Lễ
Thánh Tâm Chúa Giêsu (7.6.2013)
Anh em linh mục và các bạn rất thân mến !
Nhân
dịp lễ trọng kínhThánh Tâm Chúa Giêsu sắp đến, ngày 7.6.2013, trong đó chúng ta
sẽ cử hành Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho việc Thánh Hóa các Linh Mục, tôi thân
ái chào toàn thể anh em và mỗi người trong anh em và tôi cám ơn Chúa về ân huệ
khôn tả của Ngài về thiên chức linh mục và về lòng trung tín với tình yêu của
Chúa Kitô.
Nếu
quả thật lời mời gọi của Chúa “hãy ở lại trong tình yêu của Thầy” (x. Ga 15,9) có giá trị đối với tất cả những
ai chịu phép Rửa, thì ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, nó càng vang vọng cách mạnh
mẽ hơn nữa trong chúng ta là những linh mục. Như Đức Thánh Cha đã nhắc nhở
chúng ta dịp khai mạc Năm Linh Mục, khi trích dẫn Cha Sở thánh thiện xứ Ars,
“linh mục là tình yêu của Trái Tim Chúa Giêsu” (x. Bài
giảng dịp cử hành Kinh Chiều Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, 19.6.2009).
Từ Trái Tim này – và chúng ta không bao giờ được quên – đã vọt lên ân huệ thừa
tác vụ linh mục.
Chúng
ta đã cảm nghiệm rằng sự kiện “ở lại trong tình yêu của Thầy” thúc đẩy chúng ta
cách mạnh mẽ hướng đến sự thánh thiện. Một sự thánh thiện – chúng ta biết rõ
điều đó – vốn không hệ tại trong việc thực hiện những hành động phi thường
nhưng trong sự kiện cho phép Chúa Kitô hành động trong chúng ta và noi theo các
thái độ, tư tưởng và những hành xử của Ngài. Sự thánh thiện của chúng ta được
đo lường theo tầm vóc mà Chúa Kitô đạt tới trong chúng ta, theo cách thức mà,
với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta uốn nắn toàn thể cuộc sống của chúng
ta theo Ngài.
Chúng
ta, những linh mục, chúng ta đã được thánh hiến và được sai đi để hiện tại hóa
sứ vụ cứu độ của Con Thiên Chúa nhập thể. Chức năng của chúng ta là cần thiết
cho Giáo Hội và cho thế giới và đòi hỏi chúng ta hoàn toàn trung tín với Chúa
Kitô và không ngừng kết hiệp với Ngài. Như thế, khi khiêm tốn phục vụ, chúng ta
là những người dẫn đưa đến sự thánh thiện các tín hữu vốn đã được giao phó cho
thừa tác vụ của chúng ta. Bằng cách này, sẽ nảy sinh trong đời sống chúng ta
ước muốn mà chính Chúa Giêsu đã diễn tả trong lời nguyện tư tế, sau khi thiết
lập Bí Tích Thánh Thể : “Con cầu xin cho họ ; con không cầu xin cho
thế gian, nhưng cho những người Cha đã ban cho Con, vì họ thuộc về Cha […] Con
không cầu xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng giữ gìn họ khỏi Ác Thần […] Xin
Cha thánh hiến họ trong sự thật, […] và vì họ Con xin thánh hiến chính mình
con, để chính họ cũng được thánh hiến trong sự thật” (Ga 17,9.15.17.19).
Trong Năm Đức Tin
Những
suy tư này càng đặc biệt nổi bật trong khuôn khổ cử hành Năm Đức Tin – được Đức
Thánh Cha Bênêđictô XVI loan báo qua Tự Sắc Porta Fidei (11/10/2011) – đã khởi đầu ngày
11/10/2012, ngày kỷ niệm 50 khai mạc Công đồng Vatican II, và sẽ được kết thúc
vào ngày 24/11 sắp đến, nhằm ngày kính trọng thể Chúa Giêsu-Kitô Vua Vũ Trụ.
Giáo Hội phải đồng hành với các vị mục tử của mình để dẫn dắt con người ra khỏi
“sa mạc” hướng đến sự hiệp thông với Con Thiên Chúa, Đấng là Sự Sống cho thế
gian (x. Ga 6,33).
Trong
viễn ảnh này, Bộ Giáo Sĩ gởi thư này cho tất cả các linh mục trên thế giới để
giúp đỡ tất cả các linh mục, nhưng mỗi người cách cá nhân, làm sống lại sự dấn
thân của mình sống biến cố ân sủng trong đó các ngài được kêu gọi, cách riêng
giúp các ngài trở nên những tác nhân và linh hoạt viên để tái khám phá đức tin
trong sự toàn vẹn và trong sự lôi cuốn của nó, từ đó ý thức rằng việc tân Phúc
Âm hóa có định hướng là thông truyền đức tin Kitô hữu trong tính đơn sơ đích
thực của nó.
Trong
Tông thư Porta Fidei, Đức Thánh Cha đã giải
thích những tâm tình của các linh mục của nhiều nước: “Đang khi trong quá khứ
người ta có thể nhận ra một kiểu cách văn hóa thống nhất, được nhìn nhận cách
rộng rãi trong sự quy chiếu đến các nội dung đức tin và các giá trị được đức
tin gợi hứng, thì ngày nay dường như không còn như thế nữa trong các phạm vi to
lớn của xã hội, do cuộc khủng hoảng đức tin sâu rộng vốn đã chạm đến nhiều
người” (số 2).
Việc
cử hành Năm Đức Tin được xem như là một cơ hội thuận lợi cho việc tân Phúc Âm
hóa, một cơ hội vượt quá cám dỗ nản chí và là cơ hội để cho sức lực của chúng
ta được triển nở hơn nữa dưới sự thúc đẩy và dẫn dắt của Đấng kế vị thánh
Phêrô. Có đức tin chủ yếu có nghĩa xác tín rằng Chúa Kitô, Đấng chiến thắng cái
chết trong thân xác mình, cũng làm cho những ai tin vào Ngài đều có khả năng
chia sẻ số phận vinh quang này và làm thỏa mãn khát vọng, vốn ở trong tâm hồn
của mỗi người, đến một cuộc sống và niềm vui hoàn hảo và vĩnh cửu. Bởi thế “sự
phục sinh của Chúa Kitô là sự xác tín lớn lao nhất của chúng ta ; đó là
kho tàng cao quý nhất ! Làm sao không chia sẻ kho tàng này, sự xác tín
này, với những người khác ? Nó không chỉ có đó vì chúng ta, nhưng để chúng
ta thông truyền nó, trao ban nó cho người khác, chia sẻ nó với người khác. Đó
chính là chứng tá của chúng ta” (Đức Phanxicô, Tiếp
kiến chung, 3.4.2013).
Với
tư cách là linh mục, chúng ta phải chuẩn bị dẫn dắt các tín hữu khác, giúp đỡ
đức tin của họ trưởng thành hơn. Chúng ta cảm thấy rằng chính chúng ta, những
người đầu tiên, phải mở rộng tâm hồn chúng ta hơn. Chúng ta hãy nhớ những lời
nói của Thầy vào ngày cuối cùng của ngày lễ Lều, ở Giêrusalem : “Chúa
Giêsu đứng trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng : Ai khát, hãy đến với tôi,
ai tin vào tôi, hãy đến mà uống !, như Thánh Kinh đã nói : “Từ lòng
Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. Ngài đã nói về Thánh Thần mà
những ai tin vào Ngài sẽ lãnh nhận ; thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được
Thánh Thần, vì Chúa Giêsu chưa được tôn vinh” (Ga 7, 37-39). Những dòng nước hằng sống cũng có thể tuôn chảy từ
linh mục, một Chúa Kitô khác, trong chừng mực ngài tin tưởng uống lấy những lời
của Chúa Kitô và đồng thời mở ra cho tác động của Chúa Thánh Thần. Sau cùng,
không chỉ việc thánh hóa dân chúng đã được giao phó cho ngài nhưng còn cả lòng
tự hào về căn tính của mình sẽ tùy thuộc vào “sự mở ra” của ngài để trở nên dấu
chỉ và dụng cụ của ân sủng Thiên Chúa : “Linh mục nào ít ra khỏi chính
mình, xức dầu cách dè sẻn – tôi không nói “không bao giờ” vì, ơn Chúa, các tín
hữu “đánh cắp” sự xức dầu từ chúng ta -, sẽ mất đi điều tốt nhất từ dân của
chúng ta, những gì có khả năng khơi lên phần sâu xa nhất nơi tâm hồn của người
linh mục. Ai không ra khỏi chính mình, thì thay vì là người trung gian, sẽ dần
dần biến thành người môi giới, thành người quản lý. Hết thảy chúng ta đều biết
sự khác nhau : người môi giới và người quản lý “đã được thưởng công rồi”,
và vì họ đã không trả giá bằng chính con người hay con tim của họ, nên họ cũng
không còn nhận được một sự biết ơn trìu mến đến từ con tim. Chính từ đó nảy
sinh sự bất mãn nơi một số linh mục mà cuối cùng trở nên buồn rầu, trở nên
những linh mục buồn rầu và biến thành một kiểu người sưu tập đồ cổ và hàng mới
thay vì trở thành những mục tử được thấm nhập bởi “hương vị của đoàn chiên” –
tôi xin quý cha điều này : hãy trở thành những mục tử với ‘hương vị của
đoàn chiên’, ước gì hương thơm này được cảm nếm ; thay vì trở thành những mục
tử ở giữa đoàn chiên, và những vị chài lưới người” (Đức Phanxicô, Bài
giảng Thánh Lễ Dầu, 28.3.2013).
Thông truyền đức tin
Chúa
Kitô đã giao phó cho các Tông đồ và Giáo Hội sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho mọi
người. Thánh Phaolô đã cảm nhận Tin Mừng như là “một sức mạnh của Thiên Chúa vì
phần rỗi của mọi tín hữu” (Rm 1, 16).
Chính Chúa Giêsu-Kitô là Phúc Âm, là “Tin Mừng” (x. 1Cr 1, 24). Nhiệm vụ của chúng ta là trở nên những người mang sức
mạnh của Tin Mừng vô bờ bến của Thiên Chúa, được biểu lộ trong Chúa Kitô. Lời
đáp trả cho Mạc Khải rộng lượng của Thiên Chúa là đức tin, hoa trái của ân sủng
trong tâm hồn chúng ta, vốn đòi hỏi cởi mở tâm hồn con người. “Vì thế, chỉ khi
tin mà đức tin lớn lên và được củng cố ; không có khả năng nào khác để có
được sự xác tín về cuộc sống của mình nếu không liên lỉ phó thác trong tay của
một tình yêu luôn được cảm nghiệm lớn lao hơn bởi vì nguồn gốc của nó là ở nơi
Thiên Chúa” (Porta Fidei, số
7). Ước gì sau những năm sống thừa tác vụ linh mục vốn đã bao hàm những hoa trái
và những khó khăn, linh mục có thể nói với thánh Phaolô : “Tôi đã làm tròn
sứ mạng loan báo Tin Mừng của Chúa Kitô !” (Rm 15, 19 ; 1Cr 15,
1-11 ; etc.).
Cộng
tác với Chúa Kitô vào công trình thông truyền đức tin, đó là nhiệm vụ của mọi
Kitô hữu được thực hiện xuyên qua sự cộng tác đặc trưng của các tín hữu có chức
thánh và các tín hữu giáo dân trong Hội Thánh. Bổn phận thích đáng này bao hàm hai
khía cạnh được liên
kết cách sâu xa : khía cạnh thứ nhất, sự gắn bó với Chúa Kitô, tức là gặp
gỡ Ngài cách cá nhân, bước theo Ngài, có tương quan tình bạn với Ngài, tin vào
Ngài. Trong khung cảnh văn hóa ngày nay, đặc biệt quan trọng chứng tá bằng đời
sống – điều kiện cho tính đích thực và khả tín – vốn giúp khám phá làm thế nào
sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa làm cho Lời Ngài trở nên hữu hiệu. Chúng ta
không được quên rằng các tín hữu tìm kiếm nơi linh mục con người của Thiên Chúa
và Lời của Ngài, Lòng Thương Xót của Ngài và Bánh Hằng Sống.
Khía
cạnh thứ hai của đặc tính truyền giáo trong việc thông truyền đức tin hệ tại
việc vui tươi đón nhận những lời của Chúa Kitô, những chân lý mà chúng dạy
chúng ta, những nội dung của Mạc Khải. Trong viễn ảnh này, việc trình bày có
sắp xếp và tổ chức giáo lý Công giáo, bén rễ trong Lời Thiên Chúa và Truyền
Thống lâu đời và sống động của Giáo Hội, sẽ là một dụng cụ nền tảng.
Cách
riêng, chúng ta phải dấn thân sống và làm cho sống Năm Đức Tin như là một cơ
hội quan phòng để hiểu, như Đức Gioan-Phaolô II nói, rằng các bản văn gia sản
được các Nghị Phụ để lại “sẽ không mất gì cả”, “cả về giá trị lẫn sự trong sáng
của chúng”. Và, Đức Thánh Cha nói tiếp, “điều cần thiết là chúng được đọc theo
cách thích hợp, chúng được biết và được hấp thụ, như những bản văn có chất
lượng và chuẩn mực của Huấn Quyền, ở trong Truyền Thống của Giáo Hội. […] Hơn
bao giờ hết, tôi cảm thấy bổn phận chỉ rõ Công đồng như là ân
sủng lớn lao mà Giáo Hội nhận được ở thế kỷ 20 : Công đồng
mang lại cho chúng ta một la bàn đáng tin cậy để định hướng chúng ta trên con
đường của thế kỷ đang bắt đầu” (Gioan-Phaolô II, Tông thư Novo
millennio ineunte, 6.1.2001, 57 : AAS 93 [2001], 308, số 5).
Những nội dung đức tin
Đối
với các tín hữu, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo – mà Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại
thường năm 1985 mong muốn để biến nó thành dụng cụ phục vụ cho việc dạy giáo lý
và toàn thể hàng Giám mục đã cộng tác vào việc thực hiện – minh họa sức mạnh và
vẻ đẹp của đức tin.
Sách
Giáo Lý là
hoa trái đích thực của Công đồng chung Vatican II và làm cho thừa tác vụ mục tử
trở nên dễ dàng hơn : các bài giảng hấp dẫn, sắc sảo, có chiều sâu, vững
chắc ; các lớp giáo lý và đào tạo thần học cho người trưởng thành ;
chuẩn bị các giáo lý viên, đào tạo các ơn gọi khác nhau trong Giáo Hội, cách
riêng trong các chủng viện.
Bản
chú thích chỉ dẫn mục vụ cho Năm Đức Tin (6.1.2012) mang lại
một loạt những sáng kiến cho phép sống thời gian ân sủng này trong sự kết hiệp
chặt chẽ với Đức Thánh Cha và Giám mục đoàn : những cuộc hành hương của
các tín hữu đến Tòa thánh Phêrô, Đất Thánh, các Đền Thánh Đức Mẹ, Ngày Quốc Tế
Giới Trẻ ở Rio de Janeiro sắp tới –
vào tháng Bảy ; các cuộc hội nghị chuyên đề, các cuộc đại hội, tập họp, cả
trên bình diện quốc tế, và, cách riêng, những người tái khám phá giáo huấn của
Công đồng Vatican II ; việc tổ chức các nhóm tín hữu để đọc và cùng nhau
đào sâu Sách Giáo Lý với sự dấn thân truyền bá nó.
Trong
bầu khí chủ nghĩa tương đối hiện nay, xem ra thích hợp để nhấn mạnh việc hiểu
biết những nội dung giáo lý Công giáo đích thực quan trọng là thế nào, sự hiểu
biết không thể tách rời với việc gặp gỡ các chứng nhân có sức lôi cuốn của đức
tin. Sách Công vụ Tông đồ kể lại rằng những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu ở
Giêrusalem “chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với
nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng” (Cv 2,42).
Theo
nghĩa này, Năm Đức Tin là một cơ hội đặc biệt thích hợp để đón nhận cách chăm
chú hơn các bài giảng, các bài giáo lý, các bài nói chuyện và các bài tham luận
khác của Đức Thánh Cha. Đối với nhiều tín hữu, sẵn có các bài giảng và các bài
nói chuyện của các buổi tiếp kiến sẽ là một sự trợ giúp to lớn để thông truyền
đức tin cho người khác.
Nó
hệ tại những chân lý mà chúng ta sống, như thánh Augustin nói, khi, trong một
bài giảng về “Redditio symboli” (về
việc “Tuyên xưng tín biểu của các Tông đồ”), ngài mô tả giáo huấn của Kinh Tin
Kính : “Chúng tôi đã trao cho anh chị em Kinh Tin Kinh để học hỏi và anh
chị em đã đọc nó nhưng anh chị em phải luôn giữ nó trong tâm trí, lặp lại nó
trên giường ngủ, suy niệm nó ở những nơi công cộng, đừng quên nó khi ăn uống, và
ngay cả khi anh chị em ngủ, anh chị em phải để mắt đến nó bằng tâm hồn của anh
chị em” (Augustin d’Hippone, Bài giảng 215, về Redditio symboli).
Trong Porta
Fidei, một lộ trình được vạch ra vốn có mục đích giúp hiểu cách sâu
xa hơn các nội dung của đức tin và hành vi qua đó chúng ta tự do phó thác cho
Thiên Chúa : hành vi qua đó chúng ta tin và các nội dung mà chúng ta đồng
thuận đều được ghi dấu bằng một sự thống nhất sâu xa (x. số 10).
Lớn lên trong đức tin
Vì
thế, Năm Đức Tin là một lời mời gọi hoán cải trở về với Chúa Giêsu là Đấng Cứu
Độ duy nhất của thế giới, một lời mời gọi lớn lên trong đức tin như là nhân đức
đối thần. Trong đoạn mở đầu cho cuốn thứ nhất “Chúa Giêsu thành Nazareth”, Đức Thánh Cha nói rằng sự kiện trình
bày Chúa Giêsu như là một khuôn mặt của quá khứ mà cách nào đó chúng ta chỉ
biết rất ít về Ngài, sẽ có những hậu quả tiêu cực : “Một hoàn cảnh như thế
thật là bi kịch cho đức tin, vì điểm tựa đích thực mà tất cả tùy thuộc vào –
tình bằng hữu thân mật với Chúa Giêsu – vẫn không chắc chắn” (tr. 8).
Thật
đáng để suy niệm nhiều lần về những lời này : “điểm tựa đích thực mà tất cả tùy thuộc vào – tình bằng hữu thân mật
với Chúa Giêsu”. Đó là cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô. Cuộc gặp
gỡ của mỗi người trong chúng ta và của mỗi một anh chị em của chúng ta trong
đức tin, mà chúng ta phục vụ bằng thừa tác vụ của chúng ta.
Cuộc
gặp gỡ Chúa Giêsu như các môn đệ đầu tiên – Anrê, Phêrô, Gioan – như người
phụ nữ Samaritanô hay như Nicôđêmô ; đón tiếp Ngài vào nhà mình như
Maria ; lắng nghe Ngài bằng việc đọc đi đọc lại Tin Mừng ; với ân
sủng của Chúa Thánh Thần, đó là con đường chắc chắn để lớn lên trong đức tin.
Như vị Tôi Tớ Chúa là Đức Phaolô VI đã viết : “Đức tin là con đường qua đó
chân lý của Thiên Chúa đi vào tâm hồn” (Insegnamenti,
IV, p. 919).
Chúa
Giêsu mời gọi cảm nhận rằng chúng ta là con cái và là bạn hữu của Thiên
Chúa : “Thầy gọi các con là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy đã học biết
nơi Cha Thầy, Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy ;
nhưng chính Thầy đã chọn các con và cắt đặt các con để các con đi và sinh nhiều
hoa trái và để hoa trái các con tồn tại ; như thế tất cả những gì các con
xin Cha nhân danh Thầy, Ngài sẽ ban cho các con” (Ga 15, 15-16).
Các phương tiện để lớn lên trong đức tin. Bí
tích Thánh Thể
Chúa
Giêsu mời gọi cầu nguyện với lòng tin tưởng hoàn toàn, cầu nguyện với những lời
của “Kinh Lạy Cha”. Ngài đề nghị với mọi người trong diễn từ Bát Phúc một mục
đích mà, trước mắt người đời, dường như là một sự điên rồ : “Vậy các con
hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện”. Để thực thi
một nền sư phạm tốt về sự thánh thiện, có khả năng thích ứng
với các hoàn cảnh và với nhịp sống của mỗi người, chúng ta phải là những người
bạn của Thiên Chúa, những con người cầu nguyện.
Trong
đời sống cầu nguyện, chúng ta học biết mang thập giá, thập giá này được mở ra
cho toàn thế giới vì phần rỗi của nó mà, như Chúa đã mạc khải cho Anania, cũng
sẽ kèm theo sứ mạng của Saul, vừa mới trở lại : “Hãy đi, vì người này là
khí cụ mà Ta chọn để mang danh Ta cho dân ngoại, các vua chúa và con cái
Israël. Quả thế, chính Ta, Ta sẽ cho người đó thấy tất cả những gì người ấy sẽ
phải chịu vì danh Ta” (Cv 9, 15-16).
Và với các tín hữu Ga-lát, thánh Phaolô sẽ trình bày tổng hợp này về cuộc sống
của mình : “Tôi chịu đóng đinh với Công Giáo ; và nếu tôi sống, thì
đó không còn là tôi nữa, nhưng Chúa Kitô sống trong tôi. Cuộc sống của tôi hiện
nay trong thân xác, tôi sống nó trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu
tôi và hiến mạng sống vì tôi” (Gl 2,
19-20).
Mầu
nhiệm hy tế của thập giá được hiện tại hóa trong Bí tích Thánh Thể. Việc cử
hành phụng vụ thánh lễ là một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, Đấng đã hiến dâng
mạng sống làm hy lễ vì chúng ta và biến đổi chúng ta trong Ngài. “Quả thé, do
bởi bản chất, phụng vụ có tính hữu hiệu sư phạm riêng của nó để dẫn đưa các tín
hữu đến sự hiểu biết mầu nhiệm được cử hành. Luôn luôn về vấn đề này, trong
truyền thống cổ xưa nhất của Giáo Hội, con đường đào tạo người Kitô hữu, vốn
không chểnh mảng việc hiểu biết hữu cơ nội dung của đức tin, đã luôn bào hàm
một đặc tính khai tâm trong đó cuộc gặp gỡ sống động và có sức thuyết phục với
Chúa Kitô, được rao giảng bởi các chứng nhân đích thực, là có tính quyết định.
Theo nghĩa này, người dẫn đưa đến các mầu nhiệm trước hết là chứng nhân”
(Bênêđictô XVI, Tông huấn Sacramentum
caritatis, 22-II-2007, số 64). Do đó, ta không ngạc nhiên khi trong Bản
chú thích chỉ dẫn mục vụ cho Năm Đức Tin, người ta gợi ý tăng cường
việc cử hành đức tin trong phụng vụ và, cách riêng, trong Thánh Lễ, ở đó đức
tin của Giáo Hội được tuyên xưng, cử hành và củng cố (x. số IV,2). Nếu phụng vụ
Thánh Thể được cử hành với một đức tin mạnh mẽ và với lòng sùng kình, thì những
hoa trái là chắc chắn.
Bí tích của Lòng Thương Xót tha thứ
Nếu
Thánh Thể là Bí tích xây dựng hình ảnh của Con Thiên Chúa trong chúng ta, thì
Giao Hòa là Bí tích giúp chúng ta cảm nghiệm sức mạnh của lòng thương xót của
Thiên Chúa, vốn giải thoát con người khỏi tội lỗi và ban cho con người thưởng
nếm vẻ đẹp của việc trở về với Thiên Chúa là người Cha đích thực, Đấng yêu
thương mỗi một con cái của Ngài. Vì thế, thừa tác viên thánh phải xác tín cách
cá nhân rằng “chỉ khi cư xử như con cái của Thiên Chúa, không nản lòng vì những
sa ngã của chúng ta, vì tội lỗi của chúng ta, chỉ khi cảm thấy mình được Ngài
yêu thương, thì cuộc sống của chúng ta mới sẽ được đổi mới, được khích lệ bởi
sự thanh thản và niềm vui. Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta !” (Đức
Phanxicô, Tiếp kiến chung, ngày 10.4.2013).
Chính
linh mục phải là bí tích về sự hiện diện đầy lòng thương xót này trong thế
giới : “Chúa Giêsu không có nhà vì nhà của Ngài, đó là những con người, đó
là chúng ta, sứ mạng của Ngài là mở ra cho mọi người cánh cửa của Thiên Chúa,
là sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa” (idem., Tiếp
kiến chung, ngày 27.3.2013). Chính vì thế chúng ta không thể chạy
trốn ân huệ siêu nhiên tuyệt vời này, cũng không thể phân phát nó mà không có
cùng những tâm tình như Đấng đã yêu thương các tội nhân cho đến chết trên thập
giá. Trong Bí tích này, Chúa Cha ban cho chúng ta một cơ hội độc nhất để trở
nên, – không chỉ về mặt thiêng liêng, nhưng chính chúng ta, với nhân tính của
chúng ta -, bàn tay dịu dàng mà, như người Samaritanô Nhân Hậu, đổ dầu xoa dịu
trên những vết thương của tâm hồn (x. Lc
10, 34). Chúng ta cảm nhận những lời này của Đức Thánh Cha như thuộc về chúng
ta : “Một Kitô hữu khép kín nơi chính mình, che giấu tất cả những gì Chúa
đã ban cho mình là một Kitô hữu…người ấy không phải là Kitô hữu ! Đó là
một Kitô hữu không tạ ơn Thiên Chúa vì tất cả những gì Ngài đã ban cho
mình ! Điều đó nói với chúng ta rằng việc chờ đợi sự trở lại của Chúa là
thời gian hành động – chúng ta đang sống trong thời gian hành động – thời gian
vốn dùng cho có ích những ân huệ của Thiên Chúa không phải cho chính chúng ta,
nhưng cho Ngài, cho Giáo Hội, cho tha nhân, thời gian vốn luôn tìm cách làm gia
tăng sự thiện trên thế giới. […] Anh chị em thân mến, hình dung cuộc Phán xét
cuối cùng không bao giờ được làm cho chúng ta sợ ; trái lại, điều đó thúc
đẩy chúng ta sống tốt hơn giây phút hiện tại. Thiên Chúa ban cho chúng ta thời
gian này cách đầy lòng thương xót và kiên nhẫn, để chúng ta học biết mỗi ngày
nhận ra Ngài nơi người nghèo và người bé mọn, để chúng ta hết lòng vì sự thiện
và chúng ta tỉnh thức trong đời sống cầu nguyện và yêu thương. Ước gì, vào lúc
kết thúc cuộc sống của chúng ta và lịch sử, Chúa có thể nhận thấy chúng ta như
là những tôi tớ tốt lành và trung tín” (idem., Tiếp
kiến chung, ngày 24.4.2013).
Do
đó, Bí tích Hòa Giải cũng là Bí tích của niềm vui: “Khi nó còn ở đằng xa, cha
của nó đã nhận thấy nó và đã chạnh lòng thương ; ông chạy đến ôm nó hồi
lâu và hôn lấy hôn để. Lúc đó đứa con nói : ‘Thưa cha, con đã phạm tội
chống lại Trời và với cha, con không còn đáng được gọi là con của cha nữa’.
Nhưng người cha đã nói với các đầy tớ : ‘Mau, hãy mang áo đẹp nhất lại đây
và hãy mặc cho nó, hãy đeo nhẫn vào ngón tay nó và mang giày vào chân nó. Hãy
bắt bê béo làm thịt, chúng ta hãy ăn mừng vì con ta đã chết nay sống lại, đã
mất nay lại tìm thấy !’ Và họ bắt đầu ăn mừng”. Mỗi khi chúng ta xưng tội,
chúng ta tìm được niềm vui sống với Thiên Chúa, vì chúng ta đã cảm nghiệm được
lòng thương xót của Ngài, và có lẽ rất thường, mọi lần chúng ta đều thổ lộ cho
Chúa những lỗi lầm của chúng ta do sự hững hờ và sự xoàng xĩnh. Như thế, đức
tin của con người tội lỗi của chúng ta, những người tội lỗi yêu mến Chúa Giêsu
và biết mình được Ngài yêu mến, sẽ được củng cố : “Khi ai đó được triệu
tập đến với vị thẩm phán hay trải qua vụ kiện, thì điều đầu tiên mà người ấy sẽ
làm, đó là tìm kiếm một luật sư để biện hộ cho mình. Chúng ta, chúng ta có một
vị luật sư luôn bảo vệ chúng ta, Ngài luôn bảo vệ chúng ta khỏi những đe dọa
của ma quỷ, Ngài bảo vệ chúng ta khỏi chính mình, khỏi tội lỗi chúng ta !
Anh chị em rất thân mến, chúng ta có vị luật sư này : chúng ta không sợ đi
đến với Ngài để xin tha thứ, để xin Ngài chúc lành, để xin lòng thương
xót ! Ngài luôn tha thứ cho chúng ta, Ngài là luật sư của chúng ta :
Ngài luôn biện hộ cho chúng ta ! Đừng quên điều đó !” (idem., Tiếp
kiến chung, ngày 17.4.2013).
Trong
chầu Thánh Thể, cùng với thánh Tôma Aquinô, chúng ta có thể nói với Chúa Kitô
đang hiện diện trong Mình Thánh :
Plagas
sicut Thomas non intúeor
Deum
tamen meum Te confiteor
Fac
me tibi semper magis crédere
In
Te spem habére, Te dilígere.
(Những
thương tích của Chúa, như thánh Tôma, con không thấy được
Thế
nhưng, lạy Thiên Chúa của con, Chúa có đó, con tuyên xưng Chúa
Xin
cho con luôn tin vào Chúa hơn nữa,
Con
đặt niềm hy vọng của con vào Chúa, con yêu mến Chúa.)
Và,
khi Chúa Giêsu ở trong bàn tay của chúng ta, cùng với thánh Tôma Tông đồ, chúng
ta cũng có thể lặp lại với tâm hồn linh mục của chúng ta : Dominus
meus et Deus meus ! (Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của
con !)
“Em thật có phúc vì
đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em !” (Lc 1, 45). Chính bằng những lời này mà
bà Êlisabeth đã chào Đức Maria. Chúng ta hãy chạy đến với Đấng là Mẹ của các
linh mục và là Đấng đã đi trước chúng ta trên con đường đức tin, để mỗi người
trong chúng ta lớn lên trong niềm tin vào Con Thiên Chúa của Mẹ và như thế mang
lại cho thế giới Sự Sống và Ánh Sáng, sức nóng, của Trái Tim Rất Thánh của Chúa
Giêsu.
Hồng
y Mauro Piacenza
Tổng trưởng
+
Celso Morga Iruzubieta
Thư ký
Xem thêm bài Thánh thi “Adoro te devote” của thánh Tôma Aquinô dưới đây:
Adóro
te devóte, látens Déitas,
Quæ
sub his figúris, vere látitas:
Tibi
se cor meum totum súbjicit,
Quia,
te contémplans, totum déficit.
Je
t’adore dévotement, Dieu caché
Qui
sous ces apparences vraiment prends corps,
À
Toi, mon cœur tout entier se soumet
Parce
qu’à te contempler, tout entier il s’abandonne.
Visus,
tactus, gustus, in te fállitur,
Sed
audítu solo tuto créditur:
Credo
quidquid díxit Dei Fílius;
Nil
hoc verbo veritátis vérius.
La
vue, le goût, le toucher, en toi font ici défaut,
Mais
t’écouter seulement fonde la certitude de foi.
Je
crois tout ce qu’a dit le Fils de Dieu,
Il
n’est rien de plus vrai que cette Parole de vérité.
In
cruce latébat sola Déitas,
At
hic látet simul et humánitas:
Ambo
támen crédens átque cónfitens,
Peto
quod petívit latro pœnitens.
Sur
la croix, se cachait ta seule divinité,
Mais
ici, en même temps, se cache aussi ton humanité.
Toutes
les deux, cependant, je les crois et les confesse,
Je
demande ce qu’a demandé le larron pénitent.
Plagas,
sicut Thomas, non intúeor,
Deum
támen meum te confíteor.
Fac
me tibi sémper mágis crédere,
In
te spem habére, te dilígere.
Tes
plaies, tel Thomas, moi je ne les vois pas,
Mon
Dieu, cependant, tu l’es, je le confesse,
Fais
que, toujours davantage, en toi je croie,
Je
place mon espérance, je t’aime.
O
memoriále mortis Dómini,
Panis
vivus, vitam præstans hómini,
Præsta
meæ menti de te vívere,
Et
te illi semper dulce sápere.
O
mémorial de la mort du Seigneur,
Pain
vivant qui procure la vie à l’homme,
Procure
à mon esprit de vivre de toi
Et
de toujours savourer ta douceur.
Pie
pellicáne, Jesu Dómine,
Me
immúndum munda tuo sánguine,
Cujus
una stilla salvum fácere,
Totum
mundum quit ab ómni scélere.
Pieux
pélican, Jésus mon Seigneur,
Moi
qui suis impur, purifie-moi par ton sang
Dont
une seule goutte aurait suffi à sauver
Le
monde entier de toute faute.
Jesu,
quem velátum nunc aspício,
Oro
fíat illud, quod tam sítio:
Ut,
te reveláta cernens fácie,
Visu
sim beátus tuæ glóriæ. Amen.
Jésus,
que sous un voile, à présent, je regarde,
Je
t’en prie, que se réalise ce dont j’ai tant soif,
Te
contempler, la face dévoilée,
Que
je sois bienheureux, à la vue de ta gloire.