ĐỐI THOẠI VÀ THẢO LUẬN TRONG SUỐT CÔNG ĐỒNG
(giaolyductin.net 04/10/12, 8:47 am)
Bất kỳ người Công giáo nào trên 50 đang
vật lộn với ý thức rằng nhiều người công giáo trẻ tuổi hơn, cách riêng chủng
sinh và linh mục trẻ, không chia sẻ cảm thức của họ về sự mắc nợ (mang ơn) đối
với công đồng Vatican II. Như một trong những người công giáo "trên
50", tôi thâm tín rằng chúng ta bị nguy hiểm khi bỏ quên (xao nhãng) ảnh
hưởng công đồng. Tuy nhiên, ý nghĩa lâu dài của Công đồng không bị giới hạn vào
16 văn kiện được công bố. Có nhiều điều Giáo hội hôm nay có thể học từ một sự
xem xét thái độ (hành xử) hiện thực của công đồng.
Yves Congar, nhà giáo hội học vĩ đại
dòng Đaminh của thế kỷ 20 và là một người tham khảo chủ chốt về thần học tại
công đồng, tin rằng các công đồng biểu lộ một thực tại sâu xa nền tảng cho
chính giáo hội - tính công đồng (conciliarity) - Trong một bài viết có ảnh
hưởng trong giáo hội học hậu công đồng (“The Council as an Assembly and the Church as
Essentially Conciliar”), cha Congar phàn nàn về khuynh hướng bàn
đến các công đồng như những biến cố pháp lý suông mà thôi. Ngài nhấn mạnh rằng,
các công đồng, theo một nghĩa nào đó, là một sự biểu thị của toàn giáo hội. Các
công đồng thực hiện "một sự toàn thể hóa ký ức của giáo hội." Nếu
Congar đúng, thì những năng động lực chủ chốt của giáo hội đã hoạt động tại
công đồng cũng phải hiện diện trong đời sống của giáo hội chúng ta hôm nay.
Mọi công đồng chung biểu lộ hay bày ra,
theo một mức nào đó, chính Giáo hội thật sự là gì. Điều xẩy ra tại những công
đồng chung thì hơn là viết lách, tranh cãi, duyệt xét và phê chuẩn các văn
kiện. Tại một công đồng chung, thánh nhân và tội nhân, kẻ uyên thâm và người
dốt nát cùng qui tụ lại. Họ chia sẻ đức tin của mình, nói lên những quan tâm
của họ; họ cầu nguyện, thảo luận, nói chuyện, rèn những đồng minh và những thỏa
hiệp, đi vào những vận động có tính chính trị, nổi lên trên vận động đó để phân
định những phong trào (vận hành) của thần khí, lo lắng về việc giữ truyền thống
lớn trong đó căn tính của họ được đâm rễ, tìm cách hiểu những nhu cầu của thời
khắc hiện tại và niềm hy vọng cho một tương lai tốt hơn.
Việc những người qui tụ tại một công
đồng mang những tước hiệu cao cả (giáo hoàng, thượng phụ, hồng y, tổng giám
mục, giám mục, bề trên tu sĩ, thần học gia) và mang những y phục không thông
thường không được khiến chúng ta chia trí khỏi sự kiện rằng, một cách cơ bản
nhất, họ là anh chị em (phụ nữ đóng vai trò của mình dẫu bị hạn chế) trong đức
tin đối với tất cả những Kitô hữu công giáo khác. Những quyết nghị của họ biểu
thị, trong một hình thức gây chú ý (nổi bật) Giáo hội được gọi để là gì.
Cha Congar lý luận chống lại ý tưởng
được lưu hành do một số người suốt thời chuẩn bị cho Vatican II, rằng có thể có
một "công đồng bằng bút tích." Theo nhãn quan như thế, nháp các văn
kiện rồi gởi cho các giám mục là có thể đủ rồi. Đoạn các ngài nộp lại những
bình luận và đề nghị bằng bút mực (bằng văn); rồi theo đó người ta tu sửa thành
một phiên bản mà được gởi trở lại cho họ để bỏ phiếu chung cục. Congar chống
lại một đề xướng như thế như một giả bộ có tính giáo hội. Thay vào đó, ông nhấn
mạnh rằng các giám mục nhất thiết phải qui tụ lại để quyết định như một cơ quan
giám mục về những nhu cầu và quan tâm của Giáo hội. Ông biết rằng có
những năng động lực cốt yếu của giáo hội mà chỉ hoạt động chỉ với điều kiện các
giám mục được cho phép có cơ hội quyết định và phân định chân thật. Hãy xét ba
trong những động lực này.
Tính công giáo của đối thoại
Năng động lực đầu tiên thuộc về tính
công giáo của đối thoại. Ở đây tôi dùng hạn từ Công giáo hợp với những gốc
nguyên ngữ. Từ ngữ Hy lạp katholikos được rút từ gốc, kat'holou, "thuộc về hay
hướng về toàn thể". Tính công giáo xác định cơ bản giáo hội là
duy-nhất-trong-đa-dạng. Đối thoại có tính chất giáo hội là công giáo theo mức
độ nó tự do dính líu đến những viễn cảnh và trực giác khác nhau. Trong bốn khóa
họp của công đồng, các giám mục được giới thiệu cho những giám mục khác từ
những quốc gia và lục địa khác; họ nhìn vào những vấn đề mục vụ và thần học từ
những viễn cảnh rất khác nhau. Một trong những quyết định khéo léo hơn của công
đồng liên quan đến chỗ ngồi của các giám mục trong đại thính phòng [(aula) chính diện của Vương cung thánh đường thánh Phêrô ở đó những
buổi họp chính của công đồng được diễn ra]. Các giám mục được xếp ngồi trật
tự theo tính niên lão giám mục hơn là do vùng. Điều này tạo nên những trường
hợp trong đó chẳng hạn, một giám mục Ý có thể ngồi bên cạnh một giám mục từ Phi
châu.
Sự sắp đặt này làm cho có thể có được
một sự trao đổi những viễn cảnh và trực giác khác nhau cách hiệu quả. Thực vậy,
một số công việc quan trọng nhất của công đồng được thực hiện tại "quán
uống nước" (được gọi diễu từ hai nhân vật của Tin mừng, Bar-Jonah và
Bar-Abbas) rộng mở sau những dãy ghế trong đại thính đường (aula).
Sau khi vật lộn để còn thức khi nghe bài
diễn từ tiếp theo nhau bằng tiếng Latinh nhạt nhẽo, Các Giám mục tìm được nghỉ
ngơi ở những chỗ uống càphê và thường dấn vào cuộc đối thoại thẳng thắn về
nhiều đề tài khác nhau. Đó là cuộc đối thoại liên tục, mặt đối mặt, và chia sẻ
những kinh nghiệm khác nhau vốn mở mắt các giám mục đến những khả thể mới.
Những cuộc đối thoại này được dễ dàng hơn nữa bằng những cuộc tụ họp không
chính thức của các giám mục như 22 giám mục thường gặp nhau tại khách sạn Domus Mariae;
họ cam kết khích lệ một thảo luận rộng lớn hơn đã có thể trong đại thính
đường. Những giám mục này hàng tuần gặp nhau thảo luận những đề tài được
công đồng xem xét. Họ gộp vào giữa con số của họ những đại biểu chủ chốt từ
những hội đồng giám mục khác nhau và dùng như một thứ làm sáng tỏ căn nhà cho
những ý tưởng và để xuất, làm dễ dàng cho các thỏa hiệp có thể dùng được trên
những đề tài tranh luận. Các giám mục công đồng cũng có cơ hội tương tác với
những nhà thần học (periti) và những quan sát viên ngoài Công giáo vốn cống
hiến những ghi nhận (nhận xét) về những vấn đề được công đồng xem xét.
Chính nhiều cơ hội để thảo luận và tranh
cãi, cả chính thức lẫn thân mật đã cho phép các giám mục phân định sự thúc đẩy
của Thần khí. Ngay cả cầu nguyện chung của công đồng cũng đào sâu tính công
giáo của đối thọai này. Những phụng vụ hằng ngày được cử hành trên một cơ sở
xoay vòng giữa những truyền thống phụng vụ khác nhau, Đông và Tây. Nhiều người
tham dự công đồng ghi nhận trong những nhật ký của họ cái ấn tượng có tính biến
đổi của những buổi cử hành này như những kinh nghiệm của một giáo hội giàu có
một cách khôn dò trong tính đa dạng hơn họ đã tưởng nghĩ trước kia.
Tính công giáo của đối thoại này hiển
nhiên tại công đồng chiếu tỏ một ánh sáng chói mắt trên tình trạng của giáo hội
chúng ta hôm nay. Chúng ta tìm cách sống đức tin của mình trong một văn hóa vốn
đã trở thành ngày càng thô lỗ. Chúng ta cũng gặp lối nói khoa trương biến thành
quỷ sứ trên truyền hình cáp quang, truyền thanh và trong thế giới blog
(blogosphere). Tuy nhiên công đồng nhắc nhớ chúng ta Kitô hữu có bổn phận phải
kính trọng đối thoại với dân chúng mà những khóe nhìn của họ có thể rất khác
biệt với chúng ta. Thái độ của Công đồng dạy chúng ta rằng một điều kiện tiên
quyết để phân định trong giáo hội là xác tín rằng không ai trong chúng ta một
cách cá nhân có mọi câu trả lời. Chúng ta khám phá sự dẫn dắt của Thần khí và
thấu nhập quyền năng và ý nghĩa của lời Thiên Chúa qua đối thoại trong giáo hội
và cơ hội để tương tác với những tín hữu vốn cống hiến cho chúng ta những trực
giác, kinh nghiệm và vấn nạn khác nhau.
Khiêm tốn học hỏi
Một năng động lực thứ hai hiển nhiên tại
công đồng là sự cam kết của các giám mục đối với học hỏi cách khiêm tốn. Trong
thế kỷ trước công đồng, phân tách giáo hội thành hai phần trở thành thông
thường: giáo hội dạy dỗ (ecclesia docens) được tạo thành do giáo sĩ và giáo hội học
hỏi (ecclesia
discens) gồm giáo dân. Lối tưởng nghĩ giáo hội như thế này bỏ qua
(lờ đi) một cách nguy hiểm sự kiện rằng giáo mục không có một độc quyền trên
chân lý thần linh. Họ không nhận tri thức thiên phú vào lúc thụ phong giám mục.
Đó không phải là trường hợp mà một linh mục với một sự hiểu biết không vững về
giáo lý ba ngôi trước ngày thụ hong giám mục sẽ đột nhiên có thể cho những bài
thuyết trình (nói chuyện) uyên bác về đề tài đó vào ngày sau khi thụ phong! Như
thánh Cyprinao thành
Những sử gia về Công đồng II sẽ cho thấy
nhiều giám mục công đồng sẵn sàng cách đáng kể để lại trở thành học sinh. Thật
dễ dàng quên rằng một số lớn các giám mục, khi đó cũng như bây giờ, thấy rằng
những trách nhiệm mục vụ của họ làm cho họ khó khăn để bắt kịp (cập nhật) với
sự uyên thâm hiện hành về lịch sử, kinh thánh và thần học. Khi công đồng tiến
hành, nhiều giám mục tìm thấy những dữ liệu chuyên viên của nhiều thần học gia
nổi tiếng và những quan sát viên đại kết vốn ở Roma trong lúc đó. Nhiều vị đều
đặn dự những buổi nói chuyện ban chiều tối được cống hiến do những thần học gia
quan trọng. Giám mục Albino Luciano (Giáo hoàng Gioan Phaolô I tương lai), chấp
nhận, theo một bài viết trong The National Catholic Reporter (Oct. 4, 2002), rằng trong
công đồng ngài cố gắng tranh thủ học ở trong phòng. Ngài giải thích, khi quy
chiếu đến Đại học Giáo hoàng Gregorian, được các anh em dòng Tên điều khiển:
Mọi sự tôi học tại Đại học Gregorian nay
vô ích. Tôi phải trở thành học sinh một lần nữa. May thay, tôi có một vị giám
mục Châu Phi như là một người láng giềng trong những dãy ghế trong phòng họp
công đồng, vốn cho tôi những bản văn của các chuyên viên của các Giám mục Đức. Cách
đó tôi có thể chuẩn bị mình tốt đẹp hơn.
Vatican II nhắc nhớ chúng ta rằng chúng
ta tất cả là môn đệ của Đức Giêsu và, vì thế, là những người học hỏi suốt đời.
Điều này đúng cho giáo hoàng cũng như cho các trẻ em chuẩn bị rước lễ lần
đầu. Giáo hội lữ hành của chúng ta không sở hữu chân lý cho bằng giáo hội khiêm
nhường sống trong đó, có thể nói như thế, khi biết hoàn toàn rõ ràng rằng chúng
ta sẽ không có được chân lý sung mãn, (LG 8), phía này của cuộc quang lâm lần
thứ hai của Đức Giêsu. Chúng ta tất cả được thánh tẩy thành một trường học lớn
của tư cách môn đệ từ đó không ai trong chúng ta đã từng tốt nghiệp. Đức Kitô,
vị thầy của chúng ta, tỏ ra chỉ bất kiên nhẫn đối với những ai ngạo mạn trong
sự chắc chắn của họ.
Rộng mở với thế giới
Năng động lực cuối cùng hiển nhiên trong
những tranh cãi (quyết định) của công đồng là rộng mở với thế giới. Chính
Đức Giáo hoàng Gioan XXIII tạo sắc thái cho sự rộng mở này. Nhiều người đã sai
lầm tố cáo Giáo hoàng Gioan là một kẻ lạc quan ấu trĩ, một lời tố cáo đáng kể
xét theo bề ngoài, khi người ta xét rằng trong thế chiến I ngài đã phục vụ như
một người y sĩ khiêng băng ca, chăm sóc những người bị thương và những nạn nhân
khuyết tật của cuộc xung đột đẫm máu đó. Sau này, như một nhà ngoại giao trong
giáo hội, ngài giữ những chức vụ của giáo hội trong những nơi chốn nóng bỏng
toàn cầu như
Giáo hoàng Gioan biết rõ những sự dữ
hiện diện trong thế giới, nhưng ngài thâm tín rằng chúng ta không được phóng
đại những sự dữ đó và kháng cự lại chủ nghĩa khải huyền tăm tối (dark
apocalypticism). Trong nhiều diễn từ và bài giảng của mình, ngài biểu lộ
một thái độ của sự dấn thân kính trọng nhưng có phê phán với thế giới. Trong
tông hiến "Humanae
Salutis" mà qua đó ngài chính thức triệu tập công đồng, giáo
hoàng cảnh cáo "những tâm hồn hoài nghi" vốn chỉ nhìn thấy "bóng
tối chất nặng bộ mặt trái đất." Và trong diễn từ khai mạc tại công đồng,
ngài ghi nhận lời khuyên mà ngài đôi khi nhận được từ "những ngôn sứ ảm
đạm", vốn "không nhìn thấy gì ngoại trừ sự quanh co và sụp đổ"
trong thế giới hôm nay.
Giáo hoàng Gioan XXIII thâm tín rằng các
Kitô hữu phải sẵn sàng đọc "những dấu chỉ thời đại" và dấn thân một
cách kiến tạo vào thế giới. Thực vậy lịch sử của công đồng có thể được đọc như
một cuộc chiến dài giữa các giám mục công đồng để thủ đắc một hình thức của sự
dấn thân quân bình trong đó giáo hội có thể rao giảng tin mừng Đức Kitô với một
sự tín thác (confidence) khiêm cung, thách đố những lực lượng của thù hận và
tham lam ngay cả như nó xác quyết những dấu chỉ của Nước TC đã hiện diện trong
thế giới. Suốt dòng công đồng, các giám mục trở nên thâm tín rằng thời đại đòi
hỏi một giáo hội vốn đã sống trong một sứ mệnh có thể bị thương và rộng mở đối
với thế giới, đang khi thưc hiện sự biến đổi từ bên trong như men. Nhờ đó công
đồng quay lưng lại với khuynh hướng tiền công đồng để đứng trong sự phán xét
nghiêm nhặt thế giới từ những đỉnh cao Olympic ưu đãi nào đó.
Ở đây thái độ và hành sử của công đồng
lại cống hiến trực giác cho giáo hội tân tiến chúng ta, vì chúng ta vẫn nghe
quá nhiều những tuyên bố mang tính khải huyền về "một văn hóa sự
chết" và "chủ thuyết duy tục độc hại". Công đồng nhắc nhớ chúng
ta rằng chúng ta không được nhượng bộ đối diện với sự dữ, nhưng chúng ta cũng
không đóng mắt trước những dấu hiệu của ân sủng luôn hiện diện ở nơi nhân loại
tìm công bằng và chân lý và hỏi những câu hỏi lớn về ý nghĩa đời sống và ý
nghĩa tối hậu.
Suốt ba năm tới chúng ta sẽ có dịp rộng
lớn để cử hành lời dạy dỗ của Vatican II như một sự thành tựu hấp dẫn và tập
trung cho giáo hội ngày nay. Tuy nhiên chúng ta không bao giờ nên quên rằng
công đồng, trong thái độ và những nghị quyết của mình, là một biểu lộ của GH
trong một hình thức bi kịch và mãnh liệt. Như một biến cố của giáo hội, công
đồng nhắc nhớ chúng ta rằng giáo hội chúng ta hôm nay phải (1) tiếp tục
thực hành tính công giáo của đối thoại, (2) duy trì một sự cam kết cho khiêm
tốn học hỏi và tìm tòi và (3) nâng đỡ một sự rộng mở đối với thế giới trong đó
chúng ta được sai đi. Nếu chúng ta trung thành với những trách vụ này, có lẽ
chúng ta có thể hoàn thành niềm hy vọng của Giáo hoàng XXIII để canh tân giáo
hội; điều này sẽ khôi phục lại "những đường nét đơn sơ và tinh tuyền mà
khuôn mặt của Giáo hội Đức Kitô có lúc khai sinh."
Richard Gaillardetz