lấy đi những quyền thông thường đó, bởi vì họ được liên
kết với Giáo Hội bằng cách này hay cách khác. Những người làm việc cho Giáo Hội
– bao gồm các linh mục và tu sĩ – phải nhận được những phương tiện sinh kế đầy
đủ, và được hưởng các bảo hiểm xã hội, tùy theo những điều kiện của các nước
khác nhau. Phải dành cho giáo dân sự bình đẳng trong việc đối xử và trong việc
thăng tiến. Chúng ta nhấn mạnh để giáo dân có một vai trò thực thi quan trọng
hơn trong trách nhiệm đối với các tài sản của Giáo Hội và để họ được tham dự
vào việc quản lý các tài sản này.
45. Chúng tôi cũng muốn các phụ nữ đảm nhận phần trách nhiệm và tham dự riêng
của họ trong đời sống cộng đồng của xã hội và thậm chí của Giáo Hội.
46. Chúng tôi đề xuất thực hiện một cuộc nghiên cứu sâu xa đối với vấn đề này
bằng những phương thế thích hợp, chẳng hạn một ủy ban hỗn hợp những người nam
và nữ, tu sĩ và giáo dân thuộc các hoàn cảnh và những lãnh vực khác nhau.
47. Giáo Hội công nhận tất cả mọi người có quyền tự do ngôn luận và tư tưởng
đúng đắn, bao gồm cả quyền cho mọi người được lắng nghe trong một tinh thần đối
thoại tôn trọng của tính đa dạng chính đáng trong Giáo Hội.
48. Thủ tục tư pháp phải đảm bảo cho bị cáo có quyền biết những người tố cáo
họ và quyền được bào chữa thích hợp. Công bằng, để trọn vẹn, bao hàm một sự
nhanh chóng trong thủ tục. Điều này đặc biệt được yêu cầu đối với các vụ kiện
về hôn nhân.
49. Cuối cùng, các thành phần của Giáo Hội phải có một sự tham gia nào đó vào
việc chuẩn bị những quyết định, theo những chỉ thị được Công đồng Vatican II và
Tòa Thánh đưa ra, ví dụ để thành lập các hội đồng ở mọi cấp bậc.
50. Dù việc sử dụng các của cải vật chất là thế nào, nhưng đừng bao giờ đi
đến chỗ làm cho mơ hồ chứng tá của Tin Mừng mà Giáo Hội phải mang lại. Việc duy
trì một số tình trạng đặc quyền phải liên lỉ tuân theo tiêu chí của nguyên tắc
này. Nói chung, nếu còn khó khăn để vạch ra một giới hạn giữa những gì cần
thiết cho việc vận hành tốt và những gì mà một chứng tá ngôn sứ đòi hỏi, thì
vẫn còn một nguyên tắc cần được giữ vững: chính niềm tin của chúng ta đòi hỏi
chúng ta một sự điều độ nào đó trong việc sử dụng và Giáo Hội phải sống và quản
lý tài sản của mình làm sao để Tin Mừng được loan truyền cho những người nghèo.
Nếu sống khác đi, thì Giáo Hội sẽ xuất hiện như thuộc về những người giàu có và
những người quyền lực của thế giới này, và tính khả tín của Giáo Hội vì thế sẽ
bị hạ thấp.
51. Việc kiểm điểm lương tâm của chúng ta phải mở rộng ra cho nếp sống của mọi
người: giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân. Trong các nước nghèo, vấn đề
là tự hỏi liệu việc thuộc về Giáo Hội có làm cho bước vào một ốc đảo giàu có ở
giữa đại đa số những nghèo khổ không. Trong những xã hội tiêu thụ cao, câu hỏi
sẽ là liệu lối sống của chúng ta có mang lại mẫu gương về sự điều độ tiêu thụ
mà chúng ta đang giảng dạy cho người khác như là cần thiết để nuôi sống hàng
triệu người đói khổ trong thế giới này không.
Giáo dục về công bằng
52. Đời sống thường nhật của người tín hữu, giống như men Tin Mừng, ở nhà, ở
trường, ở công sở, trong đời sống xã hội và dân sự, cuộc sống đó là một sự đóng
góp đặc thù của người Kitô hữu vào sự công bằng – đồng thời đó cũng là những
viễn ảnh và ý nghĩa mà họ có thể mang đến cho nhiệm vụ của nhân loại. Nếu quả
như thế, thì lúc đó nền giáo dục cần được đưa ra phải là nền giáo dục có thể
đào tạo cho con người định hướng cuộc sống của mình, trong tính toàn diện của nó, theo những
nguyên tắc Tin Mừng về luân lý cá nhân và xã hội, được diễn tả qua chứng tá
Kitô hữu sống động.
53. Những ngăn trở đối với sự tiến bộ mà chúng ta mong muốn cho chính chúng
ta và cho mọi người là rõ ràng. Phương thức giáo dục hiện hành vẫn còn quá
thường tạo điều kiện cho một thứ chủ
nghĩa cá nhân hẹp hòi. Một bộ phận của gia đình nhân loại đang sống
chìm ngập trong não trạng cổ xuý cho sự chiếm hữu. Trường học và hệ thống
truyền thông, thường bị chi phối bởi trật tự hiện hành, chỉ có thể đẽo tạc nên
mẫu người như trật tự này đòi hỏi, một con người theo hình ảnh của nó, chứ
không phải là một con người mới, mà là một sự tái sản xuất một con người như nó
là.
54. Một nền giáo dục như thế mời gọi một sự thay đổi tâm hồn, đặt nền tảng
trên việc nhận ra tội lỗi trong những biểu hiện cá nhân và xã hội của nó. Nó
cũng sẽ phải khắc sâu vào tâm trí một cách thức hoàn toàn nhân bản sống trong
công bình, tình yêu và sự đơn sơ. Nó cũng sẽ khơi dậy khả năng phê bình, mà sẽ
dẫn đến suy tư về xã hội trong đó người ta sống, về những giá trị của nó, đồng
thời sẵn sàng từ bỏ chúng khi chúng không còn cổ vũ sự công bằng đối với mọi
người. Trong những nước đang phát triển, nhiệm vụ chính yếu của nền giáo dục về
công bằng này hệ tại trong một nỗ lực ý thức về hiện trạng cụ thể và trong lời
mời gọi đến một tình trạng hạnh phúc cao hơn qua đó khởi đầu cho một sự biến
đổi thế giới.
55. Vì nền giáo dục này mang tính nhân bản hóa một cách sâu xa, nên nó sẽ
giúp con người không còn là đối tượng bị thao túng, hoặc bởi các hệ thống
truyền thông, hoặc bởi các lực lượng chính trị, nhưng nó sẽ giúp con người có
khả năng làm chủ số phận của mình và tạo ra những cộng đồng thật sự nhân bản.
56. Thật có lý khi một nền giáo dục như thế được gọi là thường xuyên, vì nó
đạt đến tất cả mọi người, mọi lứa tuổi. Nó còn là một nền giáo dục thực tiễn,
vì nó được thực hiện bởi hành động và sự tham gia, và dưới ảnh hưởng sống còn
của những thực tại bất công.
57. Giáo dục về công bằng trước tiên là công trình của gia đình. Chúng ta
biết rõ rằng không chỉ các tổ chức của Giáo hội cộng tác vào đó, mà còn các
trường học, các nghiệp đoàn và các đảng phái chính trị khác nữa.
58. Nội dung của một nền giáo dục như thế nhất thiết bao hàm việc tôn trọng
nhân vị và phẩm giá của nó. Trước hết, vì đây là vấn đề công bằng thế giới, nên
ta sẽ nhấn mạnh đến tính hiệp nhất của gia đình nhân loại trong đó con người
được sinh ra, theo sự an bài của Thiên Chúa. Đối với các Kitô hữu, dấu chỉ của
tình liên đới này sẽ là sự kiện mọi người đều được dự định tham dự vào bản tính
thần linh trong Chúa Kitô.
59. Người ta tìm thấy các nền tảng để đưa Phúc Âm vào đời sống xã hội trong
một tổng thể hữu cơ về học thuyết, được đề nghị dần dần và đúng lúc từ Thông
điệp Rerum Novarum (Tân Sự)
cho đến Tông thư Octogesima adveniens
(Bát Thập Niên). Với Hiến chế Gaudium et
Spes (Vui Mừng và Hy Vọng) của Vatican II, Giáo Hội đã nhận thức
tốt hơn chỗ đứng của mình trong thế giới, một trong những nơi mà người Kitô hữu
thực hiện ơn cứu rỗi của mình qua việc thực thi sự công bằng. Thông điệp Pacem in Terris (Hòa Bình trên Thế
Giới) đã mang lại cho chúng ta một hiến chương nhân quyền thật sự. Công bằng
thế giới bắt đầu chiếm một chỗ ưu tiên trong Thông điệp Mater et Magistra (Mẹ và Thầy); điều
này đã được đào sâu, trong Thông điệp Populorum
progressio (Phát triển các Dân Tộc), bằng một khảo luận thật sự về
quyền được phát triển. Cuối cùng, ta tìm thấy trong Octogesima adveniens một tổng thể các định hướng cho hoạt
động chính trị.
60. Như thánh Tông đồ, chúng ta được khuyến khích khi thuận lợi cũng như khi
không thuận lợi, để hiện tại hóa Lời Thiên Chúa ngay giữa lòng của những hoàn
cảnh nhân sinh. Những can thiệp của chúng ta muốn là sự diễn tả về một đức tin
dấn thân cuộc sống của chúng ta và cuộc sống của các tín hữu hôm nay. Chúng ta
muốn rằng chúng phải luôn luôn phù hợp với những hoàn cảnh nơi chốn và thời
gian. Sứ mạng của chúng ta đòi buộc chúng ta phải có can đảm tố giác những hoàn
cảnh bất công cách bác ái, khôn ngoan và cương quyết, trong một cuộc đối thoại
thẳng thắn với tất cả mọi bên liên quan. Cuối cùng, chúng ta biết rằng những
lời tố giác của chúng ta chỉ có thể dành được sự tán thành trong mức độ chúng
sẽ hài hòa với đời sống chúng ta và nằm trong một hành động liên lỉ.
61. Phụng vụ mà chúng ta cử hành như trung tâm của đời sống Giáo Hội có thể
trở thành nơi ưu tiên cho việc đào tạo về công bằng. Tạ ơn Chúa Cha trong Chúa
Kitô, Giáo Hội, do đặc tính cộng đoàn của mình, biểu lộ những mối liên hệ huynh
đệ của chúng ta và không ngừng nhắc lại cho chúng ta về sứ mạng của Giáo hội.
Phụng vụ Lời Chúa, việc dạy giáo lý và việc cử hành các Bí tích có khả năng làm
cho chúng ta gặp lại các bài giáo huấn quan trọng về công bằng của các Ngôn sứ,
của Chúa và các Tông đồ. Việc chuẩn bị cho Bí tích Rửa tội khởi đầu việc đào
tạo lương tâm Kitô hữu. Việc thực hành Bí tích Sám hối phải làm nổi bật chiều
kích xã hội của tội lỗi và của Bí tích. Sau cùng, Thánh Thể làm nên cộng đoàn
và đặt cộng đoàn ấy vào việc phục vụ con người.
Sự hợp tác giữa các Giáo Hội địa
phương
62. Để trở nên một dấu chỉ hữu hiệu của sự liên đới mà gia đình nhân loại khao
khát, Giáo Hội phải thể hiện, trong đời sống của mình, một sự hợp tác mạnh mẽ
hơn giữa các Giáo Hội của các nước giàu và các nước nghèo, trong sự hiệp thông
thiêng liêng và trong việc chia sẻ các nguồn nhân lực và vật chất. Những thiện
ý trợ giúp quảng đại hiện nay giữa các Giáo Hội có thể được thực hiện tốt hơn
trong một sự phối hợp thực sự (Bộ Phúc Âm hoá các Dân Tộc
và Hội Đồng Giáo Hoàng Đồng Tâm),
trong một viễn ảnh quản lý chung các ân huệ của Thiên Chúa, trong một sự liên
đới huynh đệ luôn cổ võ quyền tự trị và trách nhiệm của các người thụ hưởng đối
với việc ấn định các tiêu chuẩn và sự chọn lựa các dự phóng cụ thể, cũng như
việc thực hiện chúng.
63. Việc hoạch định này không được giới hạn ở các dự án kinh tế, nhưng còn
cho phép các hoạt động khả dĩ thăng tiến việc đào tạo nhân bản và thiêng liêng,
đảm bảo chất men cần thiết cho sự phát triển toàn diện của con người.
Sự cộng tác đại kết
64. Khi ghi nhận những điều đã được thực hiện trong lĩnh vực này, với Công
đồng Vatican II chúng ta mạnh mẽ kêu gọi sự hợp tác với các anh em Kitô hữu ly
khai để thăng tiến công bằng, để xây dựng hoà bình và để thực hiện sự phát
triển các dân tộc. Trước tiên, sự hợp tác này liên hệ tới các hoạt động nhằm
bảo vệ nhân phẩm và các quyền cơ bản của nhân vị, và đặc biệt quyền tự do tôn
giáo; từ đó có nỗ lực chung để đấu tranh chống lại những kỳ thị liên quan đến
tôn giáo, chủng tộc, màu da, văn hoá v.v… Sự cộng tác này cũng trải dài trên
việc nghiên cứu giáo lý của Tin Mừng liên quan đến mọi hoạt động Kitô hữu. Văn
Phòng Hiệp Nhất các Kitô hữu và Uỷ Ban Giáo Hoàng Công lý và Hoà Bình cùng có
chung trách nhiệm thăng tiến cách hữu hiệu sự hợp tác đại kết này.
65. Chính trong tinh thần đó, chúng tôi cũng kêu gọi sự hợp tác trong lãnh
vực của công bằng xã hội, của hoà bình và của tự do với tất cả những ai tin vào
Thiên Chúa; và cũng như ngay cả với những ai, dù không nhìn nhận Đấng Tác Tạo
thế giới, vẫn chấp nhận các giá trị nhân bản và tìm kiếm công bằng cách chân
thành và bằng những phương thế chính trực.
Hành động quốc tế
66. Thượng Hội Đồng, có tính cách toàn cầu, quan tâm đến những vấn đề về công
bằng vốn liên hệ trực tiếp đến cả gia đình nhân loại. Do đó, nhận thấy tầm quan
trọng của hợp tác quốc tế vì sự phát triển kinh tế xã hội, trước hết chúng tôi
lấy làm vui mừng trước công việc vô giá mà các Giáo Hội địa phương, các vị thừa
sai và các tổ chức nâng đỡ các vị ấy, đã làm nơi những dân tộc nghèo; chúng tôi
cũng dấn thân giúp đỡ các phong trào và các cơ quan hoạt động vì hòa bình, vì
công bằng quốc tế và sự phát triển của con người. Chúng tôi khuyến khích người
công giáo chú ý tới những đề nghị sau:
67. (1) Nhìn nhận trật tự thế giới được bén rễ sâu vào các quyền và phẩm giá
không thể chối bỏ của con người. Các chính phủ vẫn còn chưa tán thành công ước
về Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hiệp Quốc hãy thông qua Tuyên ngôn này và
hoàn toàn tuân thủ nó.
68. (2) Liên Hiệp Quốc, vì mục tiêu của mình, phải đẩy mạnh sự tham gia của
tất cả các quốc gia – và các tổ chức quốc tế cần được ủng hộ như là bước đầu
cho một hệ thống có khả năng kìm hãm việc chạy đua vũ trang, giúp loại bỏ việc
buôn bán vũ khí, thực hiện việc giải trừ quân bị và giải quyết các xung đột
bằng những phương thế hành động hòa bình theo luật pháp, những phương thế hòa
bình trong việc phân xử và chính sách quốc tế. Điều tuyệt đối cần thiết là,
những khác biệt giữa các quốc gia không thể giải quyết bằng chiến tranh, nhưng
bằng những biện pháp khác phù hợp với bản tính con người; hơn nữa cần cổ xúy
cho hành vi bất bạo động và mỗi quốc gia nhìn nhận về mặt luật pháp quyền phản
đối lương tâm và cho nó một quy chế.
69. (3) Các mục tiêu của thập kỷ phát triển thứ hai – trong đó có việc chuyển
một tỷ lệ phần trăm thu nhập nhất định hằng năm của các quốc gia phát triển cho
các quốc gia đang phát triển, những giá cả hợp lý đối với các nguyên liệu, việc
mở cửa thị trường của các quốc gia phát triển và, trong một vài lĩnh vực, có
hành động ưu đãi đối với những sản phẩm xuất khẩu được sản xuất từ những quốc
gia đang phát triển – cần được khuyến khích như là bước đầu phác thảo cho
việc đánh thuế dần dần và cho một hệ thống kinh tế và xã hội trên toàn
thế giới. Chúng tôi lấy làm tiếc việc hoàn toàn từ bỏ ý tưởng chia sẻ và trách
nhiệm toàn cầu này từ phía các nước giàu. Chúng tôi hy vọng rằng một tình liên
đới quốc tế còn yếu như thế sẽ không làm mất đi mọi nỗ lực thảo luận về thương
mại được chuẩn bị bởi Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển
(CNUCED).
70. (4) Việc tập trung quyền lực, được thể hiện qua sự thống trị kinh tế, hầu
như hoàn toàn về việc nghiên cứu, về đầu tư, về cước vận chuyển và bảo hiểm,
cần được bù trừ dần dần bằng các quy định thể chế vốn củng cố quyền hạn và
những khả năng quyết định có trách nhiệm của những quốc gia đang phát triển,
cũng như bằng việc họ tham gia cách trọn vẹn và bình đẳng vào các tổ chức quốc
tế đang quan tâm đến việc phát triển. Trên thực tế, việc mới đây họ bị loại trừ
khỏi những đàm phán về thương mại thế giới, cũng như những quy định về tiền tệ
vốn ảnh hưởng cách sống còn đến số phận của họ, là một ví dụ của việc thiếu
quyền hạn không thể chấp nhận được trong một trật tự thế giới công bằng và
trách nhiệm.
71. (5) Dù nhìn nhận rằng các tổ chức quốc tế, với tư cách là toàn bộ thể
hiện của con người, có thể được kiện toàn và tăng cường, thế nhưng chúng tôi
cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các cơ quan đặc biệt của Liên Hiệp Quốc, nhất
là những cơ quan trực tiếp lo những vấn đề tức thời và lớn lao về nạn nghèo đói
trên thế giới, trong lĩnh vực cải cách ruộng đất và những tiến bộ của nông
nghiệp, về sự sung túc của gia đình, về y tế, về giáo dục, về việc làm, về nhà
ở và đô thị hóa toàn cầu. Chúng tôi muốn lưu ý cách đặc biệt cần có một “nguồn
quỹ” tầm mức thế giới có thể cung cấp đầy đủ lương thực, đặc biệt là protêin, để đảm bảo cho sự phát triển
thật sự về thể chất và tinh thần của trẻ em. Đối diện với việc bùng nổ dân số, chúng
tôi đọc lại định nghĩa về bổn phận chung đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI đưa ra
trong Thông điệp Populorum Progressio :
“Công quyền, trong phạm vi quyền hạn của
mình, có thể can thiệp, bằng cách phát triển một thông tin thích hợp và dùng
những biện pháp thích ứng, miễn là những biện pháp đó phù hợp với đòi buộc của
luật luân lý và tôn trọng sự tự do chính đáng của vợ chồng” (số
37).
72. (6) Các chính phủ cần tiếp tục những đóng góp cá nhân cho quỹ phát triển,
nhưng trong nỗ lực hết sức có thể, họ hãy tìm kiếm thực thi bằng con đường đa
phương, bằng cách tôn trọng hoàn toàn trách nhiệm của các nước đang phát triển,
những nước này phải được tham gia vào những quyết định liên quan đến các ưu
tiên và đầu tư.
73. (7) Đối với chúng tôi, cũng cần phải nhấn mạnh đến mối quan ngại mới về
hành tinh, nó sẽ là đề tài cho Hội nghị tại Stockholm về môi trường nhân loại,
dự kiến sẽ diễn ra tháng 6/1972. Người ta không hiểu làm thế nào các nước giàu
có thể còn tham vọng tăng cường những đòi hỏi vật chất cho mình nếu hậu quả cho
những nước khác hãy còn đó, hoặc là vẫn còn sống trong nghèo đói, hoặc là nguy
cơ có thể phá hủy những nền móng vật lý của sự sống hành tinh. Cho nên những ai
đã giàu rồi thì cần phải chấp nhận các nếp sống ít duy vật hơn, như thế sẽ ít
làm lãng phí hơn, để tránh phá hủy di sản mà họ được kêu gọi chia sẻ với phần
còn lại của nhân loại trong tất cả sự công bằng.
74. (8) Để thực hiện quyền phát triển:
a)
Không được ngăn trở các dân tộc phát triển theo các nét đặc trưng văn hóa
riêng;
b)
Chính mỗi dân tộc, khi hợp tác với nhau, đều có thể là tác nhân chính của sự
tiến bộ kinh tế và xã hội của mình;
c)
Mỗi dân tộc đều có thể tham gia thực hiện công ích toàn cầu với tư cách là
thành viên tích cực và có trách nhiệm của xã hội nhân loại, tham gia vào một kế
hoạch bình đẳng với các dân tộc khác.
Những ước mong của Thượng Hội Đồng
75. Sự ý thức mà chúng ta đã cùng nhau sống, về việc can dự của Giáo Hội trong
hành động vì công bằng, vẫn sẽ không có hiệu lực nếu nó không được thể hiện
trong đời sống của các Giáo Hội địa phương và ở tất cả các cấp độ. Chúng tôi đề
nghị các Hội nghị Giám mục nối dài những viễn ảnh mà chúng ta đã thoáng thấy
trong Hội Nghị này và vận dụng những lời khuyên mà chúng tôi đã trình bày,
chẳng hạn việc thiết lập các trung tâm nghiên cứu xã hội và thần học.
76. Chúng tôi cũng đề nghị rằng Ủy ban Giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình, trong liên hệ với Hội đồng thư ký
Thượng Hội Đồng và các nhà hữu trách có thẩm quyền, có nhiệm vụ nêu bật, đánh
giá và nghiên cứu sâu hơn nữa những ước mong và những lời khuyên của Hội Nghị
chúng tôi, để những gì chúng ta đã khởi sự được hoàn tất tốt đẹp.
IV. NIỀM HY VỌNG
77. Sức mạnh của Thánh Thần, Đấng đã phục sinh Đức Kitô từ cõi chết, luôn
hoạt động trong thế giới này. Dân Thiên Chúa hiện diện, thường xuyên bởi những
người con xuất sắc của Giáo Hội, giữa người nghèo, người bị áp bức, người bị
bách hại, đang sống cuộc khổ nạn của Đức Kitô trong thân xác và tâm hồn của họ
và làm chứng về sự phục sinh của Người.
78. Thật vậy, muôn loài thụ tạo đang rên siết chờ ngày sinh nở, khát mong
biểu lộ sự tự do vinh quang của con cái Thiên Chúa (cf. Rm 8, 22). Các Kitô hữu
phải tin chắc rằng những thành quả của bản tính và nỗ lực của họ, sau này họ sẽ
gặp thấy chúng được thanh tẩy khỏi mọi vết bẩn trong miền đất mới mà Thiên Chúa
chuẩn bị cho họ và là nơi công bằng và tình yêu sẽ ngự trị: khi Chúa trở lại,
Vương quốc của Người sẽ đạt đến sự hoàn tất viên mãn.
79. Niềm hy vọng vương quốc tương lai đến cư ngụ trong lòng mọi người. Sự
biến đổi tận căn của thế giới trong cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô mang lại ý
nghĩa tròn đầy cho những cố gắng của con người, và nhất là cho người trẻ, để
đẩy lùi bất công, bạo lực, hận thù, và để cùng nhau tiến tới trong công bằng,
tự do, huynh đệ, và tình yêu.
80. Khi loan báo Tin Mừng của Chúa Cứu Thế và Đấng Cứu Độ, Giáo Hội kêu gọi
mọi người, đặc biệt là người nghèo, người bị áp bức, người bị bách hại, trở nên
những cộng sự viên của Thiên Chúa để giải thoát thế gian khỏi tội lỗi và xây
dựng một thế giới vốn chỉ sẽ đạt đến công trình tạo dựng viên mãn khi trở nên
hành động của con người cho con người.
Nguồn: (xuanbichvietnam) Tháng Một 12th, 2013.
[1]
Sự tái định hướng của Giáo Hội sau Thượng
Hội Đồng lần ba, Nxb. Seuil, Paris, 1972, tr. 152.
[2]
x. R. Laurentin, nt., tr.
233.