CÔNG ÐỒNG VATICAN II
Một trong những cải tổ lớn lao
và sâu xa trong Giáo Hội ngày nay là Công Ðồng Vatican II. Công Ðồng đã xảy ra
cách đây 40 năm, nhưng cho tới nay, dường như tinh thần của Công Ðồng Vatican
II chưa được nghiên cứu và áp dụng một cách sâu rộng trong đời sống cá nhân
cũng như cộng đoàn của Giáo Hội Việt Nam. Thiết tưởng vào dịp kỷ niệm Công Ðồng
Vatican II vừa tròn 40 năm, ta nên tìm hiểu lại về Công Ðồng để theo kịp những
đổi mới của Thánh Thần trong việc sống đời Ki-tô hữu cũng như trong việc tổ
chức Giáo Hội.
Thiên Chúa nói với con người mỗi thời mỗi cách
Thiên Chúa điều khiển lịch sử,
đặc biệt lịch sử Giáo Hội. Và Thiên Chúa đã mạc khải về chính Ngài, về kế hoạch
của Ngài, đồng thời giáo dục con người một cách tiệm tiến qua lịch sử. Ðời sống
của toàn nhân loại giống như đời sống của một con người, khởi đầu sinh ra không
biết gì hết, nhưng cứ mỗi ngày mỗi thu thập một số kinh nghiệm và kiến thức qua
các giác quan, nhờ vậy biết nghe, biết hiểu, rồi biết nói, biết đọc, biết viết.
Càng ngày trí thông minh càng phát triển, đứa bé bắt đầu đi học, từ lớp mẫu
giáo đến cấp 1, rồi cấp 2, cấp 3, rồi đại học, v. v. Thế giới cứ mỗi ngày mỗi
mở rộng ra trước tâm trí của nó. Kiến thức của nó nhiều khi phải thay hình đổi
dạng để trở nên tiến hóa và phức tạp hơn.
Nhân loại cũng tiến hóa về mọi
mặt: thể chất, tinh thần, kiến thức, trí tuệ, tâm linh. Con người bước từ thời
kỳ ăn lông ở lỗ, đến thời kỳ đồ đá, sang thời đồ đồng, đồ sắt, qua biết bao
thời đến thời biết sử dụng điện, động cơ nổ, điện thoại, tivi, máy vi tính.
Kiến thức và sự hiểu biết của con người tiến hóa không ngừng. Về mặt tâm linh
con người cũng tiến hóa từ thấp đến cao, thô sơ đến phức tạp.
Sự hiểu biết về Thiên Chúa của
con người cũng tiến hóa từ thấp đến cao tương tự như vậy. Con người tự tìm hiểu
về Thiên Chúa qua tự nhiên một phần, và chính Thiên Chúa mạc khải cho con người
về Ngài, về kế hoạch của Ngài một phần khác. Nếu chỉ tìm hiểu Thiên Chúa qua
sức tự nhiên của mình, con người sẽ hiểu về Thiên Chúa một cách hết sức giới
hạn. Nhưng Thiên Chúa muốn cứu độ con người, nên Ngài đã mạc khải cho con người
suốt dòng lịch sử. Và Ngài mạc khải một cách tiệm tiến, song hành với trình độ
hiểu biết hay văn hóa của con người.
Theo thánh Phao-lô, thì thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán
dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã
phán dạy chúng ta qua Thánh Tử Giê-su (Dt 1,1-2a). Thật vậy, Thiên
Chúa đã mạc khải cho con người mà cụ thể là dân Do Thái qua các tổ phụ
(A-bra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp.), rồi qua Mô-sê và Gio-suê, rồi qua các phán
quan, các vua, rồi qua các ngôn sứ (khởi đầu là Ê-li-a, Ê-li-dê, rồi A-mos,
Ô-dê, rồi I-sa-i-a, v. v.), và sau cùng là qua Ðức Giê-su, Con Thiên Chúa. Cả
một lịch sử dài mấy ngàn năm năm như vậy, mỗi lần mỗi cách Thiên Chúa mạc khải
cho con người một ít. Ðó là phương pháp sư phạm của Thiên Chúa, vì con người
không thể tiếp thu một lúc quá nhiều kiến thức về Thiên Chúa, cũng như một học
sinh không thể tiếp thu trong một tuần kiến thức của cả một năm học, lại càng
không thể tiếp thu chương trình của cả một cấp. Ngay cả tới thời Ðức Giê-su,
tuy dù mạc khải của Ðức Giê-su là mạc khải viên mãn, nhưng viên mãn ở đây không
có nghĩa là mạc khải tất cả những gì liên quan đến Thiên Chúa, mà chỉ được hiểu
là tất cả những gì cần thiết và đủ để con người được cứu rỗi. Vì con người tìm
hiểu thế giới hữu hạn này suốt cả mấy chục thế kỷ mà mới chỉ biết được một phần
tỷ so với những gì chưa biết, lẽ nào kiến thức về Thiên Chúa vô hạn lại có thể
gói gọn trong một số lời gồm mấy trăm câu nói của Ðức Giê-su. Chính Ðức Giê-su
đã từng nói: Thầy còn nhiều điều phải nói
với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi (Ga 16,12).
Chính vì thế, để tiếp tục công việc mạc khải cho con người, Ngài mới hứa: Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới
sự thật toàn vẹn (Ga 16,13).
Thánh Thần nói với con người thời đại
qua các Công Ðồng chung
Như vậy, sau việc mạc khải của
Ðức Giê-su, thì việc mạc khải tiếp theo là do Thần Khí trong Giáo Hội. Thần Khí
không tự mình nói ra giống như Ðức Giê-su, mà Ngài linh ứng cho người này người
kia, hoặc tập thể này tập thể kia nói lên những điều Ngài muốn nói. Nhưng nhân
vật chính thức nhất, được Ngài linh ứng nhiều nhất để nói lên tiếng nói của
Ngài cho toàn dân Chúa là tiếng nói của các Công Ðồng chung và của các Ðức Giáo
Hoàng, người đại diện Ðức Ki-tô ở trần gian. Qua các Công Ðồng chung và các Ðức
Giáo Hoàng, Thiên Chúa vẫn tiếp tục mạc khải cho nhân loại phù hợp với trình độ
tâm linh và văn hóa của họ, để đưa nhân loại tiến gần hơn tới sự thật toàn vẹn (Ga 16,13). Do đó,
Công Ðồng chung chính là phương tiện chính thức mà Thánh Thần dùng để nói với
con người thời đại.
Trong lịch sử Ki-tô giáo,
trước Công Ðồng Vatican II đã có 20 Công Ðồng chung: Công Ðồng đầu tiên là Công
Ðồng Nicea I (năm 325), và Công Ðồng cuối cùng vào lúc đó là Công Ðồng Vatican
I (năm 1870). Công Ðồng Vatican II là Công Ðồng chung thứ 21 (năm 1962-1965).
Công Ðồng chung là một đại hội thượng đỉnh trong Giáo Hội gồm vị giáo hoàng
đương nhiệm và các huynh đệ của ngài là các giám mục ở khắp nơi trên thế giới.
Các vị họp nhau lại để cùng nhau giải quyết những khó khăn nghiêm trọng đang
xảy ra trong Giáo Hội (chẳng hạn khi phải đối diện với các bè phái lạc giáo,
hoặc khi có sự ly khai lớn trong Giáo Hội) để cùng đi đến những quyết định sáng
suốt cho những vấn đề quan trọng ấy. Giáo hoàng và các giám mục họp nhau như
thế là theo gương của các tông đồ xưa.
Trong sách Công Vụ Tông đồ
đoạn 15 có kể việc các tông đồ họp nhau lại để cùng quyết định một vấn đề quan
trọng. Ki-tô giáo xuất thân từ Do Thái giáo, nên ngay từ thời kỳ đầu, có chuyện
xảy ra là các Ki-tô hữu gốc Do Thái giáo đòi hỏi các Ki-tô hữu gốc ngoại giáo
rằng: Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo
tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ (Cv 15,1). Những
người Pha-ri-siêu trở lại Ki-tô giáo còn chủ trương: Phải làm phép cắt bì cho người ngoại và truyền cho họ giữ luật Mô-sê
(15,5). Như vậy là muốn theo Ðức Giê-su thì cũng phải theo Do Thái giáo, cũng
phải giữ luật Mô-sê. Thế thì Tân Ước còn cồng kềnh và nặng nề hơn Cựu Ước vốn
đã cồng kềnh và nặng nề lắm rồi! Ðức Giê-su đến để giải phóng con người khỏi
ách của lề luật, lẽ nào theo Ngài lại phải giữ nhiều lề luật hơn: vừa luật cũ,
lại vừa luật mới! Chính vì thế Các Tông Ðồ
và các kỳ mục bèn họp nhau để xem xét vụ này (15,6). Trong cuộc họp,
các tông đồ đều lên tiếng nói ý kiến của mình: sách Công Vụ chỉ ghi lại hai bài
diễn từ của Phê-rô và Gia-cô-bê, chắc hẳn là hai ý kiến tiêu biểu nhất của các
tông đồ. Cuối cùng, quyết định của hội nghị được tổng kết thành một lá thư,
trong đó có viết: Thánh Thần và chúng tôi đã
quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần
thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài
vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là
tốt rồi (15,28-29).
Công Ðồng chung Vatican I
(1870) là một Công Ðồng bị dở dang, chưa hoàn tất, và phải đình hoãn vô thời
hạn vì một biến cố chính trị xảy ra tại Ý: giáo phận Rôma bị sát nhập vào vương
quốc Ý. Công Ðồng này mới chỉ bàn về vấn đề quyền tối thượng và ơn bất khả ngộ
của Ðức Giáo Hoàng. Vấn đề này vốn không nằm trong chương trình ban đầu, nhưng
lại được Công Ðồng đưa ra bàn và định tín trước. Nhiều vấn đề quan trọng khác
chưa được bàn tới thì Công Ðồng bị đình hoãn. Chính vì quyền tối thượng và ơn
bất khả ngộ được định tín trong Công Ðồng này, nên người ta - cụ thể và đặc
biệt là luận đề của Bismark - cho rằng từ nay sẽ chẳng còn cần tới Công Ðồng
chung nữa: giáo hoàng có quyền quyết định tất cả, kể cả vấn đề đức tin, nên
giáo huấn của giáo hoàng đã là mực thước của đức tin rồi!
Nhưng không ngờ, năm 1959, Ðức
Gioan XXIII, dù tuổi già sức yếu, lại có tư tưởng muốn triệu tập Công Ðồng
chung Vatican II, và cuối năm 1961, ngài chính thức quyết định sẽ triệu tập
Công Ðồng Vatican II vào ngày 2-2-1962.
Bối cảnh Giáo Hội thời Công Ðồng Vatican II
1. Thế giới đã và đang thay đổi ngày càng nhanh
chóng
Vào thời Ðức Giáo Hoàng Gioan
XXIII, người ta không thấy một khó khăn nào nổi cộm trong Giáo Hội đến nỗi phải
triệu tập Công Ðồng cả: chẳng có lạc giáo, chẳng có ly khai, chẳng bị bách hại,
Giáo Hội rất bình yên và có uy quyền lớn mạnh hơn bao giờ hết. Nhưng dưới con
mắt hướng về tương lai và đầy tính tiên tri của vị giáo hoàng rất lớn tuổi này,
Giáo Hội hơn bao giờ hết cần phải chuẩn bị đối diện với những vấn đề cực kỳ khó
khăn của thời đại đang hoặc sắp xảy đến.
Ngài nhận thấy từ khi bước
sang thế kỷ 20, nhân loại thay đổi hết sức nhanh chóng so với thế kỷ 19, vốn đã
được coi là có quá nhiều thay đổi vĩ đại so với các thế kỷ trước. Khoa học và
kỹ thuật đã có những bước tiến khủng khiếp, đã trở thành một cuộc cách mạng vĩ
đại có khả năng thay đổi não trạng và tâm thức con người thời đại. Nhiều thứ lý
thuyết đã thượng tôn khoa học kỹ thuật, cho rằng khoa học tiến bộ sẽ có khả
năng thay thế tôn giáo. Những lý thuyết này thúc đẩy con người thời đại đặt hết
niềm tin và hy vọng vào thế giới vật chất, vào khả năng giải quyết của khoa học
kỹ thuật. Niềm tin tôn giáo vì thế bị lung lay, những hứa hẹn của tôn giáo bị
tan vỡ. Con người thời đại chịu ảnh hưởng của tinh thần duy lý của René
Descartes, tinh thần khoa học thực nghiệm của Claude Bernard: chỉ chấp nhận là
đúng những gì đã được chứng minh hay kiểm chứng bằng thực nghiệm.
Quá tin vào khoa học, nhưng
con người lại bị chính khoa học phản bội. Chưa bao giờ khoa học lại làm cho con
người đau khổ như hiện nay, có khả năng tiêu diệt nhau nhanh chóng, hàng loạt
và tối tân như hiện nay. Chiến tranh càng ngày càng dễ xảy ra không chỉ giữa
nước này với nước kia, mà giữa khối nước này với khối nước kia. Nguy cơ thế
giới bị tiêu diệt bởi bom nguyên tử, nguy cơ thế chiến bùng nổ luôn luôn đe dọa
con người.
Trước một thế giới đang và sẽ
thay đổi một cách khá toàn diện như thế, Giáo Hội - với tinh thần nhập thể của
Ðức Ki-tô - không thể không thay đổi. Vì nếu không thay đổi, Giáo Hội không thể
thích ứng với thế giới mới. Mà không chịu thích ứng, Giáo Hội sẽ trở nên xa lạ
với thế giới và vì thế sẽ không đem lại ích lợi gì cho thế giới. Vậy, chắc chắn
Giáo Hội cần phải thay đổi. Nhưng thay đổi thế nào để Giáo Hội vừa vẫn là Giáo
Hội của Ðức Ki-tô, vừa thích ứng được với thế giới mới? Ðó là điều mà Ðức Gioan
XXIII kỳ vọng vào Công Ðồng Vatican II.
2. Nhiều nỗ lực hướng đến hiệp nhất Ki-tô giáo
Khởi đầu, Giáo Hội chỉ là một
Giáo Hội duy nhất do Ðức Ki-tô thiết lập. Thế nhưng qua thời gian, Giáo Hội đã
bị rạn nứt thành nhiều mảnh, với biết bao nhiêu giáo phái: tuy cùng tin vào Ðức
Giê-su Ki-tô, nhưng tuyên xưng niềm tin cách khác nhau. Tuy đại đồng tiểu dị,
nhưng nhiều giáo phái coi nhau như ngoại đạo, như khác tôn giáo nhau, như chẳng
phải là anh em con cùng một Cha. Ðiều này thật tủi hổ cho Ðức Giê-su, người
Thầy chung của tất cả, Ðấng đã nói: Mọi
người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu
thương nhau (Ga 13,35). Thật vậy, không gì làm đau lòng Ðức Giê-su
cho bằng sự kiện những kẻ tin theo Ngài, đều tự nhận là môn đệ Ngài, lại coi
nhau như xa lạ, chỉ vì khác nhau trong một số tiểu tiết. Ðó là một gương xấu
rất lớn cho thế giới, và vì thế, Giáo Hội đã đánh mất biết bao cơ hội quí giá
cho việc truyền giáo.
Các nước trên thế giới đang cố
xích lại gần nhau hơn, tìm cách giao lưu, hợp tác với nhau về nhiều mặt, chẳng
lẽ các giáo phái Ki-tô giáo - vốn chỉ chiếm 1/3 dân số thế giới - lại cứ tiếp
tục chia rẽ nhau? Vì thế, các giáo phái Ki-tô giáo, dường như cũng ý thức được
sự chia rẽ sai trái của mình suốt bao thế kỷ nay, cảm thấy cần phải xích lại
gần nhau hơn. Từ đó, trong mọi giáo phái, luôn luôn phát sinh những con người
cổ võ và hoạt động cho sự hiệp nhất các giáo phái Ki-tô giáo. Vì thế, hơn bao
giờ hết, qua Công Ðồng Vatican II, Giáo Hội quan tâm tới sự hiệp nhất Ki-tô
giáo hơn bao giờ hết
Diễn tiến của Công Ðồng chung Vatican II
Công Ðồng Vatican II được thực
hiện qua nhiều giai đoạn:
1. Chuẩn bị xa (1959-1960)
Công Ðồng Vatican II đã bắt
đầu manh nha trong tư tưởng của Ðức Gio-an XXIII từ lúc nào và do đâu thì ít ai
biết. Nhưng việc tổ chức Công Ðồng đã được ngài chính thức đề nghị và chuẩn bị
xa từ tháng 5-1959. Ngài đã đề cử Ðức Hồng Y Quốc vụ khanh Tardini làm chủ tịch
Ủy Ban phụ trách việc chuẩn bị này. Ủy ban này có nhiệm vụ thăm dò ý kiến của
các nghị phụ sẽ được mời và của các đại học công giáo. Ý kiến từ khắp nơi gửi
về đều hoan hỉ tán thành việc tổ chức Công Ðồng. Một sự kiện chưa từng có là
khi hỏi ý kiến, Ủy ban không hề giới hạn các đề mục, nên các ý kiến trở nên hết
sức phong phú, đề cập đến rất nhiều vấn đề cần thiết phải cải tổ trong Giáo
Hội.
Giữa năm 1960, ngài còn thành
lập 3 Văn phòng và 12 Ủy ban, tương ứng với các Thánh bộ của giáo triều. Thành
phần các Ủy ban được tuyển chọn từ các giáo hội địa phương trên toàn thế giới.
Ngày 7-12-1959, ngài chính thức đặt tên cho Công Ðồng là Vatican II.
2. Chuẩn bị gần (1960-1962)
Các Ủy ban đã thành lập phải
làm việc ngày đêm để tổng hợp các ý kiến đã nhận được hầu cung cấp các lược đồ
cho hội nghị. Ðể hoàn thành một lược đồ, các thành viên của Ủy ban phải họp
nhau lại dưới quyền chủ tọa của một hồng y, với sự cộng tác của nhiều chuyên
viên tài giỏi, để phân tích, tổng hợp, phân loại, đúc kết mọi đề tài sẽ được
các nghị phụ đem ra bàn thảo và biểu quyết sau này. Ðể tiến hành công việc này,
mỗi đề tài lại được phân chia thành nhiều tiểu đề, mỗi tiểu đề lại do một tiểu
ban hay một nhóm chuyên viên đảm trách. Mỗi tiểu ban có nhiệm vụ tổng kết tiểu
đề của mình thành một bản sơ thảo sau nhiều lần bàn cãi và tu bổ. Các bản sơ
thảo đều được in và gửi tới mọi thành phần của Ủy ban và các cố vấn để họ cho
nhận xét hay ý kiến. Sau khi nhận được các nhận xét hay ý kiến này, các tiểu
ban phải xem xét, hội thảo và soạn thảo lại.
Cuối cùng lược đồ sẽ được Ủy
ban nhóm họp lại, bàn cãi tự do và bỏ phiếu quyết định, rồi đệ trình lên Ủy ban
Trung ương do chính Ðức Giáo Hoàng làm chủ tịch. Ủy ban Trung ương được coi như
một tiểu Công Ðồng, gồm nhiều hồng y, thượng phụ, giám mục. của 37 quốc gia. Ủy
ban này sẽ cẩn thận duyệt xét các lược đồ rồi bỏ phiếu chấp thuận. Lược đồ nào
chỉ cần bị một phần ba các thành viên không đồng ý là bị loại bỏ, và Ủy ban
Trung ương phải soạn thảo một lược đồ khác thay thế. Cuối cùng, lược đồ mới
được đệ trình lên Ðức Giáo Hoàng, ngài sẽ quyết định cho đem trình bày với các
Nghị phụ ở Công Ðồng. Tất cả có 70 dự án được chấp thuận.
3. Các khoá họp của Công Ðồng (1962-1965)
Có 4 khoá họp:
a) Khoá họp đầu tiên (từ 11-10 đến 8-12-1962):
Có 2.449 nghị phụ tới tham dự
khóa họp này (số được mời là 2.904 vị). Khi khai mạc, Ðức Giáo Hoàng đưa ra
những tôn chỉ của Công Ðồng là:
- cởi mở với thế giới,
- thông cảm chứ không
lên án tuyệt thông,
- xót thương hơn là
khắt khe,
- nhận chân rằng thế
giới cũng rất nhạy cảm, không chấp nhận sai lầm,
- loan truyền Tin Mừng
với tinh thần lạc quan hơn là bi quan.
Trong khoá họp này, các nghị
phụ tuyển chọn thành phần cho các Ủy Ban Công Ðồng, mỗi Ủy ban gồm khoảng 25
thành viên. Có tất cả 273 nghị phụ được tuyển chọn vào 10 Ủy ban.
Sau khi gửi một sứ điệp cho thế giới, các nghị phụ bắt
đầu làm việc theo 7 lược đồ đã được đề nghị cho khóa họp này. Nhưng mới chỉ bàn
thảo về 5 lược đồ mà vẫn chưa xong được lược đồ nào. Theo dự tính thì sẽ có 73
lược đồ được bàn thảo tại Công Ðồng. Nhưng tới cuối khoá họp này, các nghị phụ
thấy các vấn đề quá bao la, không thể bàn cãi hết được, vì các vấn đề không đơn
giản, các đề tài được đưa ra bàn thảo gây nên những cuộc tranh luận hết sức sôi
động, căng thẳng, kịch liệt giữa các nghị phụ. Mọi lược đồ nếu được đưa ra bàn
cãi thì sẽ tốn rất nhiều thời giờ. Vì thế, Ðức Giáo Hoàng quyết định rút lại
còn 20 lược đồ. Khoá họp sau sẽ được tổ chức vào cuối tháng 9-1963, nên các Ủy
ban Công Ðồng còn 9 tháng để soạn thảo và đúc kết lại 20 lược đồ này cho khoá
họp tới.
Nhưng rất tiếc trong thời gian
này, Ðức Gio-an XXIII đã về với Chúa, và Ðức Phao-lô VI lên kế vị. Vị tân giáo
hoàng này sẽ tiếp tục Công Ðồng Vatican II.
b) Khoá họp thứ hai (từ 29-9 đến 4-12-1963):
Khoá họp này do Ðức Tân Giáo
Hoàng Phao-lô VI chủ tọa, ngài có tinh thần vượt trên mọi thành kiến, và tư
tưởng của ngài còn có vẻ tiến bộ hơn của Ðức Gio-an XXIII. Ngài cải tổ lại các
qui tắc Công Ðồng và dám tuyên bố chỉnh đốn lại giáo triều Rô-ma. Trong diễn
văn khai mạc, ngài gọi các giáo phái Ki-tô giáo khác là những anh em bất hòa (chứ không phải ly khai nữa). Ngài còn lên tiếng xin Thiên
Chúa và những anh em bất hòa đó
tha thứ cho những lỗi lầm của Giáo Hội Rô-ma trong việc chia rẽ Ki-tô giáo. Quả
là một điều táo bạo chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội Công giáo.
Cuối khoá họp này, mới chỉ có
hai văn kiện được công bố sau khi được bỏ phiếu và được đa số chấp thuận:
1) Sắc lệnh về Các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội
2) Hiến chế Phụng Vụ.
Khác với các Công Ðồng trước,
Công Ðồng Vatican II tỏ ra tôn trọng cộng đoàn tính của các giám mục hơn. Các
Công Ðồng trước, khi chính thức công bố, Ðức Giáo Hoàng viết: Ta ra sắc lệnh, thiết lập và phê chuẩn. với sự chấp thuận của Thánh Công Ðồng.
Như thế, chính Ðức Giáo Hoàng công bố, các giám mục chỉ có việc chấp nhận, xem
ra quá thụ động. Còn trong Công Ðồng Vatican II, Ðức Phao-lô VI viết: Tất cả và từng điều được ban bố trong Hiến Chế này
đều được các Nghị Phụ Thánh Công Ðồng chấp thuận. Và dùng quyền tông đồ Chúa
Ki-tô trao ban, hiệp cùng các Nghị
Phụ khả kính. Chúng tôi phê chuẩn..
Như thế, không phải chỉ Ðức Giáo Hoàng, mà toàn thể các giám mục cùng với Ngài
phê chuẩn. Ðó là một bước tiến làm nổi bật tính cộng đoàn của các Giám mục.
c) Khoá họp thứ ba (từ 14-9 đến 21-11-1964):
Trong bài diễn văn khai mạc
khóa này, Ðức Giáo Hoàng đề cao tính cộng đoàn của các giám mục. Qui luật của
Công Ðồng được sửa đổi: rút kinh nghiệm những khoá họp trước, để tránh những ý
kiến lập lại, các nghị phụ nào muốn phát biểu ý kiến, phải đăng ký trước 5
ngày, nhờ đó công việc tiến hành nhanh hơn.
Kết thúc khoá họp này, có ba
văn kiện được công bố:
1) Hiến chế về Giáo Hội,
2) Sắc lệnh về Hiệp Nhất,
3) Sắc lệnh về Các Giáo Hội Công giáo Ðông Phương.
Ðồng thời Ðức Giáo Hoàng công
bố Ðức Ma-ri-a là Mẹ Giáo Hội (điều này khiến nhiều nghị phụ bất bình vì không
được tham khảo ý kiến, vả lại nó gây đụng chạm với anh em Tin Lành).
d) Khoá họp thứ tư (từ 14-9 đến 8-12-1965):
Trong diễn văn khai mạc, Ðức
Giáo Hoàng quyết định thành lập Thượng Hội Ðồng Giám Mục để thể hiện tính cộng
đoàn của các ngài.
Cuối khóa này, một số các văn
kiện đã được bỏ phiếu chấp thuận và được công bố:
1) Sắc lệnh về Giám mục,
2) Sắc lệnh về Ðời Sống Dòng Tu,
3) Sắc lệnh về Ðào Tạo Linh Mục,
4) Tuyên ngôn về Giáo Dục Ki-tô giáo,
5) Tuyên ngôn về Tự Do Tôn Giáo,
6) Hiến chế về Mạc Khải,
7) Sắc lệnh về Tông Ðồ Giáo Dân,
8) Sắc lệnh về Truyền Giáo,
9) Sắc lệnh về Chức Vụ và Ðời Sống Các Linh Mục,
10) Hiến chế Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay.
11) Tuyên ngôn Liên Lạc của Giáo Hội với Các Tôn Giáo Ngoài Ki-Tô
Giáo.
Ngày sau hết của Công Ðồng
được đánh dấu bằng một sự kiện lịch sử: vào ngày 7-12-1965, trong tinh thần
tiến tới hiệp nhất, Ðức Phao-lô VI tại Rô-ma và Ðức Thượng Phụ Athenagoras tại
Istanbul, cùng một lúc xóa bỏ án tuyệt thông lẫn nhau. Án tuyệt thông này do
hai vị lãnh đạo hai giáo phái lớn của Ki-tô giáo đã ra cho nhau năm 1054, gây
nên sự ly khai giữa Giáo Hội Công giáo Rô-ma và Giáo Hội Chính Thống giáo Ðông
Phương. Ðây là thành quả tốt đẹp và giá trị nhất của Công Ðồng Vatican II.
Những đặc điểm tiêu biểu của Công Ðồng
1. Tinh thần Giáo Hội
Từ trước đến nay, chưa một
Công Ðồng Chung nào đề cập một cách qui mô đến nhiều vấn đề phức tạp, phong phú
trong Giáo Hội như Công Ðồng Vatican II. Nhưng tư tưởng trụ cột của Công Ðồng
chính là quan niệm về Giáo Hội. Có thể nói: Công Ðồng tìm cách diễn tả chính
xác về Giáo Hội, vừa phù hợp với bản chất không thay đổi của Giáo Hội (dựa trên
Thánh Kinh, Thánh Truyền), vừa phù hợp với ngôn ngữ và quan niệm của thời đại.
Chưa hề có một Công Ðồng nào bận tâm về vấn đề này. Có một quan niệm chính xác
và đúng đắn về Giáo Hội, ta mới có thể dựa trên đó để xác định những vấn đề
quan trọng khác như quan hệ giữa Giáo Hội với thế giới, vấn đề hiệp nhất các
giáo phái Ki-tô giáo, v.v. Có thể nói Giáo Hội là đề tài trọng tâm của Công
Ðồng Vatican II, tất cả mọi văn kiện của Công Ðồng đều xoay quanh và đặt nền
tảng trên vấn đề Giáo Hội. Do đó, Hiến Chế về Giáo Hội là văn kiện căn bản nhất
của Công Ðồng Vatican II.
Giáo Hội bao gồm nơi mình rất
nhiều quốc gia, chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ, và các thành phần trong Giáo Hội
(các chức sắc, tu sĩ, giáo dân, các tu hội, đoàn thể, v.v.) Vì thế, muốn mang
tính Giáo Hội một cách đầy đủ, Công Ðồng phải có sự hiện diện đầy đủ của những
người đại diện cho các quốc gia, chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ, và mọi thành
phần của Giáo Hội.
Vì thế, về những người tham
dự, chưa có một Công Ðồng Chung nào có một con số nghị phụ được mời mang tính
đa dạng và đông tới trên 3.000 vị, và tỷ lệ tham dự khoảng trên 80%. Các nghị
phụ là các giám mục đến từ tất cả các quốc gia có Ki-tô giáo trên thế giới
(trong thời gian họp Công Ðồng, có 253 vị qua đời, nhưng được thay thế bởi 296
vị tân giám mục được tấn phong).
Ngoài ra còn có:
+ sự hiện diện và hợp tác của 460 nhà chuyên
môn (đa số là các linh mục triều và dòng, phần còn lại là các tu sĩ, thành viên
các tu hội, và giáo dân).
+ 42 dự thính viên là giáo dân, 10 dự tính viên
là nữ tu, và 45 dự thính viên là linh mục cùng đi với giám mục của họ (được mời
sau các dự thính viên trên).
Có thể nói mọi giáo hội địa
phương trên thế giới đều có người đại diện trong Công Ðồng.
2. Tinh thần hiệp nhất
Một trong những mục đích lớn
của Công Ðồng là mở lối và tạo điều kiện cho sự hiệp nhất giữa những người tin
theo Ðức Ki-tô. Công Ðồng đã thực hiện mục đích này:
- qua các văn kiện giáo lý
như: Sắc lệnh về Hiệp Nhất, Tuyên
ngôn về Tự Do Tôn Giáo, và Tuyên
ngôn Liên Lạc của Giáo Hội với Các Tôn Giáo
Ngoài Ki-Tô Giáo.
- qua các cuộc gặp gỡ thân
thiện trong bầu khí của Công Ðồng giữa đại diện nhiều giáo phái Ki-tô giáo.
- qua việc mời khoảng 100 quan
sát viên ngoài Công giáo đến tham dự, đại diện cho 29 giáo hội và cộng đồng
Ki-tô giáo khác nhau.
- qua tinh thần tự do và đối
thoại: các nghị phụ tranh luận với nhau một cách hào hứng, thậm chí kịch liệt
trong một bầu khí tự do, các ngài có thể bác bỏ ý kiến hay đề nghị của chính
Ðức Giáo Hoàng, v.v.
- qua chủ trương bao dung,
chấp nhận sự đa dạng, khác biệt, chủ trương không lên án tuyệt thông ai.
Vì thế, Công Ðồng Vatican II
đánh dấu một bước vĩ đại tiến về sự hiệp nhất trong tương lai của các giáo phái
Ki-tô giáo. Sự việc Ðức Phao-lô VI và Ðức Thượng Phụ Athenagoras xóa bỏ án
tuyệt thông lẫn nhau khi Công Ðồng kết thúc là một dấu chỉ lạc quan cho sự hiệp
nhất ấy.
Kết luận
Kể từ thế kỷ 19, trào lưu dân
chủ trên thế giới càng ngày càng phát triển mạnh, Giáo Hội, qua Công Ðồng
Vatican II, cũng có nhiều chiều hướng dân chủ hơn. Mặc dù Công Ðồng Vatican I
đã dành cho Ðức Giáo Hoàng một địa vị độc tôn trong Giáo Hội về việc bất khả ngộ trong lãnh vực đức tin và luân
lý, nhưng trong Công Ðồng Vatican II, Ðức Giáo Hoàng đã không sử dụng quyền này
để quyết định các vấn đề. Hầu như mọi quyết định, mọi chủ trương quan trọng về
đức tin, luân lý, chiều hướng tương lai. của Công Ðồng Vatican II đều là quyết
định chung của toàn thể các nghị phụ cùng với Ðức Giáo Hoàng. Các quyết định
này được các nghị phụ bàn cãi, được các chuyên viên, các nhà chuyên môn thuộc
đủ mọi thành phần trong Giáo Hội góp ý. Vì thế, Công Ðồng Vatican II phản ảnh
được ý nguyện của toàn Giáo Hội, và như thế, Công Ðồng đánh dấu một bước tiến
lớn cho tính cộng đoàn của các giám mục, và tinh thần dân chủ trong Giáo Hội.
Rất mong chiều hướng dân chủ
này sẽ càng ngày càng được quan tâm và phát triển đúng mức trong Giáo Hội. Ðó
có thể là cách thức mới mà thời nay Thánh Thần dùng để mạc khải và tác động
trên Giáo Hội, vì đó cũng là chiều hướng chung của cả thế giới. Hiện nay, sau
biết bao thế kỷ sống trong chế độ quân chủ, phong kiến, độc tài, v.v. dần dần
thế giới khám phá ra chiều hướng dân chủ là chiều hướng đúng đắn và tiến bộ
nhất để phát triển xã hội, vì nó phù hợp với định nghĩa về xã hội và với quyền
lợi chung của xã hội. Thật vậy, trong hầu hết các dân tộc trên thế giới, dân
tộc nào cũng đều có những câu tục ngữ với ý nghĩa tương tự như câu của người
Việt Nam: Ý dân, ý Trời. Qua Công
Ðồng Vatican II, ta thấy chân lý và thánh ý của Thiên Chúa được rút ra và được
tổng kết từ các ý kiến đã được các nghị phụ phát biểu trong Công Ðồng. Các nghị
phụ đại diện cho các thành phần, các tầng lớp, các dân tộc, các quốc gia, các
nền văn hóa, các giáo hội địa phương khác nhau trong Giáo Hội. Một cách nào đó,
các ngài đại diện cho toàn thế giới.
Thiết tưởng cách tìm ra chân
lý và thánh ý Thiên Chúa của Công Ðồng Vatican II - đầy tính dân chủ - là một
mẫu mực cho các giáo hội địa phương, các cộng đoàn, các tập thể lớn nhỏ trong
Giáo Hội noi theo. Một cách cụ thể, để đi đến một quyết định sáng suốt trong
các giáo phận, giáo xứ, các cộng đoàn, tập thể, thiết tưởng người lãnh đạo cần
biết lắng nghe mọi thành phần dân Chúa trong đó, và tìm ra chân lý và thánh ý
Ngài. Việc đơn phương quyết định một mình của người lãnh đạo mà không cần bàn
hỏi với ai, tự cho mình có đủ sáng suốt hơn tất cả, là một thái độ không còn
thích hợp với tâm thức của con người thời đại, và chắc chắn cũng là ngược với
đường hướng mới của Thánh Thần đang thực hiện trong Giáo Hội hiện nay.
NGUYỄN CHÍNH KẾT