CÔNG ĐỒNG
GÓP PHẦN RẤT LỚN ĐỂ GIẢI PHÓNG TIN
MỪNG
Nhân dịp sắp bước vào
năm Đức Tin, kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Vatican II và 20 năm xuất bản
Sách Giáo Lý Giáo hội Công Giáo, xin chia sẽ với quý độc giả bài viết: "
Công Đồng Vatican II góp phần rất lớn để giải phóng Tin Mừng" bài này nối
tiếp bài viết trước đây " để giải phóng Tin Mừng" nhằm quảng diển
những công lao do 5 vị Giáo Hoàng của Công Đồng đã đóng góp để giúp Giáo Hội
giải phóng Tin Mừng, đồng thời cũng đã dùng chính bản thân mình xuất phát từ
Đức Giêsu Kitô để sống gắn bó với Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa nhờ bí tích
Thánh Thể và nhờ suy gẫm Lời Chúa trong cầu nguyện, để kêu gọi dân Chúa cũng
xuất phát từ Đức Giêsu Kitô để sống gắn bó với Tin Mừng của Ngài.
Dẫn nhập
Dịp lễ Thánh Antôn
Pađôva 13.06.2012, tôi nhận được món quà mừng bổn mạng là cuốn sách tiếng Anh “Light
of the world” (Ánh sáng thế gian) phát hành năm 2010 của ký giả kỳ cựu
Peter Seewald, ghi lại cuộc trao đổi giữa ông với Đức Giáo hoàng Bênêdictô XVI
về các vấn đề Giáo hội và thế giới, như gương xấu lạm dụng tình dục, tai
họa toàn cầu, loan báo Tin Mừng, cải cách chậm chạp, sứ
điệp Fatima … Sách đó giới thiệu cuộc trao đổi lần thứ nhất giữa ông và Đức
Hồng y Ratzinger, được ghi lại trong cuốn “Muối Cho Đời”, phát hành năm
1996, được dịch ra tiếng Việt, và Đức Cha Bùi văn Đọc, Chủ tịch Ủy ban Giáo lý
Đức tin giới thiệu năm 2008. Ký giả Peter Seewald là ngừơi Đức đã ra khỏi Giáo
hội Công giáo từ lâu. Ông xin phỏng vấn Đức Hồng y, và sau khi viết cuốn “Muối
Cho Đời”, ông đã trở về với Giáo hội. Còn Đức Hồng y Ratzinger cũng là
người Đức cho biết rằng “người ta đã chế ra chữ “Hồng y thiết giáp” để gọi
tôi, có ý làm cho liên tưởng đến đặc tính cá biệt của người Đức là ‘nguyên tắc
một cách quá khích và thiếu linh động”[1]
…Cuốn Muối Cho Đời ghi lại cuộc trao đổi về các vấn đề : những sai
lầm của Giáo hội; những điệp khúc chỉ trích; độc thân, tái
hôn sau khi ly dị; truyền chức cho phái nữ; một công đồng chung
mới …. Tổng cộng cả hai cuốn khoảng 538 câu hỏi, được coi là những câu hỏi
vừa nóng bỏng nhất, gai góc nhất, vừa nhiều thách thức nhất. Các vấn đề nóng
bỏng trên đã được tác giả cuốn “Để Giải Phóng Tin Mừng” (Paul Tihon) đề
cập tới, nhưng một cách tế nhị ; còn ký giả và Đức Ratzinger đã trao đổi một
cách cụ thể, nói thẳng nói thật thoải mái. Xin đan cử vài ví dụ:
- Ký giả:
Giáo hội Công giáo không những chỉ là một thứ gì còn sót lại của quá khứ mà hơn
nữa nên cho vào sọt rác. Đối với thế giới trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ
III, không có khiêu khích nào lớn hơn sự tồn tại của một Giáo hội phẩm trật
- Đức Hồng y:
Dưới nhiều khía cạnh, điều đó nói lên giá trị tốt đẹp của Giáo hội Công giáo,
bởi vì Giáo hội này vẫn còn là lực lượng khiêu khích, vẫn là gai nhọn và là sự
phản kháng, hay nói như thánh Phaolô, đó là một cớ gây tai tiếng, gây vấp ngã.
Nghĩa là Giáo hội Công giáo vẫn còn một ý nghĩa nào đó và không ai có thể gạt
bỏ nó qua một bên để thản nhiên vui sống … Nếu như Giáo hội Công giáo là một
gai nhọn vì dám bảo vệ những giá trị cơ bản của con người … thì đây lại là một
điều hay.
Ký giả đã kể ra nhiều
câu hỏi, nào là: điệp khúc hay chuỗi dài các chỉ trích và phàn nàn về Giáo
hội, nào là Giáo hội quan liêu, cố chấp, nghiêm khắc, khắt khe … nào là Giáo
hội trì trệ, chậm chạp cải cách, Giáo hội nhiều gương xấu như lạm dụng tình dục
mà được bao che và làm thinh …
Đức Giáo hoàng lần lượt
trả lời : đúng thế, tôi vẫn thường nói chúng ta quá quan liêu … rõ ràng có
sự bế tắc cảm thông … rõ ràng
- Ký giả: Ngài
đã có một mối tình với cô nào không? Người ta biết Đức Gioan Phaolô II thời
thanh niên cũng rất lãng mạn.
Đức Hồng y: Tôi có thể nói rằng
trong tôi đã không có một dự án gia đình nào cả. Nhưng những tình bạn với nhiều
xúc động thì dĩ nhiên là có.
Và cũng như tác giả
Paul Tihon đã tìm đến cái cốt lõi tinh túy độc đáo của Tin Mừng, đó là Đức
Giêsu Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc là Tình yêu, thì ký giả cũng hỏi Đức Giáo
hoàng rằng có phải Ngài coi chủ đề Thiên Chúa là Tình yêu như là chìa khóa cho
triều Giáo hoàng của ngài không? Đức Giáo hoàng trả lời : hai chủ đề luôn theo
tôi trong suối đời tôi, một là Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, luôn yêu thương
chúng ta; hai là chủ đề Tình yêu, chủ đề này chiếm địa vị
trung tâm trong Tin Mừng thánh Gioan, vì tôi biết rằng Tình Yêu là chìa khóa
cho Kitô giáo …
Như thế những trao đổi
giữa ký giả với Đức Ratzinger, và những gì tác giả Paul Tihon đã nêu lên trong
cuốn “Để Giải Phóng Tin Mừng”, những sự kiện hiển nhiên chẳng hạn nhiều
Kitô hữu bỏ đạo, chuỗi dài những chỉ trích Giáo hội và Vatican, những đòi hỏi
cải cách … đã là những vấn đề được phổ biến công khai từ lâu trên thế giới,
vì truyền thông được tự do. Nên khi ở Việt Nam được dịp nghe biết thì có độc
giả sợ đụng chạm đến các Đấng Bậc, nhưng có nhiều sự thật hiển nhiên Kitô hữu
cần hiểu biết cho đúng thì mới có ý thức và trách nhiệm góp phần giải phóng Tin
Mừng, làm đẹp bộ mặt Giáo hội được. Thái độ dửng dưng hoặc vô cảm vì không
biết, làm cho Kitô hữu ở trong Giáo hội mà không “đồng cảm với Giáo hội”.
Giáo hội sắp kỷ niệm 50 năm khai mạc Công đồng Vatican II (1962 – 2012) và 20
năm xuất bản Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (1992 - 2012). Đây là cơ hội rất
tốt để mọi thành phần trong Giáo hội “đồng cảm với Giáo hội”, đồng
cảm với các Đức Giáo hoàng trong mọi biến cố tốt xấu đã xảy ra, để với niềm
hy vọng và phấn khởi, tham gia tích cực hơn vào cuộc cải cách giải phóng Tin
Mừng mà Công đồng Vatican II đã khởi xướng và Giáo hội đang tiến hành. Vì thế
trong bài này tôi muốn tóm lược công lao của năm Đức Giáo hoàng có liên hệ đến
Công đồng, để mọi người ý thức được sự góp phần rất lớn của các ngài, và nhờ
gương mẫu của mỗi vị, ta có thể noi gương bắt chước hầu góp phần tích cực của
mình vào việc làm mới bộ mặt của Giáo hội.
I. CÔNG LAO CỦA NĂM VỊ
GIÁO HOÀNG
1. Đức Chân Phước Gioan
XXIII (1958 – 1963)
Ngài xuất thân từ giới
bình dân, được bầu làm Giáo hoàng vào ngày 28.10.1958, lúc tuổi đời đã 78, mọi
người đều cho rằng ngài chỉ là Giáo hoàng chuyển tiếp, nhưng ngài đã làm nhiều
việc phi thường. Trước hết, chỉ sau 3 tháng nhậm chức, ngày 25.01.1959 ngài công
bố triệu tập Công đồng chung Vatican II, nối tiếp Công đồng chung
Vatican I. Quyết định của ngài làm sửng sốt cả Hồng y đoàn, ngài coi đây là một
lễ Hiện Xuống mới, và Công đồng Vatican II này nhằm hai mục đích : thứ nhất cập
nhật hóa Giáo hội để quét sạch bụi bậm đã bám vào trong thời gian cả ngàn năm ;
thứ hai mở đường cho phong trào Đại kết, tái hợp nhất mọi Kitô hữu đã chia rẽ
gần chục thế kỷ. Năm 1960, ngài thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam nhằm
chứng tỏ Giáo hội địa phương ở Việt
2. Đức Phaolô VI (1963
– 1978)
Được bầu làm Giáo hoàng
năm 1963, nhận tên hiệu là Phaolô VI vì muốn noi gương thánh Phaolô Tông đồ dân
ngoại, mở đường vào thế giới:
- Công lao thứ
nhất của ngài là lo cho Công đồng mới khởi sự được tiến hành.
Khó khăn đầu tiên ngài gặp là vấn đề bản tính sâu xa của Giáo hội. Trong các
nghị phụ có hai khuynh hướng xuất hiện. Khuynh hướng thứ nhất được hình
thành từ hàng chục thế kỷ trước, muốn Giáo hội như một xã hội hoàn hảo theo mô
hình kim tự tháp, nghĩa là trên đỉnh cao là hàng giáo sĩ các cấp, nắm mọi quyền
bính, còn ở dưới chân là giáo dân. Đức Hồng y Gasquet có kể giai thoại là trước
Công đồng, có người giáo dân hỏi cha xứ về vị thế của giáo dân trong Giáo hội,
cha xứ trả lời ngay là giáo dân có hai vị thế : thứ nhất là quỳ gối trước bàn
thờ, thứ hai là ngồi trên ghế …và Đức Hồng y dí dỏm thêm rằng; người ta quên
vai trò thứ ba là móc ví lấy tiền để công đức. Còn khuynh hướng thứ hai
mới hình thành từ vài thập niên trước Công đồng, muốn Giáo hội như là một Mầu
Nhiệm – Hiệp Thông – Sứ Vụ; Giáo hội được Thiên Chúa Ba Ngôi thiết lập, Giáo
hội xuất phát từ Đức Giêsu Kitô như là tâm điểm của Giáo hội; có thể so sánh
với mô hình trong đó các bậc sống giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân là như những vòng
tròn đồng tâm, mà Đức Kitô là tâm điểm: “Có những người được chọn làm tiến
sĩ, làm người phân phát các nhiệm tích hay chủ chăn lo cho kẻ khác, nhưng giữa
tất cả mọi người vẫn có bình đẳng thực sự, bình đẳng về phương diện phẩm giá và
hoạt động chung của mọi tín hữu để xây dựng thân thể Chúa Kitô” (Hiến chế
về Giáo hội số 32). Khuynh hướng thứ hai chọn Giáo hội là mầu nhiệm, hiệp
thông, sứ vụ đã được đa số các nghị phụ chấp nhận, cuối cùng chỉ còn 5 phiếu
chống. Đức Phaolô đã can đảm cương quyết vượt qua khó khăn, và “Giáo hội là
Mầu Nhiệm – Hiệp Thông – Sứ Vụ” đã trở thành tư tưởng chủ đạo chi phối toàn bộ
các văn kiện của Công đồng Vatican II, bao gồm 4 Hiến chế, 9 Sắc lệnh, 3
Tuyên ngôn ; và Công đồng được bế mạc năm 1965. (Tư tưởng chủ đạo này đã được
Hội Đồng Giám Mục Việt
- Công lao thứ
hai là Đức Phaolô VI muốn theo tinh thần cập nhật của Đức Gioan
XXIII sống khó nghèo, đơn sơ, khiêm tốn để là giáo hoàng của thời đại mới,
với một ý chí cương quyết bằng cách cải tiến nội bộ Giáo triều. Trước hết là đơn
giản hóa lễ nghi phong chức Giáo hoàng. Ngài truyền làm một mũ giống như mũ
giám mục, thay thế cho mũ ba tầng có nạm kim cương ngọc quý, ám chỉ ba quyền
giáo huấn, thánh hóa, quản trị, vốn được dùng suốt 9 thế kỷ. Ngài trao mũ ba
tầng quí giá cho Đức Hồng y Spellman đem về Mỹ bán đấu giá lấy tiền giúp người
nghèo. Ngài quyết định Đức Hồng y nào đầy 80 tuổi phải nghỉ các chức vụ và
không được bầu Giáo hoàng nữa. Các Hồng y và Giám mục nào được 75 tuổi, phải
đệ đơn xin từ chức. Và để chứng tỏ Giáo hội là của người nghèo, ngài quyết
định các Hồng y và Tổng Giám mục trong giáo triều không sử dụng xe hơi
Mercedes, mà dùng xe hơi Fiat 125 ; và cũng không dùng áo đuôi dài 5
thước nữa, để dư luận báo chí khỏi nói thời hiện đại này mà còn có người ăn
mặc như thời Trung cổ. Ngài cũng quyết tâm quốc tế hóa giáo triều bằng
cách bổ nhiệm các giáo sĩ không phải là người Ý, nêu cao tính cách Công giáo
của Giáo hội hoàn vũ. Năm 1976 Đức Giuse Trịnh như Khuê được ngài phong làm
Hồng y tiên khởi Việt Nam; và chính ngài thiết lập Thượng Hội Đồng Giám mục
Thế giới để bàn về các vấn đề cần cải cách ngay, như giáo lý, giáo luật,
truyền giáo.
- Đối với các
tôn giáo khác đã ly khai khỏi Giáo hội cả gần chục thế kỷ, ngay đầu
năm 1964 ngài đi hành hương Đất thánh, đến Giêrusalem gặp Đức Thượng Phụ
Athenagoras và trao hôn bình an cho nhau. Năm 1965 trước ngày bế mạc Công đồng,
Giáo hội Rôma và Hy lạp đã dứt bỏ vạ tuyệt thông cho nhau kề từ năm
1054. Năm 1966 ngài đón tiếp Giáo chủ Anh giáo là Tiến sĩ Ramsey.
- Đối với thế
giới vào khoảng tháng 10 năm 1965 ngài đến Trụ sở Liên Hiệp Quốc
ở Nữu Ước để kêu gọi “các nước không chống đối nhau nữa, không để chiến
tranh xảy ra”. Ngài còn tiếp tục công du sang Châu Mỹ Latinh năm
1968, sang Phi Châu năm 1969, Viễn Đông năm 1970. Sau Công đồng,
Giáo hội gặp thời kỳ khủng hoảng về vấn đề độc thân linh mục, Đức Phaolô VI đã
công bố Thông điệp “Độc Thân Linh Mục” năm 1967, về vấn đề ngừa
thai phá thai, ngài đã công bố Thông điệp “Sự Sống Con Người” năm
1968. Năm 1971 ngài ban hành “Chỉ Dẫn Tổng Quát về Dạy Giáo lý”;
có nhiều nghị phụ đề nghị soạn sách giáo lý để phổ biến giáo huấn của Công đồng
như Đức Thánh Giáo Hoàng Piô V đã làm, nhưng ngài cho rằng các Văn kiện Công
đồng là sách giáo lý tốt nhất, nên chỉ soạn tập chỉ dẫn để lo dạy giáo lý cho
các lứa tuổi, chỉ dẫn này là tiền đề cho “Chỉ Dẫn Tổng Quát về Dạy Giáo lý”
năm 1977. Năm 1975 ngài tổ chức Năm Thánh “Canh Tân Hòa Giải” và
ban hành Tông huấn quan trọng về “Loan Báo Tin Mừng”.
Đức Phaolô VI đã can
đảm cương quyết nối tiếp Đức Gioan XXIII để giải phóng Tin Mừng khỏi những cơ
chế kềnh càng xa hoa từ thời trung cổ, và cũng ngăn chặn xu hướng tục hóa của
thời hiện đại, nên đã bị chống đối mạnh mẽ, nhưng ngài luôn trung thành với
truyền thống chính đáng của Giáo hội. Trong triều đại ngài có cuộc ly khai
của Đức cha Lefèbvre khỏi Giáo hội để thành lập Huynh đoàn Piô X, không
chấp nhận cải cách của Công đồng Vatican II. Đức cha Lefèbvre qua đời năm 1991,
nhưng huynh đoàn vẫn còn một nhóm tồn tại. Năm tháng cuối đời của ngài gặp
nhiều u ám vì những khủng hoảng. Ngài qua đời 1978.
3. Đức Gioan Phaolô I (1978)
Lên làm giáo hoàng năm
1978 lúc ngài 65 tuổi. Ngài là Giáo hoàng người Ý cuối cùng sau 500 năm, lấy
hiệu là Gioan Phaolô I tên từ hai vị tiền nhiệm là Đức Gioan XXIII và Phaolô
VI. Từ trước đến nay chưa vị Giáo hoàng nào nhận hai tên, ngài giải thích:
không phải tôi có sự khôn ngoan như Đức Gioan XXIII và sự thông thái của Đức
Phaolô VI, nhưng tôi quyết tâm theo đường lối Công đồng mà các ngài đã khởi
xướng. Trong lễ đăng quang ngài không đội mũ ba tầng, không choàng áo có đuôi
dài năm thước và thêm một đổi mới nữa là không ngồi trên kiệu có người
khiêng nhưng đi bộ đến ngai tòa để nhận mũ như mọi Giám mục. Đức
Gioan Phaolô I thích sống gần gũi với dân chúng và mọi người, ngài luôn có nụ
cười nên được gọi là “Giáo hoàng mỉm cười”, ngài mỉm cười thường
là để khuyến khích và nâng cao giá trị của người đối thoại với mình. Không lâu
trước ngày từ trần, ngài nói với một trong các thư ký: “có thể tuyển chọn
một vị khác tốt hơn tôi. Đức Phaolô VI đã chỉ ra kẻ kế vị ngài. Vị ấy từng ngồi
ngay trước mặt tôi ở nhà nguyện Sixtine (tức Đức Hồng y Balan Karol Wojtyla).
Ngài sẽ đến và tôi sẽ ra đi”. Và sau khi lên ngôi được 33 ngày ngài qua
đời. Giáo triều của ngài ngắn nhất từ trước tới nay, nhưng cũng vẫn góp phần cụ
thể của mình là tiếp tục Công đồng để giải phóng Tin Mừng trong niềm vui với nụ
cười, dù chưa thực hiện được gì nhiều.
4. Đức Chân Phước Gioan
Phaolô II (1978-2005)
Là vị Giáo hoàng không
phải người Ý sau gần 500 năm, kể từ khi Đức Giáo hoàng Adrianô VI là người Đức
qua đời. Ngài cũng là vị Giáo hoàng Ba Lan, gốc dân tộc Slave, đầu
tiên trong lịch sử Giáo hội, lên ngôi lúc tuổi đời mới 58. Trước khi làm
Giáo hoàng, ngài đã là Giám mục, rồi Hồng y, tham gia vào Công đồng Vatican II.
Ngài biết rõ tình trạng Giáo hội, Giáo triều, những chỉ trích phàn nàn; những
Kitô hữu từ bỏ Giáo Hội, những người cộng sản thù ghét Giáo hội...nên ngài càng
tích cực thiết tha cải cách Giáo hội hơn. Ngài tiếp tục đơn giản hóa nghi lễ
nhậm chức Giáo hoàng như hai vị tiền nhiệm, không mặc áo đuôi dài năm
thước, không ngồi kiệu, không đội mũ ba tầng. Ngài cũng phá lệ không ngồi trên
ghế bành để các Hồng y lên hôn nhẫn và tuyên hứa trung thành, khi vị đặc trách
lễ nghi mời ngồi, ngài nói: “Không! tôi sẽ đứng để tiếp những người anh em
của tôi”. Và ngài cũng là vị Giáo hoàng đầu tiên xưng mình là “tôi”,
chứ không là “chúng tôi” hay “Ta” như trước... Bài giảng đầu tiên của
ngài nói tới điều cốt lõi của Tin Mừng, đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu
Chuộc loài người. Ngài kêu gọi “Đừng ngại đón Đức Giêsu Kitô, hãy mở toang
cửa đến với Giêsu” rồi ngài bắt tay ngay vào việc áp dụng những giáo
huấn của Công đồng, tập trung vào Đức Giêsu Kitô , Đấng Cứu Chuộc loài
người; và chọn “con người là con đường của Giáo hội”. Triều Giáo hoàng
của Ngài là một trong ba giáo triều lâu nhất (26 năm), sau Thánh Phêrô
(khoảng 34 đến 37 năm) và Đức Chân Phước Giáo Hoàng Piô IX ( khoảng 31 năm),
nên ngài thực hiện được rất nhiều công việc đặc biệt chưa từng có.
- Trước hết về
Hoạt động Mục vụ, ngài đã gặp gỡ 17 triệu 600 ngàn khách hành hương
từ khắp thế giới. Chủ sự 147 nghi lễ phong Á thánh cho 1338 vị và 51 nghi lễ
phong thánh cho 482 vị trong đó có Chân Phước Anrê Phú Yên và 117 Thánh Tử
Đạo Việt Nam, nhiều hơn tổng số các vị tiền nhiệm đã phong trong 400 năm trước
đây, đặc biệt ngài chú ý đến các vị thuộc hàng giáo dân hơn. Đức Gioan Phaolô
II đã bổ nhiệm tất cả 226 Hồng y trong đó có Đức Hồng y Giuse Maria
Trịnh văn Căn (1979), Đức Hồng y Phaolô Maria Phạm Đình Tụng (1994), Đức Hồng y
Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận (2001).
- Về những
cuộc tông du, ngài là Giám mục Rôma nên đã đi thăm mục vụ
317 giáo xứ trong tổng số 333 giáo xứ. Trên các lĩnh vực toàn cầu, ngài
đã thực hiện 104 chuyến tông du, viếng thăm 129 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới. Ngài tiếp đón 737 lần các nguyên thủ quốc gia và 245 lần gặp gỡ Thủ
Tướng các chính phủ. Trong triều ngài, Tòa Thánh đã có quan hệ ngoại giao với
174 quốc gia. Tuy nhiên, ngài là vị Giáo Hoàng độc nhất từ xưa đến nay đã sống
trong Xã Hội Chủ Nghĩa với những kinh nghiệm bản thân, nhờ đó ngài hiểu
biết phải góp phần để giải phóng con người khỏi mọi hình thức tha hóa do bất cứ
thế lực nào, dù tư bản hay cộng sản. Ngài góp phần quan trọng trong việc chấm
dứt chủ nghĩa cộng sản trước hết ở Balan, rồi Liên Xô và Đông Âu. Những kẻ thù
nghịch với ngài đã mưu sát ngài 3 lần: lần thứ nhất bị mưu sát ở quảng
trường Thánh Phêrô, vào 13-5-1981, ngài bị bắn và bị thương nặng; nhưng sau
ngài nói Đức Mẹ Fatima đã cứu sống; lần thứ 2 ở Fatima ngày 12-5-1982, Ngài bị
1 người đâm, nhưng chỉ bị thương nhẹ; lần thứ 3 khi đến Philippin 1995 dịp Đại
Hội Giới Trẻ, 1 tổ chức Al-Qaeda tài trợ âm mưu hại ngài nhưng bị phá vỡ.
- Về những Tác
phẩm và Giáo huấn, ngài đã là 1 giáo sư thần học, 1 nhà văn
nên gia sản giáo huấn của ngài rất phong phú và đa dạng. Năm 1979 ngài ban hành
Tông huấn “Về Dạy Giáo Lý”. Năm 1981 ban hành Tông huấn “Về
Hôn nhân và Gia đình”, 1 tài liệu mà Đức Hồng y Ratzinger giới thiệu là
“một bản tóm lược những vấn đề thần học và mục vụ, về hôn nhân và gia đình
mà từ trước đến nay chúng ta chưa hề có...nó góp phần vào việc canh tân xã hội
và canh tân Dân Chúa”. Năm 1985 ngài triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục
Thế Giới đặc biệt để duyệt lại việc thực thi giáo huấn Công đồng sau 20
năm. Các nghị phụ đều thấy giáo huấn Công đồng chưa thấm nhập vào Dân Chúa, nên
ngài dùng các Thượng Hội Đồng Giám Mục tiếp theo để giải thích và đem áp dụng
cụ thể vào từng bậc sống cho giáo dân, trong Tông huấn “Kitô Hữu Giáo Dân”
1988, cho giáo sĩ trong Tông huấn “Đào Tạo Linh Mục” 1992, cho tu
sĩ trong Tông huấn “Đời Thánh Hiến” 1996 ... Ngài còn quan
tâm đến vấn đề Hội Nhập Văn Hóa mà trước đây Giáo hội không mấy chú ý,
ngài tổ chức Thượng Hội Đồng Giám Mục của mỗi châu lục (Âu, Á, Phi, Mỹ,
Úc) để đem Tin Mừng hội nhập vào văn hóa mỗi dân tộc, chẳng hạn Tông
huấn “Giáo Hội Tại Á Châu” 1999.... Năm 1984 ngài quyết định cho soạn
Sách Giáo Lý Công Giáo để phổ biến giáo huấn của Công đồng, sau 8 năm Sách
Giáo Lý được xuất bản 1992. Năm 1997 còn ban hành cuốn “Chỉ Dẫn Tổng
Quát Về Dạy Giáo Lý”, bổ túc và hoàn chỉnh tập Chỉ Dẫn 1971, về nội
dung giáo lý, về phương pháp dạy các lứa tuổi, về huấn luyện giáo lý viên và Trường
đào tạo giáo lý viên. Tổng kết các tác phẩm và giáo huấn gồm 15 Tông Huấn, 702
Tông Hiến, 32 Tông Thư, 33 Tự Sắc, hàng trăm Sứ Điệp. Một việc độc đáo nữa liên
quan đến các linh mục là suốt 25 năm giáo triều, năm nào ngài cũng gửi một tâm
thư cho các linh mục vào dịp Thứ Năm Tuần Thánh.
- Một vấn đề cũng quan
trọng là Đại Kết và Đối Thoại với các tôn giáo khác. Ngài
là vị Giáo hoàng đầu tiên đến thăm Hội đường Do thái ở Rôma, và Nhà
thờ Hồi giáo. Năm 1983, đi thăm Cộng đoàn Tin lành theo Luther. Năm
1986, ngài thiết lập ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới tại Atxidi, với sự
có mặt của 130 vị đại diện cho 12 tôn giáo trên thế giới. Năm 1995, Ngài ban
hành Thông điệp “Để Họ Nên Một”, đề cập đến sự hiệp nhất, đại
kết, đối thoại và cầu nguyện chung với nhau. Năm 2000, ngài mở Đại Năm Thánh
và ngài đã thực hiện một hành động sám hối lịch sử chưa từng có, là: “Xin
Thiên Chúa thứ tha moi tội lỗi, mà Giáo hội đã phạm trong 2000 năm qua, đặc
biệt những tội chống lại sự thật và hiệp nhất, những lầm lỗi trong những liên
hệ với dân tộc Do Thái, với vấn đề nhân quyền”. Cũng trong năm 2000,
ngài thêm Năm Sự Sáng vào Kinh Mân Côi, để Kinh Mân Côi thực sự đầy đủ
là Kinh tóm tắt toàn bộ Tin Mừng. Còn một việc quan trọng cần ghi nhớ như một
bước ngoặt là năm 1985, ngài thiết lập Đại hội Giới trẻ Thế Giới, để thu
hút giới trẻ các nước về với Giáo hội, cứ 2 năm một lần ở một quốc gia được
chọn; đây cũng là biến cố chưa xảy ra bao giờ từ trước tới nay, ký giả Peter
Seewald cho rằng “có tới hàng triệu người trên khắp hoàn cầu tới dự, đông
hơn cả những buổi trình diễn của các siêu sao nhạc Pop”.
Lược qua những công lao
chính yếu và độc đáo của Đức Chân Phước Gioan Phaolô II, vừa phong phú đa dạng,
gây ảnh hưởng đến từng bậc sống giáo sỹ, tu sĩ, giáo dân, giới trẻ; vừa góp
phần cải cách Giáo hội và cập nhật hóa Gíáo hội với Thế giới, mặc dù nhiều việc
chỉ mới khởi sự gây được ý thức và đang tìm cách áp dụng vào thực tế, chẳng hạn
ở Việt nam: việc “sống đạo theo mô hình Giáo Hội mầu nhiệm, hiệp thông, sứ
vụ”; việc đào tạo linh mục theo Tông huấn “Mục tử như lòng Chúa”;
việc đổi mới đời sống thánh hiến “xuất phát từ Đức Giêsu Kitô”... Các
tác giả lớn trên thế giới đều có chung một nhận định là Đức Gioan Phaolô II có
2 khuynh hướng nổi bật, xét bề ngoài dường như chúng đối nghịch nhau: với tín
lý của Giáo hội bao gồm cả những khía cạnh luân lý đạo đức của con người,
ngài luôn tỏ ra hết sức bảo thủ, nhưng với những vấn đề xã hội,
vị Giáo chủ thế giới Công giáo lại tỏ ra vô cùng cấp tiến, luôn đứng ở
vị trí tiên phong trong trận tuyến, chống lại cường quyền bạo lực để bảo vệ
phẩm giá, quyền sống, và mọi quyền tự do căn bản của con người. Trên giường
bệnh, lời nói sau cùng mà ngài gửi cho các tín hữu Công giáo là: “Cha rất
hạnh phúc và các con hãy vui lên. Đừng khóc. Hãy cùng cầu nguyện trong niềm vui
và bình an”. Ngài qua đời sáng Chúa nhật lễ kính Lòng Thương Xót Chúa
3-4-2005, hưởng thọ 84 tuổi. Tất cả đều là những dấu chỉ để mọi người chúng ta
hy vọng Giáo hội đang có những đổi mới, và thế giới đang nhìn vào Giáo hội với
nhiều thiện cảm hơn. Những dấu chỉ đó còn được thể hiện rõ nét trong thánh lễ
an táng của ngài: tại quảng trường Thánh Phêrô, có khoảng 300 ngàn người dự,
còn ở Rôma khoảng 3 triệu người trên các đường phố, công viên, sân vận động ...
tham dự qua màn hình. Báo chí thế giới nhận xét: “Đây là một lễ nghi đại
kết lớn nhất của lịch sử nhân loại gồm các Giáo chủ của Giáo hội Đông
phương, các đại diện của Hồi giáo, Tin lành, Anh giáo, Phật giáo... Đây là hình
ảnh của một Liên Hiệp Quốc đúng nghĩa, với cả 200 phái đoàn các nguyên
thủ quốc gia không cùng quan điểm, khác biệt đường hướng chính trị, tất cả đã
ngồi sát gần nhau mà không có sự tranh cãi...” Và chỉ 5 năm sau, đại lễ
phong Chân Phước cho Đức Gioan Phaolô II đã cử hành vào 1-5-2011, là một dấu
chỉ hùng hồn nhất về lòng yêu mến và biết ơn của Giáo hội toàn cầu đối với
ngài, một người vừa bảo thủ vừa cấp tiến, một vĩ nhân và một vị Thánh.
5. Đức Bênêđictô XVI (2005 - …)
Được bầu làm Giáo hoàng
thứ 265 của Giáo hội Công giáo và là người Đức thứ 9. Ngài lấy tên hiệu là Bênêdictô
XVI dựa theo tên của vị sáng lập dòng Biển Đức ở Nursia, đồng thời cũng dựa
theo tên của vị tiền nhiệm là Đức Bênêđictô XV, ngài được gọi là Giáo hoàng của
hòa bình vì đã đưa ra sáng kiến tái lập hòa bình trong thế chiến thứ nhất.
- Trước khi
làm Giáo hoàng, ngài chịu chức linh mục năm 1957, coi xứ 2 năm, làm
giáo sư thần học ở nhiều đại học, được đề cử làm nhà thần học chính thức của
Công đồng Vatican II. Năm 1977 được Đức Phaolô VI cử làm Tổng Giám mục và nhận
tước Hồng y, chọn khẩu hiệu “cộng tác viên vào việc truyền bá sự thật”
(3Ga 8). Năm 1978, năm của 3 Giáo hoàng: Phaolô VI qua đời tháng 8, Gioan
Phaolô I qua đời tháng 9, Gioan Phaolô II lên làm Giáo hoàng tháng 10. Ngài trở
thành bạn của Đức Gioan Phaolô II, và năm 1987, Đức Gioan Phaolô II cử ngài làm
Bộ trưởng Giáo Lý Đức Tin. Từ năm 1986-1992, làm trưởng ban soạn thảo
Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo. Năm 2001, trước sự kiện có nhiều lạm dụng
tình dục và sự thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết của các Giám mục và Hội
đồng Giám mục, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã đứng ra nhận trách nhiệm giải quyết và
điều tra 3000 trường hợp, tiếp đó Vatican đã đưa ra các nguyên tắc chỉ đạo giải
quyết các vụ lạm dụng. Ký giả Peter Seewald cho rằng: “hiếm có ai giàu lòng
ý thức về những mất mát và thảm kịch của Giáo hội trong thời hiện đại cho bằng
vị Hồng y thông minh, xuất thân từ vùng đồng ruộng bang Bayern này”[2]. Được làm Giám mục rồi Hồng y Trưởng Bộ Giáo
Lý Đức Tin, mà tiền thân của Bộ này là Tòa Thẩm Tra lạc giáo, ngài ý thức
rất rõ vai trò ngôn sứ của Giáo hội. Ngài nói “khi thấy tình trạng Giáo
hội suy đồi quá hiển nhiên:đức tin mệt mỏi, ơn gọi tu trì sút giảm, luân lý đạo
đức xuống cấp ngay cả trong giới tu sĩ, tình trạng bạo lực ngày càng gia tăng
v.v…Lời Chúa trong Kinh Thánh và những lời của các giáo phụ như vang lên trong
đầu tôi, kết án nặng nề của những mục tử nào làm chó câm để tránh bị phiền toái
và vì thế để cho nọc độc lan tràn. Im lặng không phải là bổn phận hàng đầu của
người công dân. Theo tôi mũ nỉ che tai là lối lãnh đạo tồi nhất, và riêng tôi
khiếp sợ cảnh một giám mục chỉ biết an phận, chỉ lo làm sao để tránh phiền phức
và lấp liếm xung đột”[3]. Xem như thế,
chẳng lạ gì khi người ta chế ra chữ “Hồng y thiết giáp” (Panzer
Kardinal) để gọi ngài, bởi vì nét cá biệt của người Đức là nguyên tắc một cách
quá khích, và thiếu linh động[4].
- Khi lên làm Giáo
hoàng, cũng như các vị tiền nhiệm ngài tiếp tục theo nghi lễ đăng
quang đơn giản, không ngồi kiệu, không đội mũ ba tầng, các vị
tiền nhiệm còn giữ hình mũ ba tầng trong huy hiệu Giáo hoàng, nhưng Đức
Bênêdictô XVI đã gỡ bỏ hình mũ ba tầng trong huy hiệu Giáo hoàng, thay vào
đó là mũ Giám mục. và lần đầu tiên ngài đưa hình khăn choàng vai
(Palium) vào huy hiệu Giáo hoàng. Trong lễ nhậm chức, ngài mang
Palium theo lối Giáo hội Đông phương nói lên cảm tình với Giáo hội bên Đông
và nhắc nhớ tới thời trước năm 1054 là thời hai bên Đông Tây chưa phân
cách, và còn hợp nhất dưới các vị kế nhiệm tông đồ Phêrô. Không những thế, ngài
còn gạch bỏ tước hiệu “Thượng Phụ Tây Phương” ra khỏi danh mục tước hiệu
của Giáo hoàng, có ý tỏ tình đại kết với Đông Phương. Ngài cũng cho biết ngài
sẽ dùng “tôi” khi phải nói điều gì thuộc về quan điểm của riêng ngài, nhưng
vẫn dùng “chúng tôi” khi muốn nói nhân danh tập thể, nhân danh tính cộng
đồng của Giáo hội, “vì thế “chúng tôi” ở đây không phải là từ ngữ số
nhiều ra vẻ ta đây”[5]. Đó là ngài
điều chỉnh lại những thay đổi sao cho hợp tình hợp lý hơn, chứ không phải đổi
mới là bỏ hết những gì cũ xưa mà không cân nhắc. Ngài là giáo sư thần học, có
khuynh hướng bảo vệ truyền thống và các giá trị của Giáo lý Công giáo, chống
lại khuynh hướng bài Kitô giáo và khuynh hướng vô thần theo chủ nghĩa tục hóa.
Tuy ngài chọn danh hiệu là “Bênêđictô” nhưng ngài vẫn tiếp tục theo các vị tiền
nhiệm để giải thích và áp dụng thật đúng những giáo huấn của Công đồng. Trong
thánh lễ bắt đầu sứ vụ của Phêrô, ngài nhắc lại lời Đức Gioan Phaolô II kêu
gọi: “Anh chị em đừng sợ, hãy mở nhưng còn hơn thế nữa mở toang cửa cho Đức
Kitô”. Ngài nhấn mạnh đến cái cốt lõi độc đáo của Tin Mừng, đó là Chúa
Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Và Thông điệp đầu tiên của ngài là “Thiên
Chúa là Tình Yêu” (2005), đề cao Tình Yêu như tâm điểm của Kitô giáo. Vào
năm 2007 Tông huấn sau Thượng Hội Đồng Giám Mục là “Bí tích Tình Yêu”
nói về Thánh Thể là nguồn và cao điểm của đời sống và của sứ mạng của Giáo hội.
Giữa năm 2007 ngài đi bước trước gởi thư cho tín hữu Công giáo Trung Hoa,
kêu gọi 12 triệu tín hữu của hai phía quốc doanh và hầm trú hợp nhất với Giáo
hoàng và yêu cầu Bắc Kinh tái lập ngoại giao với Toà Thánh. Cũng trong năm
2007, ngài cho phép dâng lễ theo nghi thức cũ của Công đồng Trentô mà không
cần phải xin phép Giám mục địa phương như trước đây. Dư luận trách ngài là “đi
giật lùi về quá khứ”, nhưng ngài giải thích rằng: ngài muốn giữ lại
liên quan nội tại của lịch sử Giáo hội “chúng ta không thể nói mọi thứ trước
đây là sai, bây giờ mới là đúng; là vì trong một cộng đồng vốn xem cầu nguyện
và thánh lễ là điều gì thánh thiêng nhất, nên không thể có một cái gì trước đây
là rất thánh mà nay lại hoàn toàn sai”[6].
Cuối năm 2007 ngài ban hành Thông điệp “Được Cứu Trong Hy Vọng”,
trước một thế giới tục hóa, chỉ hy vọng vào những cái vật chất nhất thời, ngài
nhắc cho thế giới biết rằng hy vọng ở vật chất không đủ, cần phải hy vọng ở cái
gì vĩ đại vượt trên mọi hy vọng, đó là chính Thiên Chúa. Sang năm 2008 ngài
khai mở Năm Thánh Phaolô để nêu lên cho mọi Kitô hữu gương sống dấn thân
cho Tin Mừng, sống gắn bó với Đức Kitô như Thánh Phaolô nói “Tôi sống nhưng
không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Đến năm
2009 ngài giải vạ tuyệt thông cho 4 giám mục thuộc Huynh đoàn Piô X của
Tổng Giám mục Pháp Lefèbvre. Bốn Giám mục này bị Đức Gioan Phaolô II ra vạ cho
họ vì họ chống lại ưu quyền của Giám mục Rôma. Nhưng về sau các Giám mục này đã
viết thư tái phục tùng Đức Giáo hoàng nên ngài đã tha vạ. Ngài dựa vào sự thật
để tha vạ, để hòa giải; nhưng dư luận chưa hiểu rõ nên xảy ra chuyện lợi bất
cập hại. Vì văn phòng báo chí
Tuy nhiên ngài không
tránh khỏi những kẻ thù nghịch muốn ám hại ngài. Năm 2007 tại quảng trường
Thánh Phêrô, một người đàn ông Đức định leo lên xe hơi của ngài nhưng đã bị
chặn lại. Và lần khác khi ngài đang ra làm lễ, một phụ nữ mắc bệnh tâm thần lao
vào nắm áo lễ làm ngài té ngã, nhưng ngài chỗi dậy và tiếp tục dâng lễ. Trên
đây là tóm lược những sáng kiến liên tục nối tiếp nhau để góp phần giải phóng
Tin Mừng và cập nhật Giáo hội về mọi mặt. Tiếp theo sẽ bàn đến việc đại kết,
việc đối thoại với các tôn giáo, và đối thoại với thế giới.
- Việc Đại Kết
là mối quan tâm hàng đầu của ngài. Ngài hướng về phía Giáo hội Chính thống là
mục tiêu chiến lược của ngài, vì Công giáo và Chính thống có cùng một cơ cấu
nền tảng nơi Giáo hội cổ xưa. Giáo hội ngày nay phải để cho gương sáng của ngàn
năm đầu tiên hướng dẫn. Vì thế Thượng phụ Giáo hội Chính thống Nga, Thượng phụ
Chính thống Hy lạp, Giám mục Tin lành Bayern, cả tín hữu Anh giáo cũng tuyên bố
sẵn sàng chấp nhận ưu quyền danh dự của Giáo hoàng Rôma. Tuy nhiên vẫn còn vô
số những khác biệt về lịch sử và văn hóa, những vấn đề thuộc giáo lý và còn cần
nhiều bước đi tới của con tim nữa. “Chỗ này Chúa còn phải giúp chúng ta
nhiều, chứ chỉ sức con người thì không thể giải quyết được”[8]. Đối với vấn đề hiệp nhất Giáo hội ở
Trung Quốc cũng đã có những tiến triển. Sau bức thư của Đức Giáo hoàng gửi
tín hữu Trung Quốc, một số lớn Giám mục trước đây được phong chức không có phép
Rôma, hiện đã công nhận ưu quyền của Giáo hoàng và vì thế đã bước vào cộng đoàn
với Rôma. Đây là điều mà trước đây chẳng ai có thể tưởng tượng được. Chỉ có
việc đối thoại với Tin lành là khó khăn, vì một số Giáo hội Tin lành đã
bỏ đi nhiều yếu tố Kitô giáo truyền thống, lại có nhiều khác biệt nhau, như Tin
lành Lutherô, Tin lành Cải cách, Tin lành Methodist, Tin lành Phục lâm… có phái
đã truyền chức cho phụ nữ hoặc công nhận đồng tính sống chung… Riêng về Anh
giáo thì
- Về
đối thoại với Hồi giáo, ngài đã vấp phải một khó khăn khi đụng chạm
tới quan niệm bạo lực và lý trí của Hồi giáo, một số đã phản ứng mãnh liệt,
nhưng một số tín hữu Hồi giáo cũng chống lại việc lạm dụng Hồi giáo vào chính
trị, và đã bắt đầu một cuộc đối thoại với Công giáo, công nhận đức tin và lý
trí, tự chúng là bất bạo động, cần tách rời tôn giáo khỏi quyền lực chính trị.
Tuy nhiên bên Hồi giáo có nhiều phe phái có lập trường đối nghịch nhau, chẳng
hạn phe Sunit chiếm đa số 90% và phe Siit là thiểu số, lại có một Hồi giáo “cao
quý” và một Hồi giáo quá khích…Vì thế việc đối thoại với Hồi giáo phức tạp hơn
rất nhiều, vì các nước Ả rập có sức mạnh tài chính lớn và căn tính Hồi giáo
đang vững chắc hơn [9]
- Về các
chuyền tông du, cho tới nay sau 7 năm, ngài đã thực hiện
được khoảng 30 chuyến. Ngài can đảm đến với những quốc gia mà dư luận cho rằng
ngài sẽ gặp khó khăn, ngay ở nước Đức quê hương ngài, người ta đã gọi
ngài là “Hồng y thiết giáp”; ở Úc tình trạng an ninh đáng lo âu;
ở Brazil giáo phái Tin lành đang lôi cuốn rất mạnh mẽ các Kitô hữu Công
giáo; ở Mỹ có bóng mây mờ của cuộc lạm dụng tình dục; ở Pháp
phong trào tục hóa và vô thần rất mạnh; ở Châu Phi có nạn dịch liệt
kháng mà ngài đã mạnh dạn tuyên bố rằng không thể giải quyết được nếu chỉ dùng
bao cao su… nhưng với lòng can đảm, khiêm tốn ngài đã loan báo Tin Mừng một
cách thuyết phục và tươi vui dựa vào sự thật và truyền thống Giáo hội.
Tóm lại Đức Bênêđictô
XVI là một nhà thần học, một cha sở, một thợ khiêm tốn trong vườn nho Chúa,
luôn bảo vệ truyền thống và các giá trị Kitô giáo, ngài tự chọn là “Cộng
Tác Viên vào việc Truyền Bá Chân Lý”(3Ga 8), giúp Kitô hữu hiểu biết và
yêu mến Đức Giêsu cũng như Giáo hội bằng một thái độ khiêm tốn và cương quyết;
cho rằng Đức Bênêđictô chỉ là vị Giáo hoàng chuyển tiếp là một nhận xét quá
giản lược. Ngài mới ở ngôi Giáo hoàng 7 năm mà tỏ ra ngài là một người dạy giáo
lý tuyệt vời, luôn nhắm tới những gì là cốt lõi độc đáo của Kitô giáo, đang
hướng dẫn Giáo hội đi vào chiều sâu tận nội tâm để giải phóng Tin Mừng. Chính
ngài đã nói: “Giáo hội có thể trở thành hiện đại bằng cách không chạy theo
lối sống hiện đại, lên tiếng chống lại trào lưu tư tưởng chung. Giáo hội mang
sứ vụ ngôn sứ phản kháng và phải có can đảm đóng đúng vai trò của mình. Chính
sự can đảm nói lên sức mạnh của Giáo hội cho dù lúc đầu nó có vẻ tác hại làm
mất vẻ thân thiện của Giáo hội, đẩy Giáo hội đến chỗ cô lập. Tuy nhiên Giáo hội
luôn tìm cách hành động tích cực để bảo vệ cái cốt yếu của mình. Giáo hội không
được phép thu mình vào vai trò đối lập toàn diện, nhưng phải biết cân nhắc kỹ,
ở đâu cần phản kháng, ở đâu cần tiếp tay, ở đâu cần tiếp sức và chung vai sát
cánh, ở đâu phải nói có và ở đâu nói không”[10].
II. DÂN CHÚA CÓ THỂ GÓP
PHẦN GÌ ĐỂ GIẢI PHÓNG TIN MỪNG
Sau khi lược tóm những
công lao do năm vị Giáo hoàng của Công đồng Vatican II góp phần mở đường cho
việc giải phóng Tin Mừng khỏi những cồng kềnh chồng chất từ quá khứ cũng như
những cản trở do khuynh hướng tục hóa hiện đại; đến lượt chúng ta mọi thành
phần khác của Dân Chúa cũng phải góp sức với các ngài để tiếp tục giải phóng
Tin Mừng khỏi những rác rưởi đủ loại còn tồn tại nơi bản thân, nơi địa phương
ta sinh sống, để mọi người có thể thấy được bộ mặt mới của Giáo hội. Mỗi vị
Giáo hoàng có một bản lĩnh và những hoạt động riêng, ta sẽ dựa theo đó để xem
mình có thể góp phần gì.
1. Đức Chân Phước Gioan
XXIII
Là một mục tử nhân hậu,
đơn sơ, khiêm tốn, ăn ở có tình có nghĩa, có lòng thương xót đặc biệt với người
nghèo khó. Ngài quan niệm Giáo hội như Mẹ và Thầy đối với mọi người, ngài hết
sức thông cảm với những âu lo của thế giới, nên quan tâm để cổ võ hòa bình hòa
giải, trong lúc thế giới đang có chiến tranh lạnh và lo sợ xảy ra chiến tranh
nguyên tử. Còn Kitô hữu hôm nay đang sống giữa một thế giới tuy không có
chiến tranh lớn, nhưng vẫn còn chủ trương mạnh được yếu thua, muốn giải quyết
mọi chuyện bằng bạo lực, khủng bố…đối xử với nhau còn quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, độc tài, thủ đoạn nhất là những người nắm quyền bính, đáng lý ra là để
phục vụ công ích…nhưng chỉ lo củng cố quyền lực, địa vị, không theo lương tri,
không phục thiện, chỉ muốn mọi người vâng phục hoàn toàn…Vì thế xã hội hôm
nay đang cần đến những con người nhân hậu, biết cảm thông, biết ăn ở có tình có
nghĩa như Đức Gioan XXIII. Sau 38 năm lãnh trách nhiệm ngoại giao của Vatican ở
Bulgari, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp…ngài về Venise năm 1953, tuổi đã 72, để lo việc mục
vụ thực sự. Ngài có thói quen đi bộ ghé thăm dân lao động chài lưới, dân bán
hàng trên đường… ai ai cũng cảm nghiệm được nhân cách khiêm tốn, bao dung, phản
ánh một tình thương thắm thiết nồng nàn; sau khi được gặp ngài ai cũng tỏ lòng
kính yêu. Cha George Lodes, một linh mục của Tổng Giáo phận St Louis bên Mỹ,
khi ở Rôma năm 1962, cha được vinh dự yết kiến Đức Gioan XXIII; có khoảng mười
linh mục trong sảnh đường; và cha là người sau cùng chào mừng Đức Giáo hoàng.
Mỗi linh mục tự giới thiệu công việc mình làm rồi quỳ xuống hôn nhẫn: Con là
viện trưởng một đại học, con dạy ở học viện, con là tuyên úy bệnh viện, con là
chưởng ấn giáo phận… Cuối cùng đến Cha George Lodes, cha cảm thấy mình thấp
kém, so với các vị linh mục kia, cha lí nhí trong miệng : “Thưa Đức Thánh
Cha con chỉ là một vị linh mục coi xứ”. Thế nhưng, trước sự rụng rời của
cha, Đức Giáo hoàng bái gối trước mặt cha, hôn tay cha, rồi đứng dậy nói : “Đó
là công việc cao trọng nhất của linh mục”. Tại sao có chuyện lạ như vậy:
Đức Giáo hoàng đặc biệt kính trọng linh mục coi xứ. Bởi vì Đức Giáo hoàng là
chủ chăn nhân hậu, là vị chăn chiên tốt lành, hiểu rõ chiên của mình, hiểu rằng
linh mục coi xứ là người ở tuyến đầu của Giáo hội, trực tiếp va chạm hằng ngày
với Dân Chúa, với thế gian trong tư cách là linh mục coi xứ, dính dáng vào rất
nhiều cuộc đời khác nhau, làm đủ thứ việc; sẵn sàng phí thời giờ với Chúa trong
kinh nguyện, mất thời giờ và bị quấy rầy vì những đòi hỏi của giáo dân, chăm
sóc chiên béo lẫn chiên gầy, chiên ốm lẫn chiên lạc…Vì thế nhiều giám mục nói
rằng hàng giáo sĩ giáo phận trước hết và trên hết phải là các linh mục coi xứ,
và cũng là các linh mục nhân hậu, hiền lành, khiêm tốn, có tình có nghĩa với
mọi người. Vậy đối với các Kitô hữu có trách nhiệm làm cha mẹ, làm thầy cô,
làm thủ trưởng…thì sao? Có cần đến các đức tính kể trên không? Chắc chắn ai
cũng thấy là cần. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh xã hội hôm nay, có được những đức
tính trên quả là một thách đố lớn. Nhưng dù gì đi nữa Tin Mừng của Đức Giêsu đã
nói rõ ràng là : cây nào trái ấy, muốn có trái tốt thì phải có cây tốt
(xem Lc 6, 24)
2. Đức Phaolô VI.
Triều đại Đức Phaolô VI
góp hai công lao rất lớn để giải phóng Tin Mừng là: thay thế mô hình Giáo
hội kim tự tháp từ cổ xưa bằng hình ảnh Giáo hội là Mầu nhiệm, Hiệp thông,
Sứ vụ, giống như những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là Đức Giêsu Kitô; công
lao thứ hai là cải tổ nội bộ Giáo hội bằng cách quét sạch “virus” phong
kiến xa hoa trong giáo triều. Vấn đề sống Giáo hội Mầu nhiệm, Hiệp thông, Sứ vụ
đã và đang được Giáo hội học hỏi và đem áp dụng cho từng bậc sống trong Dân
Chúa; còn vấn đề cải tổ nội bộ giáo triều cũng đã được Đức Phaolô VI thực hiện
ngay. Ngài đã phải suy nghĩ và can đảm quyết định:
- Không đội mũ ba tầng
của Giáo hoàng để đăng quang nhưng gửi bán đấu giá lấy tiền giúp người nghèo;
- Các Hồng y và Giám
mục không mặc áo choàng có đuôi dài 5 thước để dự lễ trọng nữa;
- Các Hồng y và Tổng
Giám mục ở
- Các Giám mục phải đệ
đơn từ chức khi đủ 75 tuổi;
- Bổ nhiệm thêm nhiều
Hồng y vào Vatican không phải là người Ý để quốc tế hóa hay công giáo hóa Giáo
hội…Những quyết định trên đụng chạm đến địa vị và quyền lợi vốn đã có từ cả
chục thế kỷ trước, nó cũng liên quan cả đến vấn đề nhà cửa, đồ dùng, tiện nghi.
Nhất là ngày nay với xu hướng tục hóa, tự do hưởng thụ của thời hiện đại, nhiều
người thừa tiền sẵn sàng tiêu xài một cách vô tội vạ.
Tôi liên tưởng đến một
sự kiện hiển nhiên cách đây khoảng chục năm. Tôi đi công tác ở Đại Chủng viện
Huế, được cha quản lý và một số cha giáo đưa đi thăm “Thành phố ma” mà
tôi đã có dịp xem trong báo “Tuổi Trẻ Cuối Tuần”. Đó là một “thành phố”
nằm dọc theo dải cát ven biển của phá Tam Giang. Hai bên một con đường nhỏ xe
hơi chạy thì nhà cửa lụp xụp của dân lao động chài lưới, nhưng bên ngoài dãy
nhà phía bãi cát ra tới biển là các thứ lăng mộ, nhà thờ tổ tiên, cao thấp to
nhỏ lẫn lộn nối đuôi nhau cả cây số, được xây cất trang trí công phu như một
thành phố. Độc giả chỉ cần mở Google, đánh: “Thành phố ma ở Huế”là được
thấy hình màu cận cảnh cũng như toàn cảnh của thành phố ma mới chụp năm 2011.
Khi xe đến giáo xứ An Bằng, xứ của cha Lê văn Nghiêm, học Đại Chủng viện Xuân
Bích, ngài rất vui mừng đón tiếp chúng tôi và giới thiệu mình tên là Nghiêm
nhưng không nghiêm. Ngài cho biết trước đây dân chúng làm nghề chài lưới, dải
cát từ đường ra biển được dùng làm nghĩa địa chôn mồ mả từ xưa đến giờ chỉ thấp
lè tè. Sau năm 1975, nhiều thuyền đánh cá vượt biên sang Mỹ làm ăn rất thành
công. Khoảng gần năm 2000, họ được trở về quê thăm mồ mả và sửa sang lại để làm
lễ giỗ. Họ đua nhau mướn thợ xây cất mồ mả đẹp, lớn, cao và trang trí rồng
phượng rất tỉ mỉ công phu. Cha xứ chỉ cho tôi mấy cái lăng mộ cao hơn hai chục
thước, có hình nóc vòm giống như đền thờ thánh Phêrô ở Rôma, chi phí cỡ 15 tỷ
đồng Việt Nam…Hàng năm họ về làm đám giỗ, mướn ban nhạc nổi tiếng trong nước và
đãi tiệc rất linh đình. Giáo dân ở đây chỉ là thiểu số, tôi chỉ thấy bóng ít mộ
có thánh giá ở trên nóc. Tuy nhiên cũng có ít đại gia Công giáo trong xứ giúp
đỡ cha xứ để có ngôi nhà thờ xây kiên cố, có tháp chuông, ngôi nhà xứ khang
trang có tầng lầu, có nhà sinh hoạt giáo lý và nhiều nhà phụ khác đủ tiện nghi.
Nhưng ngài gặp khó khăn là các đại gia giành nhau xin sửa cung thánh, đổi
bàn thờ, thay tượng ảnh đẹp và nghệ thuật hơn theo ý họ, họ bao hết từ A đến Z…Ngài
phải khéo léo vất vả năn nỉ lắm mới từ chối được…
Rồi mới đây, một sự
kiện hiển nhiên khác là đầu năm 2012, một giáo xứ ở Sàigòn mới góp công góp của
để đại trùng tu nhà thờ, nhà xứ, nhà giáo lý…với tháp chuông cao kiểu hiện đại.
Được ít năm, có đại gia đến đề nghị cha xứ cho xây lại toàn bộ mới, lớn hơn,
gọn hơn…Cha xứ thấy mới sửa xong còn tốt đẹp, nay phá đi xây lại thì không
đành, công lao đóng góp của bao nhiêu người, giáo dân, ân nhân…nên ngài khéo
léo từ chối. Sau đó cha xứ được đổi đi nơi khác. Cha xứ mới về được hai năm,
đại gia lại đến xin xây lại mới theo mô hình Nhà thờ Chánh tòa Sàigòn, nhưng có
tầng hầm ở dưới, đại gia bao hết tứ A đến Z, chi phí khoảng 30 tỷ. Cha xứ mới
rất mừng vì cơ hội đến tay, liền nhận lời và xin cấp trên đến đặt viên đá đầu
tiên vào năm 2012, sau vài tháng đã phá bình địa và đang khởi công.Tôi đem câu
chuyện kể lại cho mấy cha trong Nhà Hưu nghe, có cha mừng cho cha xứ “tốt
số” có quí nhân giúp đỡ làm sáng danh Chúa mà không vất vả đi xin tiền hay tốn
công; có cha khác nói rằng nhà thờ nhà xứ…mới đại tu mà đã phá đi xây lại thì
thật uổng phí công lao của giáo dân và cha xứ cũ; giá dùng tiền đó có thể giúp
xây được vài chục nhà nguyện cho các họ nhỏ ở xa xôi vùng Tây nguyên hay vùng
đồng ruộng heo hút thì tuyệt vời biết mấy…Xin để độc giả suy nghĩ.
Còn một sự kiện hiển
nhiên nữa đang nổi lên từ mấy năm nay, rất đáng quan tâm, mà báo chí và trên
mạng có đăng: những đại gia tổ chức đám cưới bạc tỷ, hoặc ăn điểm tâm bát phở
bò
3. Đức Gioan Phaolô I
Ngài chỉ làm Giáo hoàng
vỏn vẹn 33 ngày nhưng đã để lại một nét đặc biệt là ngài thường mỉm cười, nên
dân chúng gọi ngài là “Giáo hoàng mỉm cười”. Ngài mỉm cười cốt là để
khuyến khích và nâng cao giá trị của người đối thoại với mình. Thường khi bạn
mỉm cười với người nào, chín trên mười lần người ấy sẽ mỉm cười lại và bạn đã
làm cho những ngày sống của hai người nên sáng tươi tốt đẹp hơn. Nụ cười là
hệ thống chiếu sáng của gương mặt và là hệ thống sưởi ấm của con tim. Như
thế nụ cười đáng giá hơn ngàn lời nói, và nụ cười là ngôn ngữ của tình yêu.
Nhưng tiếc thay, trong thế giới và xã hội hiện đại, nhiều khi lại thiếu vắng nụ
cười. Kitô hữu là những người có sứ vụ loan báo Tin Mừng, là một Tin Vui; chúng
ta rất cần học bài học của Đức Gioan Phaolô I. Hàng tuần nghe đài Veritas, tôi
thấy có bài hát về khóc
và cười. Bài hát như sau:
Con hỏi mẹ:
Mẹ ơi khi sinh ra, sao
em bé không cười mà lại khóc ?
Mẹ ơi khi sinh ra, sao
em bé cứ khóc mà không Cười ?
Mẹ trả lời:
Con ơi, con không biết
sao?
Khi sinh ra ai ai cũng phải khóc.
Nhưng muốn cười thì phải học, con ơi.
Muốn cười thì phải học,
học cho thấm nhuần ý nghĩa và giá trị của nụ cười. không học cười ta có thể chỉ
quen cười theo thói “gì cũng cười” hoặc cười vô duyên vô ý thức, như thế
nụ cười không thể trở thành ngôn ngữ và đại sứ của tình yêu được.
Nhà văn nổi tiếng
Saint-Exupéry từng là phi công người Pháp tham gia chống phát xít Đức trong đệ
nhị thế chiến. Ông được coi là một nghệ sĩ của tình nhân loại. Chính từ những
năm tháng này ông đã viết ra tác phẩm “Nụ Cười”. Trong truyện, Saint-Exupéry là
một tù binh bị đối xử khắc nghiệt, và ông biết nay mai có thể bị xử bắn như
nhiều người khác. Ông viết: “Tôi trở nên người quẩn trí. Bàn tay tôi giật giật,
cố gắng rút trong túi áo một điếu thuốc. nhưng tôi lại không có diêm. Qua hàng
chắn song nhà giam, tôi trông thấy một người cai tù. Tôi gọi: “xin lỗi, anh có
lửa không?”. Anh ta nhún vai rồi tiến lại gần. Khi rút que diêm, tình cờ mắt
anh nhìn vào mắt tôi. Tôi mỉm cười mà chẳng hiểu vì sao lại làm như thế. Có lẽ
vì khi muốn làm thân với ai đó, người ta dễ dàng nở một nụ cười. Lúc này dường
như có một đốm lửa bùng cháy nhanh qua kẽ hở giữa hai tâm hồn chúng tôi, giữa
hai trái tim con người. Tôi biết anh ta không muốn, nhưng do tôi đã mỉm cười
nên anh ta phải mỉm cười đáp lại. Anh ta bật que diêm, đến gần tôi hơn, nhìn
thẳng vào mặt tôi và miệng vẫn cười. Giờ đây trước mặt tôi không còn là viên
cai ngục phát xít mà chỉ là một con người. Anh ta hỏi tôi: “anh có con chứ?”.
Tôi đáp: “Có” và lôi từ trong ví ra hình nhỏ của gia đình mình. Anh ta cũng vội
rút trong túi áo ra hình những đứa con, và bắt đầu kể lể về những kỳ vọng của
anh đối với chúng. Đôi mắt tôi nhòa lệ. Tôi biết mình sắp chết và sẽ chẳng bao
giờ gặp lại được người thân. Anh ta cũng bật khóc. Đột nhiên không nói một lời,
anh ta mở khóa và kéo tôi ra khỏi khu vực thị trấn chiếm đóng thả tôi tự do rồi
quay trở về.
Thế đó, cuộc sống của
tôi đã được cứu thoát chỉ nhờ một nụ cười…
4. Đức Chân Phước Gioan
Phaolô II
Triều Giáo hoàng của
ngài là một trong ba giáo triều lâu nhất (26 năm), ngài đã thực hiện được rất
nhiều công việc đặc biệt, để giải phóng Tin Mừng: từ những hoạt động mục vụ
(gặp gỡ dân chúng, phong thánh, cải tổ và bổ nhiệm chức vụ trong giáo triều)
đến các cuộc tông du trong Rôma và ngoài thế giới, rồi những tác phẩm và giáo
huấn về mọi vấn đề, việc đối thoại đại kết và với các tôn giáo khác… ngài có
sức khỏe thật nhưng từ khi bị thương nặng, tuy được chữa khỏi, nhưng hậu quả
còn ảnh hưởng suốt đời. Kitô hữu khó mà bắt chước những công việc ngài đã
làm, nhưng ngài đã kín múc năng lượng ở đâu để chu toàn ngần ấy công việc?
Chính ngài đã chia sẻ và khuyến khích ta là: dành nhiều thời gian thờ phượng
trước Bí tích Thánh Thể và sống tận hiến cho Đức Maria.
Trong Thông điệp
“Giáo Hội từ Thánh Thể” ngài đã chia sẻ kinh nghiệm quí báu của ngài là: “để
thấu hiểu, cảm nghiệm, cảm mến, và để sống được những gì mà Thiên Chúa làm cho
chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, cần phải dành nhiều thời gian thờ phượng trước
Bí tích Cực Thánh; đó là kinh nghiệm hàng ngày của bản thân tôi, nhờ đó tôi kín
múc được sức mạnh, nguồn an ủi và nâng đỡ” (số 25).
- Và đây là một
chứng từ. Khi được Đức Piô XII đề cử ngài làm Giám mục Phụ tá Tổng giáo
phận Krakow, ngài cho Đức Hồng y Wyszinski biết là ngài chấp nhận, rồi trên
đường về, ngài vào một tu viện, hỏi nữ tu coi cửa cho biết nhà nguyện, rồi lẳng
lặng bước nhanh tới trước bàn thờ, ném mình quỳ gập xuống. Một giờ, hai giờ,
rồi ba giờ trôi qua. Các nữ tu lần lượt bước vào nhà nguyện quan sát rồi lặng
lẽ bước ra. Đến giờ cơm tối, các nữ tu phát hiện vị linh mục chính là giáo sư
Karol Wojtyla, và quyết định mời dùng bữa, nhưng cha từ chối và tiếp tục ở lại
nhà nguyện. Sơ bề trên bước vào thấy cha vùi mặt vào hai bàn tay dường như đang
chìm sâu vào một cuộc đối thoại trong thinh lặng với Thiên Chúa. Và như thế cha
đã cầu nguyện trong suốt 8 tiếng đồng hồ liên tiếp rồi mới rời tu viện.
- Về sau, khi đã làm
Giáo hoàng, đức Tổng Giám mục Kabongo, thư ký riêng của ngài có kể lại rằng:
một lần khoảng 3 giờ sáng, Đức Hồng y Quốc vụ khanh gọi điện thoại đến văn
phòng báo cho Đức Giáo hoàng biết về một tình hình khẩn trương trên thế giới.
Đức Kabongo điện thoại vào phòng ngủ Đức Giáo hoàng, không ai trả lời. Lo lắng,
ngài đích thân đến phòng ngủ gõ cửa và đi vào không thấy Đức Giáo hoàng. Ngài
liền qua nhà nguyện cũng không thấy. Ngài vào bếp, phòng ăn, thư viện riêng vẫn
không thấy. Ngài lên khu vườn trên sân thượng chỗ đi dạo cũng không có nốt.
Ngài trở lại và lần này nhìn kỹ hơn, ngài thấy trong nhà nguyện Đức Giáo hoàng
đang phủ phục sát đất để cầu nguyện…
- Còn đối với Đức
Maria, từ tuổi thanh xuân ngài đã biết tác phẩm “Sự thành thực sùng kính
Đức Maria” của Cha Louis Maria Grigrion de Mongfort và ngài đã tận hiến cho
Đức Mẹ vì hiểu rằng tôn sùng Mẹ Thiên Chúa là giúp hướng về Đức Kitô và bám rễ
sâu xa trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cũng như mầu nhiệm Nhập thể Cứu độ.
Cho nên khi làm Giáo hoàng ngài lấy khẩu hiệu là: “Con hoàn toàn thuộc về Mẹ”
(Totus tuus sum ego). Khi bị bắn trọng thương ở quảng trường thánh Phêrô hôm
13.05.1981, cha thư ký kể lại: lúc chở ngài đi cấp cứu ngài luôn nhắc lại: “Maria
Mẹ của con, Maria Mẹ của con, cặp mắt nhắm nghiền”. Sau khi biết thoát
chết, ngài nói: “một người nổ súng và một người khác lại hướng dẫn đường đạn
đi”. Năm sau 1892, ngài đi hành hương
Cuộc đời của ngài gắn
bó với Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể, và hoàn toàn thuộc về Mẹ Maria. Ngài làm việc 17 giờ
một ngày và dành 7 giờ cho việc dâng lễ, cầu nguyện và suy gẫm. Ngài để lại cho
Dân Chúa một gương mẫu quí giá tuyệt vời, đó là khám phá và cầu nguyện trên hai
đầu gối hoặc phủ phục trong chiêm ngưỡng và tôn thờ trước Bí tích Thành Thể, để
kín múc lấy sức mạnh, nguồn an ủi và nâng đỡ. Kitô hữu đang lữ hành trên
đường gió bụi, mỗi người một hoàn cảnh, một trách nhiệm, lúc vào đời, lúc phấn
đấu, khi bệnh tật, khi già yếu… chúng ta không thể làm được nhiều việc ngài
đã làm, nhưng có một việc ai cũng có thể bắt chước ngài là kín múc sức mạnh
nơi Bí tích Thánh Thể. Trong giáo phận ta, nhiều nhà thờ đã xây thêm phòng
Chầu Thánh Thể để mỗi người có thể đến gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu và lòng
Thương Xót của Người, ta hãy đến để được Người bổ sức hầu có thể trở thành “tấm
bánh được bẻ ra cho anh chị em mình”[11].
5. Đức Bênêdictô XVI
Ngài
là một giáo sư thần học ở nhiều đại học, được chọn làm chuyên viên thần học
chính thức của Công đồng Vatican II. Khi lên làm Tổng Giám mục và nhận tước
hiệu Hồng y ngài chọn khẩu hiệu “Cộng Tác Viên vào việc Truyền Bá Chân Lý”
(3Ga 8). Năm 1981 được Đức Gioan Phaolô II đề cử làm Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức
tin. Xem như thế, mối quan tâm chính yếu của bản thân ngài cũng như dư luận bên
ngoài đều nhận thấy ngài là người bảo vệ truyền thống Giáo hội và bảo vệ
chân lý đức tin. Trước một thế giới hiện đại có xu hướng tự do và thực
dụng, coi nhẹ chân lý và chủ trương tương đối hóa, ngài là người rất cần
thiết cho Giáo hội, để giải phóng Tin Mừng khỏi những thêm thắt lệch lạc cũng
như những phiêu lưu xa rời giáo lý truyền thống. Ngài đã tiếp tục đổi mới
những gì chưa được cập nhật, không còn phù hợp chân lý, và đã nêu gương cho
Dân Chúa về vai trò của một ngôn sứ, đó là phải tố giác (bá cáo cho người có
trách nhiệm biết những gì là xấu xa tội ác chẳng hạn những thảm họa bất công,
lạm dụng tình dục, bạo lực đối với trẻ em hoặc người nghèo, hủy hoại môi trường
…) và đồng thời loan báo (báo tin rộng rãi cho mọi người) bằng lời nói
hay việc làm những gì là lẽ phải, là lương thiện, là chân lý Tin Mừng.
Trước một thế giới và
xã hội đảo điên ngày nay, đầy dãy những học giả, bằng giả, hàng giả …Kitô hữu
noi gương Đức Bênêđictô, thực thi vai trò ngôn sứ của mình, sẵn sàng vừa tố
giác vừa loan báo; mỗi Kitô hữu phải là công tác viên của chân lý, làm chứng
cho sự thật. Ngài có nêu lên câu hỏi:”Giáo hội phải làm gì để vừa cởi
mở, vừa để khỏi bị xơ cứng như trong dĩ vãng? Giáo hội phải đồng hành với thế
giới hiện đại đến mức nào?; đâu là điểm Giáo hội cần tỏ ra can trường để là một
ngôn sứ đối lập ?”. Và chính ngài tiếp tục đặt câu hỏi :”Giáo hội là
ai hay Giáo hội là gì?”. Và trả lời ngay là :”Dĩ nhiên tất cả
những ai có tiếng nói nhân danh Giáo hội, tức là giáo quyền ở mọi cấp, đều phải
có can đảm phản kháng”. Nhưng lúc này không nên bỏ qua câu nói:“Chúng
tôi là Giáo hội”, trong ý nghĩa đích thực của nó. Không phải chỉ những ai
có chức vụ, chỉ giáo quyền mới là Giáo hội. Câu nói trên chỉ hữu hiệu, đáng tin
cho thế giới và trở thành câu nói đưa đến hành động, khi nó không chỉ là lời
giảng suông, không chỉ xuất hiện trong những văn kiện của Rôma hay trong Thư
Mục vụ, nhưng khi lời nói của người giảng dạy là tiếng nói chung của Giáo hội
sống động. Vì thế, những lời này không nên chỉ do lệnh từ trên ban xuống, nhưng
Kitô hữu phải cùng nhau học biết chính họ là lực lượng phản kháng trong nhiều
trường hợp. Theo tôi đó là điểm rất quan trọng”[12]. Như vậy Kitô hữu cần đề phòng chạy
theo xu hướng vô cảm, giả điếc làm ngơ, sống chết mặc bay. Và Đức Bênêdictô
có suy nghĩ rằng :”Im lặng không phải là bổn phận hàng đầu của người công
dân, và riêng tôi, tôi khiếp sợ cảnh một giám mục chỉ biết an phận, chỉ lo làm
sao để tránh phiền phức và lấp liếm xung đột. Theo tôi, mũ ni che tai là lối
lãnh đạo tồi nhất”[13]. Đó là Đức
Giáo hoàng nhắc tới các giám mục, còn đối với các linh mục đã có lạm dụng tình
dục thì ký giả Peter Seewald nói với ngài rằng: “người ta phải sửng sốt
tự hỏi tại sao những lạm dụng lại được gây ra bởi chính những người hàng ngày
đọc Tin Mừng, dâng Thánh lễ, làm các Bí tích?”. Còn ngài cũng muốn hỏi: “Họ
nghĩ gì khi mỗi sáng bước lên bàn thờ và dâng Thánh lễ? Họ có đi xưng tội
không? Họ đã nói gì trong tòa cáo giải? Đâu là những hệ quả của việc xưng tội
đối với họ? Lẽ ra việc xưng tội phải là một dụng cụ lớn, lôi kéo họ ra khỏi
vũng lầy và bắt họ phải đổi mới… Điều đó càng cho thấy tầm quan trọng của việc
tương trợ và quan tâm đến nhau giữa hàng linh mục; cho thấy tầm quan trọng của
trách nhiệm giám mục trong việc chăm sóc và thúc đẩy sự tương trợ đó; cho
thấy tầm quan trọng trong việc kêu cầu các giáo dân hãy đồng hành với các linh
mục …Các giáo dân nhận ra mặt yếu của linh mục và tự nhân trách nhiệm
giúp các linh mục trong những yếu đuối đó”[14].
Chúng tôi là Giáo hội, và “Giáo hội có sứ mạng ngôn sứ phản kháng và phải có
can đảm đóng đúng vai trò mình”[15].
ĐỂ KẾT
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm
khai mạc Công đồng Vatican II, chúng ta có dịp hiểu biết những sự kiện hiển
nhiên đang xảy ra trong Giáo hội, có dịp tìm lại bản sắc tinh túy của Tin Mừng,
và đối chiếu với thực trạng Giáo hội ngày nay, để nhận ra những rác rưởi, những
lỗi thời, những trì trệ, giúp chúng ta đồng cảm với Giáo hội, và tham gia cộng
tác tích cực với Giáo hội để giải phóng Tin Mừng. Các Đức Giáo Hoàng của Công
đồng là những ngôn sứ đã can đảm mở đường, tập trung vào Chúa Giêsu Kitô,
xuất phát lại từ chính Ngài bằng gắn bó với Ngài trong Bí tích Thánh thể, trong
Thánh lễ và các Bí tích, bằng chiêm niệm Lời Chúa trong cầu nguyện hàng ngày để
có sức thiêng mà luôn sống nhân hậu, hiền lành, khó nghèo, không sợ chết, không
sợ khổ, không an phận, luôn mỉm cười. Bây giờ không còn là thời mà giáo dân
thụ động, “dành” cho các Đấng các Bậc lo truyền giáo, lo xây dựng Giáo hội. Công
đồng Vatican II đã khai tử mô hình Giáo hội kim tự tháp rồi, Dân Chúa
cần ý thức vị trí căn tính của mình trong Giáo hội để cùng với hàng giáo phẩm
thi hành nhiệm vụ ngôn sứ cho thế giới. Tình yêu Chúa Giêsu Kitô đã mời gọi
chúng ta bước vào Năm Thánh 2010 để đổi mới Giáo hội tại Việt Nam, ước
mong Kitô hữu Việt Nam luôn duy trì được nhiệt tình như những Kitô hữu tiên
khởi của Giáo hội, luôn cậy dựa vào quyền lực của cùng một Thần Khí đã đổ xuống
trong Lễ Ngũ Tuần, để lại lên đường lần nữa bước vào Năm Đức Tin, thực hiện
việc tái truyền giảng Tin Mừng, Tân Truyền giáo hay Tân Phúc Âm hóa cho một thế
giới hiện đại đang chủ trương tục hóa.
Linh mục Antôn Nguyễn Mạnh Đồng
Nhà Hưu Dưỡng Cần Thơ
Tài liệu tham khảo :
1.
Để Giải Phóng Tin Mừng, Paul Tihon, Cerf, 2011
2.
Muối Cho Đời, Peter Seewald, Phương Đông, 2000
3.
Ánh Sáng Thế Gian, Peter Seewald, Tôn giáo, 2011
4.
Đức Chân Phước Gioan Phaolô II, Phêrô Nguyễn thanh Tùng, nhà xuất
bản Tôn giáo, 2011
[1] xem Muối Cho Đời
trang 84
[2] xem Muối Cho Đời, trang
10
[3] xem Muối Cho Đời, trang
82
[4] xem Muối Cho Đời, trang
84
[5] xem Muối Cho Đời trang
115
[6] xem Ánh Sáng Thế Gian trang 141
[7] xem Ánh Sáng Thế Gian, trang 106
[8] xem Ánh Sáng Thế Gian, trang 122, 123
[9] xem Muối Cho Đời
243-245
[10] xem Muối Cho Đời, trang 240
[11] xem Sứ điệp Thánh Thể và Truyền Giáo
[12] xem Muối Cho Đời trang 274
[13] xem Muối Cho Đời trang 82
[14] xem Ánh sáng thế
gian trang 56, 57
[15] xem Muối Cho Đời trang 240