Trả
lời phỏng vấn của ĐTC với các nhà báo trên chuyến bay trở về từ Panama
Như thông lệ, trên chuyến bay trở về từ
Panama, ĐTC Phanxicô đã có một cuộc trả lời phỏng vấn với các nhà báo đi cùng
trên chuyến bay.
Chuyển ngữ: Văn Yên, SJ (vatcannews.va/vi)
– 31 tháng một 2019, 17:47
Edwin
Cabrera Uribe, đại diện các nhà báo Panama: Thưa
ĐTC, ĐTC đã nói với các tình nguyện viên “Bây giờ các con biết nhịp đập của
trái tim khi sống một sứ mạng.” Vậy, đâu là sứ mạng của ĐTC Phanxicô tại
Panama?
ĐTC
Phanxicô: Sứ mạng của tôi tại ĐHGT là sứ mạng của Phêrô, đó là củng cố
đức tin. Điều này không phải làm bằng mệnh lệnh khô hay có sẵn, nhưng là để
mình được đụng chạm và trả lời về những gì xảy ra ở đó. Tôi không hiểu nếu một
người có thể thực hiện một sứ mạng chỉ bằng cái đầu. Để thực hiện một sứ mạng
thì cần phải lắng nghe, rồi khi lắng nghe thì được đụng chạm. Khi anh đụng chạm
cuộc đời, anh sẽ đụng đến các vấn đề. Tại sân bay, khi tôi chào ngài Tổng thống
và người ta mang đến một trẻ nhỏ da màu, dễ thương. Ngài Tổng thống nói với
tôi: “Đức bé này vượt qua biên giới Colombia, mẹ đã mất, chỉ còn một mình. Cậu
bé 5 tuổi, đến từ Châu Phi, nhưng chúng tôi cũng chưa biết nước nào vì không
cậu bé không nói tiếng Anh, Pháp hay Bồ; chỉ nói tiếng địa phương. Chúng tôi đã
nhận nuôi.” Đó là một đứa bé đẹp, hiền lành… Thảm kịch của một đứa bé bị bỏ rơi
vì mẹ mất và cảnh sát đã giao cho giới chức để đảm trách. Điều này đánh động
anh, và như thế sứ mạng bắt đầu có màu sắc. Nó làm anh phải nói điều gì đó,
phải động lòng. Nó không phải là một lý lẽ. Sứ mạng luôn luôn làm anh phải liên
can. Ít nhất nó liên can đến tôi. Tôi luôn nói với người trẻ: Điều các con phải
làm trong cuộc sống đó là các con phải bước đi, và bằng ba ngôn ngữ: ngôn ngữ
của cái đầu, ngôn ngữ của con tim và ngôn ngữ của đôi tay. Ba ngôn ngữ này hoà
điệu với nhau, theo cách là: nghĩ về điều mình cảm và điều mình làm, rồi cảm
điều mình nghĩ và điều mình làm, và cuối cùng là làm điều mình cảm và điều mình
nghĩ. Tôi không biết kết toán một sứ mạng. Với tất cả những điều ấy, tôi đến
trước Chúa để cầu nguyện, đôi khi tôi ngủ trước Chúa, nhưng vẫn mang tất cả
những điều tôi đã sống trong sứ mạng và xin Ngài củng cố cho tôi trong đức tin.
Đây là cách tôi sống và thi hành sứ mạng Giáo Hoàng.
Edwin: Cách
chung, ĐHGT ở Panama có đáp ứng được những kỳ vọng của ĐTC không?
ĐTC: Chắc
chắn rồi. Đồng hồ để đo xem một chuyến tông du cách chung có đáp ứng được kỳ vọng
hay không, đó là sự mệt nhoài, và tôi thật sự rã rời.
Edwin: Thưa
ĐTC, vấn đề chung của Trung Mỹ, bao gồm cả Panama là phần lớn Châu Mỹ Latinh là
việc mang thai của các bé còn rất nhỏ. Chỉ tại Panama thôi năm ngoái đã 10
ngàn, và Trung Mỹ cũng không khác. Những kẻ gièm pha Giáo hội đổ lỗi cho Giáo
hội Công giáo là không giáo dục giới tính trong trường học, và Giáo hội Công
giáo điều hành nhiều trường học và đại học ở Mỹ Latinh. Xin ĐTC cho biết ý kiến
về việc giáo dục giới tính.
ĐTC
Phanxicô: Tôi nghĩ là trong trường học cần có giáo dục giới tính. Giới
tính là một món quà của Thiên Chúa chứ không phải một điều kỳ dị. Là một món
quà để yêu thương; nếu một ai dùng nó để kiếm tiền hay khai thác người khác thì
đó là một vấn đề khác. Cần phải giáo dục giới tính cách khách quan, chứ không
áp đặt ý thức hệ. Bởi vì nếu trong trường học giáo dục giới tính cách áp đặt ý
thức hệ thì phá huỷ con người. Giới tính như là một món quà của Thiên Chúa thì
phải được giáo dục, không cứng nhắc. Giáo dục đó là làm nổi lên điều tốt nhất
nơi con người và đồng hành với họ trong hành trình bước đi. Vấn đề nằm ở chỗ
những người chịu trách nhiệm về giáo dục, cả ở cấp quốc gia lẫn địa phương,
cũng như đối với từng đơn vị trường học: giáo viên đảm trách điều này, sách vở
nào… Tôi đã thấy nhiều thể loại, có những điều giúp trưởng thành và có những
điều làm hại. Tôi nghĩ, không biết liệu có khách quan hay không, rằng Panama
không có giáo dục giới tính. Và tôi nói điều này nhưng không có ý đi sâu vào
những vấn đề chính trị của Panama: đó là cần có giáo dục giới tính cho trẻ em.
Lý tưởng là bắt đầu từ ở nhà, với cha mẹ của chúng. Không phải lúc nào cũng có
thể làm được đối với nhiều hoàn cảnh gia đình, hoặc không biết cách dạy thế
nào. Nhà trường bù đắp về điều này và phải làm; nếu không sẽ vẫn để lại một lỗ
hổng mà bất cứ ý thức hệ nào cũng có thể tràn vào.
Javier
Brocal, từ Romereports: Trong những ngày này, ĐTC nói
chuyện với nhiều người, nhiều bạn trẻ. Chắc chắn trong số đó có những bạn trẻ
rời xa Giáo hội hay đang gặp khó khăn. Theo ĐTC, đâu là khó khăn các bạn trẻ
gặp phải, và đâu là những lý do khiến họ rời xa Giáo hội?
ĐTC: Tôi gặp
rất nhiều; một số gặp cá nhân, nhưng phần lớn gặp chung, tôi tin rằng điều đầu
tiên đó là vì thiếu đời sống chứng tá của các Kitô hữu, của linh mục, của giám
mục. Tôi không nói của giáo hoàng, vì rất nhiều [cười], và giáo hoàng cũng vậy.
Thiếu chứng tá. Nếu một mục tử làm người tổ chức về các chương trình mục vụ mà
không gần với dân chúng thì mục tử này không mang chứng tá của mục tử; mục tử
phải ở với dân, mục tử và đàn chiên. Mục tử phải đi trước đàn chiên để dẫn
đường, ở giữa đàn chiên để ngửi được mùi của con người và hiểu được người ta
nghĩ gì, cần gì và đi sau đàn chiên để bảo vệ từ phía sau. Nhưng nếu mục tử
không sống bằng sự đam mê, thì dân chúng sẽ cảm thấy bị bỏ rơi hoặc một cảm
giác bị coi thường nhất định. Tôi nghĩ là mình đã nhấn mạnh về các mục tử, và
cả các Kitô hữu đạo đức giả. Họ đi lễ tất cả các Chúa Nhật, và rồi không trả
lương tháng 13, và trả lương kiểu chợ đen và bóc lột người khác… “Không, con là
người Công giáo, con đi lễ tất cả các ngày Chúa Nhật!”, nhưng nếu anh làm các
điều trên thì anh đang đưa ra một lời phản chứng và theo tôi thì điều này làm
cho dân chúng xa Giáo hội hơn. Cả giáo dân, tất cả… Một người có thể nói rằng:
“Thôi, đừng có bảo tôi công giáo mà không làm chứng; tôi được học nên giáo dục
Công giáo, chỉ có điều tôi hờ hững, tôi thế gian chút, nhưng xin lỗi, đừng nhìn
tôi như một mẫu”. Phải nói điều này, tôi sợ người Công giáo kiểu này, họ nghĩ
về sự hoàn hảo. Nhưng trong lịch sử đã diễn ra như vậy, Chúa Giêsu đã nói về
thầy dạy luật: “Con tạ ơn Chúa vì con không giống như kẻ tội lỗi kia”. Như vậy
là không được. Họ đang thiếu đời sống chứng tá. Cũng có những kiểu khác: như là
khó tính chẳng hạn.
Caroline
Pigozzi đến từ Paris Match: Thưa ĐTC, chúng tôi đã thấy
trong bốn ngày vừa qua, những người trẻ đã cầu nguyện rất sốt sắng. Và có thể
nghĩ rằng sẽ có một số muốn đi tu, và một số có ơn gọi. Và cũng có thể một số
nghĩ rằng nếu bước đi mà không lập gia đình thì thật khó. Có thể nghĩ rằng Giáo
hội Công giáo, theo nghi lễ đông phương, ĐTC sẽ cho phép những người lập gia
đình trở thành linh mục được không?
ĐTC: Giáo
hội Công giáo, theo nghi lễ Đông Phương có thể làm điều đó và có thể chọn độc
thân hay lập gia đình trước khi chịu chức phó tế.
Caroline
Pigozzi: Nhưng bây giờ, với Giáo hội Công giáo theo nghi lễ Latinh,
ĐTC có nghĩ về quyết định đó không?
ĐTC: Về
nghi lễ Latinh, tôi chợt nghĩ đến câu nói của Thánh Phaolô VI: “Tôi muốn hiến
mạng sống trước khi thay đổi luật độc thân”. Vào lúc này, tôi nghĩ đến và cũng
muốn nói như thế, bởi vì đó là một câu can đảm, trong một thời điểm khó khăn
hơn lúc này, trong những năm 1968-1970. Cá nhân mà nói, tôi nghĩ rằng độc thân
là một món quà cho Giáo hội; thứ đến, tôi không đồng ý cho phép độc thân tuỳ
chọn. Không. Chỉ có thể nghĩ đến khả thể tại những nơi hẻo lánh xa xôi - ở ốc
đảo Thái Bình Dương chăng… nhưng điều đó nghĩ đến khi thật sự cần thiết về mục
vụ, mà ở đó người mục tử phải bận tâm về các tín hữu. Có một cuốn sách của cha
Lobinger, rất thú vị. Đây là điều bàn luận giữa các thần học gia, không phải là
quyết định của tôi. Quyết định của tôi là: không có tuỳ chọn độc thân trước khi
chịu chức phó tế. Đó là điều theo ý cá nhân, và tôi sẽ không làm. Và điều này
là rõ ràng. Tôi là một người đóng kín? Có thể. Nhưng tôi không nghĩ sẽ đặt mình
trước mặt Chúa với quyết định này. Rồi cha Lobinger nói: “Giáo hội làm nên
Thánh Thể và Thánh Thể làm nên Giáo hội. Nhưng ở những cộng đoàn không có Thánh
Thể thì sao?” Những cộng đoàn đó có những người tổ chức như là các phó tế, các
nữ tu, giáo dân… Và trong bài luận của mình, cha Lobinger viết: “Có thể phong
chức cho một người lớn tuổi, đã lập gia đình”. Có thể phong chức cho một người
lớn tuổi đã lập gia đình, nhưng chỉ để thi hành nhiệm vụ thánh hoá,
nghĩa là cử hành Thánh Lễ, cử hành bí tích Hoà giải và Xức dầu bệnh nhân. Chức
tư tế thì có ba nhiệm vụ: giảng dạy, cai quản và thánh hoá. Điều này đi cùng
với chức thánh. Và giám mục chỉ ban cho người ấy năng quyền thánh hoá. Đây là
điều viết trong sách, rất thú vị. Có thể điều này giúp suy nghĩ về vấn đề. Tôi
nghĩ vấn đề có thể mở theo nghĩa này: nơi thiếu linh mục. Tôi không nói là nên
làm, vì tôi chưa suy nghĩ, tôi chưa cầu nguyện đủ về vấn đề này. Nhưng các nhà
thần học phải nghiên cứu. Cha Lobinger là một ví dụ rồi, một fidei
donum (hồng ân đức tin) của Nam Phi, là người đã già. Tôi nói điều này
làm ví dụ để tạo những điểm cho các nhà thần học biết phải làm gì. Tôi đã nói
chuyện với một thư ký, một giám mục, người phải làm việc tại một nước cộng sản
từ lúc mới bắt đầu cuộc cách mạng; vào những năm 50, các giám mục, khi họ thấy
cuộc cách mạng sẽ kết thúc thế nào, họ đã phong chức chui cho các nông dân tốt
lành và thánh thiện. Rồi khủng hoảng qua, ba mươi năm sau, vấn đề cũng được
giải quyết. Và giám mục ấy kể cho tôi về cảm xúc của mình khi nhìn thấy những
nông dân này mặc áo lễ cùng đồng tế trong Thánh Lễ. Những điều này đã có trong
lịch sử Giáo hội. Là điều để nghiên cứu, để suy nghĩ và cầu nguyện.”
Sau đó,
nhà báo Caroline đã nhắc về những người Tin Lành trở thành Công giáo. Và ĐTC đã
nói đến tông hiến Anglicanorum coetibus của ĐTC Benedicto XVI, về
những linh mục Anh giáo trở thành Công giáo và vẫn giữ đời sống linh mục, như
nghi lễ đông phương.
Lena
Klimkeit từ Hãng tin Đức: Thưa Đức Thánh Cha, trong Chặng
Đường Thánh Giá hôm thứ Sáu, một bạn trẻ đã đọc lên những lời rất mạnh mẽ về
việc phá thai; Tôi muốn nhắc lại một chút: “Có một ngôi mộ khóc trên trời, tố
cáo sự tàn ác khủng khiếp của loài người, đó là ngôi mộ mở ra từ tử cung người
mẹ, xé nát sự sống vô tội. Chúa thực sự muốn chúng ta sống nhân bản, bảo vệ sự
sống một cách mạnh mẽ và đảm bảo rằng những điều luật cho phép giết chết sự
sống vô tội sẽ bị xóa vĩnh viễn”. Theo tôi, đây là một quan điểm rất quyết
liệt. Tôi tự hỏi, và tôi muốn hỏi Đức Thánh Cha, liệu quan điểm này cũng tôn
trọng sự đau khổ của chính người phụ nữ và liệu có tương hợp với thông điệp
lòng thương xót của Ngài.
ĐTC: Thông
điệp lòng thương xót dành cho tất cả mọi người, ngay cả đối với người phá thai.
Nó dành cho tất cả mọi người. Sau khi làm điều này, vẫn có lòng thương xót,
nhưng một lòng thương xót khó khăn; bởi vì vấn đề không nằm ở việc ban sự tha
thứ, nhưng vấn đề ở chỗ người phụ nữ tự vấn lương tâm về việc phá thai. Đây là
bi kịch khủng khiếp. Có lần tôi đã từng nghe một bác sĩ nói về một lý thuyết
rằng - tôi không nhớ rõ - một bào thai khi mới được thụ thai đã gắn đến tận tủy
của người mẹ và do đó nó gắn vào ký ức, ngay cả về thể lý. Đây là một lý
thuyết, nhưng để nói rằng: một phụ nữ khi nghĩ về những gì mình đã làm... Tôi nói
sự thật này: cần phải ở trong toà giải tội và anh phải cho sự an ủi, không
trừng phạt gì. Vì lý do này, tôi đã mở năng quyền xoá giải về tội phá thai vì
lòng thương xót, bởi vì đôi khi – nhưng là luôn luôn – người mẹ phải gặp đứa
trẻ. Và nhiều lần, tôi khuyên khi họ khóc và họ có nỗi thống khổ này rằng:
"Con chị đang ở trên thiên đàng, hãy nói chuyện với nó, hát những bài hát
ru mà chị đã không hát và không thể hát". Như thế có thể tìm được cách để
hòa giải giữa người mẹ và đứa trẻ. Với Chúa thì đã có: đó là sự tha thứ của
Chúa. Chúa luôn tha thứ. Nhưng lòng thương xót cũng là chính người phụ nữ ấy
phải làm nên. Bi kịch về phá thai. Để hiểu rõ về điều này, cần phải ở trong tòa
giải tội. Thật kinh khủng.
Valentina
Alazraki từ Televisa: Thưa Đức Thánh Cha, Ngài đã nói
trong những ngày này ở Panama rằng Ngài gần gũi với Venezuela và hôm nay Ngài
đã kêu gọi một giải pháp công bằng, hòa bình và tôn trọng nhân quyền của tất cả
mọi người. Người Venezuela muốn hiểu rõ hơn một chút về điều này có nghĩa gì,
họ chờ đợi tiếng nói của họ, họ muốn biết liệu giải pháp này có thông qua sự
công nhận Juan Guaidó, được nhiều nước ủng hộ, những nước khác thì yêu cầu bầu
cử sớm và tự do để mọi người có thể bỏ phiếu; Họ thấy rằng Ngài là một Giáo
hoàng Mỹ Latinh và họ muốn nhận được sự hỗ trợ, sự giúp đỡ và lời khuyên.
ĐTC: Trong
lúc này tôi gần gũi tất cả người dân Venezuela, bởi vì đó là một dân tộc đang
đau khổ, dù họ là người bên này hay bên kia, tất cả dân tộc chịu đau khổ. Và
nếu tôi nói thì: "hãy lắng nghe những người ở phía này và những người ở
phía kia, xem họ nói gì". Tôi có thể đặt mình vào một vị trí mà tôi không
biết, đó sẽ là một sự thiếu khôn ngoan mục vụ và sẽ làm hại. Những lời tôi phát
biểu hôm nay, tôi đã suy nghĩ và suy nghĩ lại. Tôi nghĩ với những lời đó tôi
bày tỏ sự gần gũi của tôi, những gì tôi cảm thấy. Tôi đau khổ vì những gì đang
xảy ra ở Venezuela vào lúc này, và do đó tôi kêu gọi một sự đồng thuận, một
giải pháp công bằng và hòa bình. Điều mà tôi sợ là sự đổ máu. Và tôi cũng kêu
gọi sự rộng rãi giúp đỡ từ những người có thể giúp đỡ để giải quyết vấn đề. Vấn
đề bạo lực làm tôi kinh hoàng. Sau tất cả những nỗ lực ở Colombia, hãy nghĩ về
điều đã xảy ra tại trường Cadet mấy ngày trước, thật đáng sợ. Máu không phải là
giải pháp. Vì lý do đó, tôi phải là - tôi không thích từ “cân bằng” - tôi phải
là mục tử của tất cả. Và nếu họ cần sự giúp đỡ, với sự đồng thuận, họ có thể
yêu cầu. Đó là câu trả lời. Cảm ơn!
Junno
Arocho Esteves từ Catholic News Service: Trong
bữa trưa của Đức Thánh Cha với các bạn trẻ, một cô gái người Mỹ đã kể với chúng
tôi rằng, cô ấy đã hỏi Ngài về nỗi đau và sự căm phẫn của rất nhiều người Công
giáo, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, vì khủng hoảng lạm dụng. Nhiều người Công giáo Mỹ
cầu nguyện cho Giáo hội, nhưng nhiều người cảm thấy bị phản bội, sau những báo
cáo gần đây về sự lạm dụng và che đậy của một số giám mục, và họ đã mất niềm
tin vào những người ấy. Thưa Đức Thánh Cha, đâu là những kỳ vọng hay hy vọng
của Ngài về cuộc họp vào tháng Hai sắp tới, để Giáo hội có thể bắt đầu xây dựng
lại niềm tin giữa các tín hữu và giám mục của họ?
ĐTC: Ý tưởng
về điều này được nảy ra từ C9 (Hội đồng Hồng y), bởi vì chúng tôi thấy rằng một
số giám mục không hiểu rõ hoặc không biết phải làm gì, hoặc làm điều này là
đúng, điều khác là sai. Và chúng tôi cảm thấy có trách nhiệm đưa ra một bài
"giáo lý" về vấn đề này cho các hội đồng giám mục. Vì thế, các chủ
tịch được gọi đến [cuộc họp tháng hai tới]. Một bài giáo lý để trước tiên,
người ta nhận thức được thảm kịch: một đứa trẻ bị lạm dụng nghĩa là gì, một đứa
trẻ bị lạm dụng. Tôi thường tiếp những người bị lạm dụng. Tôi nhớ một trường
hợp: bốn mươi năm không thể cầu nguyện. Thật khủng khiếp, đau khổ, thật khủng
khiếp. Vì vậy, đầu tiên: các vị cần nhận thức được điều này.
Thứ
hai: họ biết phải làm gì, thủ tục thế nào. Bởi vì đôi khi giám mục không biết
phải làm gì, vì đây là điều phát triển rất mạnh và [kiến thức về việc xử lý] có
thể nói chưa đến mọi nơi. Và sau đó là lập các chương trình, tổng quát, để đến
tất cả các Hội đồng Giám mục: những gì giám mục phải làm; những gì tổng giám
mục phải làm; những gì chủ tịch Hội đồng Giám mục phải làm. Nhưng điều này rõ,
theo thuật ngữ pháp lý một chút - các chuẩn thức (protocol) rõ ràng. Đây là
điều chính. Nhưng trước tất cả những điều phải làm, những điều tôi nói ở trước,
thì: tự vấn lương tâm. Sau đó, [trong cuộc họp tháng Hai] sẽ có cầu nguyện, sẽ
có một số lời chứng để giúp xét mình, và sau đó là một số phụng vụ sám hối để
xin sự tha thứ cho toàn Giáo hội. Người ta đang làm tốt việc chuẩn bị này.
Cho
phép tôi nói rằng tôi kỳ vọng có phần hơi quá, cần giảm bớt kỳ vọng một chút về
những điểm mà tôi nói. Bởi vì vấn đề lạm dụng vẫn tiếp tục, nó là vấn đề của
con người, mà con người khắp nơi! Tôi đã từng đọc một thống kê, nói rằng: 50%
được báo cáo, trong số 50 này, chỉ 20% được lắng nghe và giảm xuống còn 5% bị
kết án. Thật khủng khiếp, khủng khiếp. Đó là một thảm kịch nhân loại mà chúng
ta phải tự vấn lương tâm. Và chúng tôi, giải quyết vấn đề trong Giáo hội, tự
vấn lương tâm, và cũng sẽ giúp giải quyết nó trong xã hội, trong gia đình, nơi
sự xấu hổ che đậy mọi thứ. Nhưng trước tiên chúng ta phải tự vấn lương tâm, làm
tốt các chuẩn thức (protocol) và tiếp tục.
Manuela
Tulli từ hãng tin Ansa: Trong ĐHGT này, ĐTC đã nói rằng
thật vô lý và vô trách nhiệm khi coi người di cư là người mang điều xấu xa xã
hội. Ở Ý, các chính sách mới đối với người di cư đã dẫn đến việc đóng cửa trung
tâm CARA di Castelnuovo di Porto, mà Ngài biết rõ. Đó là một kinh nghiệm, nơi
có thể nhìn thấy những hạt giống hội nhập, những đứa trẻ đi học, và bây giờ
chúng có nguy cơ bị bứng đi. Ngài đã chọn dâng lễ với họ vào Thứ Năm Tuần Thánh
2016. Tôi muốn hỏi Ngài thấy thế nào về quyết định đóng trung tâm CARA di
Castelnuovo di Porto. Và bây giờ, với nguy cơ phân tán những đứa trẻ...
ĐTC: Vâng,
tôi đã nghe nói về những gì đang xảy ra ở Ý, nhưng tôi dấn mình vào chuyến tông
dù này, nên không thực sự biết rõ về điều đó, nhưng tôi có thể hình dung được.
Đúng là vấn đề về người di cư là một vấn đề phức tạp, rất phức tạp. Vấn đề này
đòi hỏi một ký ức. Đất nước của tôi đã được lập nên từ những người di cư. Chúng
tôi người Argentina: tất cả là người di cư. Hoa Kỳ: tất cả là người di cư. Một
ký ức như thế. Một giám mục, một hồng y - tôi không nhớ ai - đã viết một bài
tuyệt vời về vấn đề "thiếu trí nhớ". Đó là một điểm. Kế đến, những từ
mà tôi sử dụng: đón tiếp, trái tim rộng mở để chào đón, đồng hành, làm phát
triển và hội nhập. Và tôi cũng nói: người cầm quyền phải sử dụng sự khôn ngoan,
bởi vì sự khôn ngoan là nhân đức của người cầm quyền. Vâng, đây là một bài toán
khó. Tôi nhớ đến trường hợp của Thụy Điển, đó là vào những năm bảy mươi, với
nền chuyên chế - trong Chiến dịch Kền kền (Operazione Condor)tại Mỹ
Latinh -, đã nhận rất nhiều người di cư, rất nhiều, nhưng tất cả đều hội nhập
được. Tôi cũng thấy những gì cộng đoàn thánh Egidio làm là một ví dụ: hội nhập
ngay lập tức. Nhưng năm ngoái người Thụy Điển đã nói: "Các bạn dừng lại
một chút, bởi vì chúng tôi chưa thể hoàn tất bước đi". Và đây là sự khôn
ngoan của người cầm quyền. Và đây là vấn đề của đức ái, của tình yêu, sự liên
đới. Và tôi nhắc lại rằng các quốc gia hào phóng nhất trong khía việc này, việc
tiếp nhận, – ở khía cạnh khác họ không thành công lắm – đó là Ý và Hy Lạp. Và
một chút ở Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng Hy Lạp rất quảng đại. Và Ý cũng rất nhiều. Tôi đã
đến thăm đảo Lampedusa, từ thời đầu, vào năm 2013. Nhưng đúng là chúng ta phải
suy nghĩ một cách thực tế. Sau đó, có một điều quan trọng khác cần phải tính
đến khi giải quyết vấn đề di cư đó là giúp đỡ các quốc gia từ đó họ ra đi. Họ
đến từ nơi đói kém hoặc chiến tranh. Giúp đỡ những nơi đang gặp đói kém, Châu
Âu có khả năng làm điều đó, để giúp họ phát triển. Nhưng luôn có, tôi đang nói
về Châu Phi, luôn có một cảnh tượng chung mà chúng ta không ý thức, đó là Châu
Phi bị khai thác. Điều này là lịch sử và điều này làm tổn thương. Những người
di cư từ Trung Đông đã tìm ra những con đường khác để trốn chạy. Lebanon đã hết
sức quảng đại: có cả hơn một triệu người Syria. Jordan cũng vậy: họ mở cửa và
làm những gì họ có thể, với hy vọng tái hội nhập. Rồi Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã nhận
một ít. Và chúng ta ở Ý cũng đã nhận một ít. Nhưng đây là một vấn đề phức tạp
mà phải nói không được thành kiến. Đó là những điều tôi nghĩ đến.
Để kết
buổi phỏng vấn, ĐTC cảm ơn và kể câu chuyện với các nhà báo:
Cảm ơn
anh chị em rất nhiều về công việc đang thực hiện! Tôi chỉ muốn nói điều này về
Panama: Tôi cảm được một cảm giác mới. Tôi biết về Mỹ Latinh, còn về Panama thì
không. Và tôi nghĩ đến từ này: Panama là một đất nước "quý tộc". Tôi
nhận thấy sự quý phái. Tôi muốn nói về một điều khác, mà tôi đã nói khi trở về
từ Colombia, về kinh nghiệm ở Cartagena và các thành phố khác, một điều mà
chúng ta ở châu Âu không thấy: niềm tự hào là gì, trường hợp này là người
Panama? Họ sẽ nâng những đứa trẻ lên và nói: “Đây là chiến thắng của tôi, đây
là tương lai của tôi, đây là niềm tự hào của tôi!”. Điều này khiến chúng ta
phải nghĩ: niềm tự hào của tôi là gì? Du lịch, biệt thự, chó, hay nuôi con? Cảm
ơn! Xin cầu nguyện cho tôi, tôi rất cần.