Diễn Văn của ĐTC Phan-xi-cô trong buổi bế mạc Thượng Hội Đồng Giám
Mục Thế Giới thường kỳ lần thứ XIV
Trọng
kính các Đức Thượng Phụ, các Đức Hồng Y và các Đức Giám Mục;
Thưa
anh chị em thân mến:
Trước
hết, tôi muốn tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã dẫn dắt con đường Thượng Hội Đồng Giám
Mục của chúng ta trong năm nay thông qua Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng trao
ban cho Giáo hội sự hỗ trợ của Ngài.
Với tất
cả tấm lòng, tôi thực sự cám ơn Đức Hồng Y Lorenzo Baldisseri, Tổng Thư ký của
Thượng Hội Đồng Giám Mục, cám ơn Đức Cha Fabio Fabene, phó thư ký của Thượng Hội
Đồng Giám Mục, và cùng với các Ngài, tôi xin cám ơn Đức Hồng Y Peter Erdö, phúc
trình viên, cũng như cám ơn Đức Cha Bruno Forte, thư ký đặc biệt, và cám ơn các
vị chủ tịch của các phái đoàn, các vị thư ký, các tư vấn viên, các dịch giả,
các ca sĩ và tất cả những vị đã làm việc một cách không mệt mỏi và với sự hy
sinh hoàn toàn cho Giáo hội: Xin chân thành cám ơn! Và tôi cũng xin cám ơn Ủy
Ban soạn thảo văn kiện đúc kết: một số người trong quý vị đã làm việc thâu đêm.
Tôi
xin cám ơn tất cả quý vị, các Nghị Phụ thân mến, các phái đoàn huynh đệ, các kiểm
toán viên, các viên chức, các Cha xứ và các gia đình, về sự tham gia tích cực
và phong nhiêu của quý vị.
Tôi
cũng xin cám ơn những „người vô danh“ và tất cả những ai đã góp phần vào những công
việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục này với sự dấn thân âm thầm nhưng quảng đại của
họ.
Tất cả
quý vị đều có thể tin chắc vào lời cầu nguyện của tôi, và tôi cầu xin rằng, xin
Thiên Chúa trả công bội hậu cho quý vị với sự dồi dào phong phú của ân sủng Ngài!
Trong
lúc tôi dõi theo Thượng Hội Đồng Giám Mục, tôi đã tự hỏi: Việc chấm dứt Thượng
Hội Đồng Giám Mục này, tức Thượng Hội Đồng được dành riêng cho gia đình, có ý
nghĩa gì đối với Giáo hội?
Tất
nhiên, việc kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục không có nghĩa là: tất cả các đề
tài trong mối liên hệ tới gia đình đều chấm dứt, nhưng đúng hơn: được cố gắng để
chiếu sáng gia đình với ánh sáng Tin Mừng, với ánh sáng của truyền thống và của
hai ngàn năm lịch sử, và để làm cho gia đình tràn ngập niềm vui hy vọng mà
không hề rơi vào sự lập lại một cách ngớ ngẩn những điều không bênh vực sự đối
thoại, hay lập lạch một cách ngớ ngẩn những điều đã được nói rồi.
Chắc
chắn nó không có nghĩa là đã tìm ra được những giải pháp toàn diện cho tất cả
những khó khăn và những ngờ vực, mà những khó khăn và những mối nghi ngờ ấy
đang thách đố và đe dọa gia đình, nhưng có nghĩa là đặt những khó khăn và những
ngờ vực này vào trong ánh sáng Đức Tin, để thẩm tra chúng một cách cẩn thận,
cũng như không sợ hãi trong việc bắt tay vào việc giải quyết chúng, và không hề
có chuyện chui đầu vào cát.
Có
nghĩa là tạo cơ hội cho tất cả hiểu được tầm quan trọng của định chế gia đình,
và tầm quan trọng của hôn nhân giữa người chồng và người vợ được đặt nền móng
trên sự hiệp nhất và trên sự bất khả phân ly, và đánh giá hai định chế trên như
là nền tảng căn bản của xã hội và của cuộc sống nhân loại.
Có
nghĩa là lắng nghe và trình bày giọng nói của các gia đình và của các vị mục tử
trong Giáo hội mà họ đã tới Rô-ma và đã mang trên vai mình những gánh nặng và
những niềm hy vọng, sự phong phú và những thách đố của các gia đình trên toàn
thế giới.
Có
nghĩa là minh chứng về sức sống của Giáo hội Công giáo, đó là một Giáo hội
không sợ hãi trước việc đánh thức những lương tâm đã mất cảm giác, và cũng không
sợ hãi trước việc làm cho đôi tay của mình bị bám bẩn, bằng cách là Giáo hội đối
thoại một cách linh hoạt, rõ ràng và chân thành về gia đình.
Có
nghĩa là cố gắng để nhìn xem thực tế một cách tốt hơn: Nhìn xem những thực tế của
cuộc sống hôm nay với cặp mắt của Thiên Chúa, và giải thích những thực tại đó hầu
đem lại sinh khí cho con tim nhân loại, và chiếu sáng nó với ngọn lửa Đức Tin,
trong một khoảnh khắc ngã lòng và khủng hoảng cả về mặt xã hội, kinh tế lẫn
luân lý, mà trong khoảnh khắc có tính lịch sử đó, những điều tiêu cực đang thống
trị.
Có
nghĩa là làm chứng cho tất cả biết rằng, đối với Giáo hội, Tin Mừng vẫn luôn là
một nguồn mạch sống động của sự mới mẻ vĩnh cửu – một chứng tá đối với những
người đang muốn „tuyên truyền“ và muốn biến Tin Mừng thành những tảng đá chết
chóc, mà với chúng, người ta có thể chọi thẳng vào người khác.
Nó
cũng có nghĩa là mở ra những con tim đang bị đóng kín, mà thậm chí, đó là những
con tim đang giấu mình bên dưới những giáo huấn của Giáo hội hay đàng sau những
dự định có vẻ lành thánh để ngồi vào ngai của Mô-sê, và đôi khi từ trên xuống,
cũng như với sự nông cạn và vẻ bên ngoài – để phê phán những trường hợp khó
khăn và những gia đình bị tổn thương.
Có
nghĩa là xác quyết rằng, Giáo hội là một Giáo hội của „những con người nghèo túng trước mặt Thiên Chúa“ và của những tội
nhân trên đường kiếm tìm ơn tha thứ, và không phải chỉ là một Giáo hội của những
người công chính và của các Thánh – vâng, một Giáo hội của những người công
chính và của các Thánh, khi Giáo hội này cảm thấy mình như là những người nghèo
và như là những tội nhân.
Có
nghĩa là cố gắng chiếu sáng những đường chân trời để vượt thắng bất cứ cách chú
giải Kinh Thánh có tính bí thuật nào, hay vượt thắng việc đóng kín những viễn
tượng, hầu bảo vệ và làm lan rộng sự tự do của con cái Thiên Chúa, để chuyển
giao sự tuyệt vời nơi sự mới mẻ của Ki-tô giáo, mà đôi khi sự tuyệt vời ấy lại
bị che phủ bởi lớp lưới sắt của một ngôn ngữ cổ lỗ sĩ hay đơn giản là không thể
hiểu nổi.
Trên
con đường của Thượng Hội Đồng Giám Mục này, nhiều ý kiến khác biệt mà chúng đã
được bày tỏ một cách tự do – và tiếc rằng đôi khi với những phương pháp không
hoàn toàn có thiện ý -, chắc chắn đã làm phong phú hóa cuộc đối thoại cũng như
làm cho cuộc đối thoại được trở nên sống động, và như thế, đã thể hiện một hình
ảnh sống động của một Giáo hội, mà Giáo hội ấy không sử dụng „những mẫu đơn đã
được in sẵn“, nhưng kín múc nước hằng sống từ nguồn mạch không bao giờ cạn nơi
Đức Tin của mình, hầu thỏa mãn cơn khát của những con tim đang khô hạn.
Và –
bên kia những vấn đề tín lý được định nghĩa một cách chính xác bởi quyền giáo
huấn của Giáo hội – chúng ta cũng thấy rằng, cái mà nó có vẻ như bình thường đối
với một Giám mục của châu lục này, lại có thể là điều hiếm hoi đối với Giám mục
của một châu lục khác, nó gần như là một gương mù – gần như vậy! -, điều được
coi như là sự tổn thương của một quyền lợi trong xã hội này, lại có thể là một
quy định hiển nhiên và bất khả xâm phạm trong một xã hội khác; điều được coi là
sự tự do lương tâm đối với một số người, nhưng lại có thể chỉ có nghĩa là sự lộn
xộn đối với người khác. Trong thực tế, các nền văn hóa rất khác biệt nhau, và bất
cứ một nguyên tắc đạo đức chung nào – như tôi đã nói: những vấn đề tín lý được
định nghĩa một cách chính xác bởi quyền giáo huấn của Giáo hội – bất cứ một
nguyên tắc đạo đức chung nào cũng đều phải được hội nhập văn hóa, nếu nguyên tắc
ấy được tuân thủ và được vận dụng. Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới trong năm
1985, tức Thượng Hội Đồng Giám Mục cử hành dịp kỷ niệm lần thứ 20 ngày bế mạc
Công Đồng Vatican II, đã mô tả việc hội nhập văn hóa như là „sự thay đổi nội tại các giá trị văn hóa đích
thực nhờ vào việc bao bọc lấy Ki-tô giáo và đồng thời nhờ vào sự bén rễ sâu của
Ki-tô giáo trong các nền văn hóa khác nhau của nhân loại.“
Việc
hội nhập văn hóa không làm cho các giá trị đích thực bị yếu đi, nhưng chỉ ra sức
mạnh thực sự của chúng, cũng như tính xác thực của chúng, vì chúng tự thích ứng
mà không hề có chuyện thay đổi, vâng, chúng thúc đẩy một cách phi bạo lực và
theo từng cấp độ một sự biến đổi các nền văn hóa khác nhau.
Chúng
ta đã thấy rằng, - ngay cả việc nhờ vào sự phong phú nơi những khác biệt của
chúng ta -, sự thách đố mà chúng ta đang có trước mặt, vẫn luôn luôn là điều
này: công bố Tin Mừng cho con người của thời đại hôm nay, và ở đây, bảo vệ gia
đình trước tất cả mọi cuộc tấn công của ý thức hệ và của chủ nghĩa cá nhân.
Không
để mình bị khuất phục bởi bất kỳ sự nguy hiểm nào của chủ nghĩa tương đối, và
cũng không hăm dọa bất cứ một ai khác, chúng ta đã cố gắng để tham dự một cách
trọn vẹn và can đảm vào với sự tốt lành và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, mà
Lòng Thương Xót ấy vượt lên trên mọi toan tính của con người chúng ta, và không
muốn bất cứ điều gì khác ngoài việc „TẤT CẢ MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐƯỢC CỨU ĐỘ“ (1Tm
2,4). Và như thế, chúng ta đã muốn lồng Thượng Hội Đồng Giám Mục này vào trong
mối liên hệ với Năm Thánh ngoại thường về Lòng Thương Xót mà Giáo hội đang được
kêu gọi để sống Năm Thánh ấy, và kinh qua mối liên hệ này một cách sống động.
Anh em
trong hàng Giám Mục thân mến,
Kinh
nghiệm của Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng đã cho phép chúng ta nhận thức được một
cách tốt hơn rằng, những người bảo vệ giáo lý đích thực không phải là người bảo
vệ mặt chữ, nhưng là những người bảo vệ tinh thần; không phải là những người bảo
vệ những ý tưởng, như là những người bạo vệ con người; không phải là người bảo
vệ những công thức, nhưng là người bảo vệ sự nhưng không của Tình Yêu Thiên
Chúa, và sự nhưng không nơi ơn tha thứ của Ngài. Điều đó tuyệt đối không có
nghĩa là hạ thấp tầm quan trọng của những công thức – bởi thực ra chúng cũng rất
cần thiết! -, của lề luật và của giới răn Thiên Chúa, nhưng có nghĩa là ca ngợi
sự cao cả của Thiên Chúa chân thật, Đấng đã đối xử tốt lành với chúng ta không
phải vì chúng ta xứng đáng, cũng không phải vì những công trạng của chúng ta,
nhưng chỉ vì lòng quảng đại vô bến bờ nơi Lòng Xót Thương của Ngài (xc. Rm
3,21-30; Tv 130; Lc 11,37-54). Điều đó có nghĩa là vượt thắng những cơn cám dỗ
thường xuyên của người anh cả (xc. Lc 15,25-32) hay của những lao công đầy
ghanh tỵ (xc. Mt 20,1-16). Vâng, nó có nghĩa là, làm cho những luật lệ và những
giới răn mà chúng được tạo ra vì con người chứ không phải ngược lại (xc. Mc
2,27) càng ngày càng trở nên có hiệu lực hơn.
Trong
ý nghĩa này, sự thống hối đúng mức, những công việc và những cố gắng của con
người sẽ nhận được một ý nghĩa sâu xa, không phải như là tiền thưởng đối với ơn
cứu độ dù sao cũng không phải mua mà Chúa Ki-tô đã giành lấy cho chúng ta một
cách miễn phí từ trên Thập Giá, nhưng như là câu trả lời trước Đấng đã yêu
thương chúng ta trước tiên, và đã cứu độ chúng ta nhờ vào giá máu vô tội của
Ngài, ngay từ khi chúng ta vẫn đang còn là những tội nhân (xc. Rm 5,6).
Bổn
phận trước tiên của Giáo hội không phải là công bố những bản án và ra những hình
phạt tuyệt thông, nhưng là công bố Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, kêu gọi hoán
cải và dẫn đưa tất cả mọi người tới với ơn cứu độ của Thiên Chúa (xc. Ga
12,44-50).
Chân
Phúc Phao-lô VI Giáo Hoàng đã tìm ra được những từ ngữ tuyệt vời cho điều đó: „Vậy thì chúng ta có thể nghĩ rằng, bất cứ tội
lỗi nào của chúng ta hay bất cứ sự trốn chạy nào trước mặt Thiên Chúa, cũng đều
đốt lên trong Ngài một ngọn lửa Tình Yêu còn mãnh liệt hơn, một niềm khao khát
muốn chiếm lại chúng ta và tái đặt chúng ta vào trong nhiệm cục cứu độ của Ngài
[…]. Thiên Chúa mạc khải chính mình trong Chúa Ki-tô như là sự tốt lành khôn
cùng […]. Thiên Chúa là Đấng tốt lành. Và không chỉ tốt lành trong chính bản
thân Ngài, Thiên Chúa – chúng ta nói về điều đó trong nước mắt – là Đấng tốt
lành đối với chúng ta. Ngài yêu thương và kiếm tìm chúng ta, Ngài nhớ tới chúng
ta, biết và linh hứng cho chúng ta, và Ngài chờ đợi chúng ta: Ngài sẽ - nếu như
người ta có thể nói như thế về điều đó – hạnh phúc trong ngày chúng ta trở về
và nói: Lạy Chúa, vì sự tốt lành của Chúa, xin tha thứ cho con! Và như thế, sự
thống hối của chúng ta sẽ trở thành niềm vui của Thiên Chúa.“
Ngay
cả Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng cũng đã xác quyết rằng: „Giáo hội sẽ sống một cuộc sống đích thực nếu
như Giáo hội tuyên xưng và công bố Lòng Nhân Hậu […] và nếu như Giáo hội dẫn
đưa nhân loại tới với nguồn mạch Lòng Nhân hậu của Đấng Cứu Thế, đó là những
nguồn mạch mà từ đó Giáo hội bảo vệ và phân phối.“
Và Đức
Bê-nê-đíc-tô XVI cũng nói: „Lòng Thương
Xót, trong thực tế, chính là hạt nhân căn bản của sứ điệp Tin Mừng, nó là danh
xung của chính Thiên Chúa […]. Tất cả những gì Giáo hội nói và chu toàn, đều chỉ
ra Lòng Thương Xót mà Thiên Chúa mang đến cho con người, và cụ thể là mang đến
cho mỗi người chúng ta. Nếu Giáo hội hướng sự chăm chú về một chân lý bị đánh
giá sai hay về một sự thiện bị phản bội, thì có nghĩa là Giáo hội đang làm cho
những điều ấy được gây phấn chấn thường xuyên bởi Tình Yêu Nhân Hậu, hầu cho
nhân loại có được sự sống, và có được sự sống trong sự sung mãn“ (xc. Ga
10.10).
Trong
ánh sáng này và nhờ vào thời gian ân sủng này, tức thời gian mà Giáo hội đã trải
qua, khi Giáo hội nói và thảo luận về gia đình, chúng ta cảm thấy mình đã làm
phong phú hóa lẫn nhau. Và nhiều người trong chúng ta đã nhận thấy tác động của
Chúa Thánh Thần; Đấng chính là đạo diễn và là sáng lập viên đích thực của Thượng
Hội Đồng Giám Mục. Đối với tất cả chúng ta, cụm từ „GIA ĐÌNH“ không còn vang
lên như trước khi Thượng Hội Đồng Giám Mục diễn ra nữa, đến độ trong Ngài, chúng
ta đã thấy được bản tóm tắt về ơn gọi của gia đình và về tầm quan trọng của con
đường mà Thượng Hội Đồng Giám Mục đã đi.
Trong
thực tế, đối với Giáo hội, việc kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục có nghĩa là
tái „cùng nhau tiến về phía trước“ một
cách thực sự, để mang ánh sáng Tin Mừng, mang cái ôm của Giáo hội và sự hỗ trợ
thông qua Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vào trong mọi miền trái đất, vào
trong mỗi Giáo phận, vào mỗi cộng đoàn và vào mỗi trạng huống cuộc đời.
Xin
cám ơn!
Hội trường Thượng Hội Đồng Giám Mục ngày
24 tháng 10 năm 2015
ĐTC Phan-xi-cô
Lm
Đa-minh Thiệu O.Cist – chuyển ngữ