SÁU TỪ ĐỂ HIỂU HIẾN CHẾ LUMEN GENTIUM

(xuanbichvietnam.net) Tháng Tư 14th, 2013.

Hiến chế tín lý “Lumen gentium” (Ánh sáng muôn dân) muốn thoát khỏi quan niệm pháp lý và xã hội học về Giáo Hội.

Giáo Hội, Thân Thể của Đức Kitô và sự hiệp thông

Chương đầu tiên của Hiến chế Lumen gentium có tựa đề “Mầu Nhiệm Giáo Hội”, cần phải hiểu theo nghĩa mà Thánh Phaolô hiểu, đó là “ý định” của Thiên Chúa. Nhưng, nói một cách chính xác, bản văn muốn thoát khỏi quan niệm pháp lý và xã hội học về Giáo Hội. Vì lẽ đó, bản văn đưa ra những hình ảnh ẩn dụ rất phong phú về Giáo Hội, và điều quan trọng là gìn giữ tính đa dạng này.

Trong số những ẩn dụ này, Hiến chế ưu tiên nói đến hình ảnh Thân Thể Đức Kitô và ý niệm hiệp thông. Có lẽ vì Thánh Phaolô đã khai thác những hình ảnh ẩn dụ này để chỉ cùng lúc sự hiệp nhất của các chi thể với nhau trong đức ái và sự hiệp nhất của các chi thể với Đức Kitô, Đấng nuôi dưỡng các chi thể bằng thân thể của Ngài: “Trong Ngài, tất cả tạo thành một thân thể duy nhất”.

Nói về sự hiệp thông cũng cho phép xét đến tính đa dạng của các đặc sủng. Cuối cùng, ý niệm này được sử dụng trong viễn ảnh mở: Sự hiệp thông tròn đầy và toàn vẹn là lý tưởng, điều này cho phép tránh việc thiết lập lối phân chia minh bạch giữa những người ở trong Giáo Hội và những người không ở trong: có những cấp độ hiệp thông khác nhau. Điều này cũng có giá trị đối với những Kitô hữu không công giáo và những người không phải là Kitô hữu.

Dân Thiên Chúa

Đó là một thành ngữ của Kinh Thánh: Dân mới của Thiên Chúa có nguồn gốc sâu xa trong Cựu Ước. Thành ngữ này tương phản với lối nhìn Giáo Hội như một xã hội hoàn hảo. Vì theo định nghĩa, Dân Thiên Chúa đang lữ hành, đang du mục, đang tiến đến đồng cỏ xanh tươi và không hoàn hảo. Dân Thiên Chúa bao gồm cả những tội nhân. Toàn bộ chiều kích lịch sử của Giáo Hội cần được xét đến như thế.

Ý niệm Dân Thiên Chúa đã được giải thích quá mức trong những năm sau Công Đồng, do tính chất đa nghĩa của từ “dân” như “bình dân”, có nghĩa không phải là người ưu tú. Chính điều này đã tạo nên thần học về các cộng đoàn thấp kém trong những năm 1970 ở châu Mỹ La Tinh.

Ở Đức, ý niệm này nằm trực tiếp trong khẩu hiệu “chúng tôi là Giáo Hội”, khẩu hiệu này so sánh Giáo Hội dưới thấp với Giáo Hội trên cao là phẩm trật. Để chống lại quan niệm chỉ mang tính xã hội học mà Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới năm 1985 đã được tổ chức để một lần nữa nhấn mạnh Giáo Hội như một cộng đoàn hiệp thông.

Tính Cộng Đoàn (collégialité)

Tính cộng đoàn là một hạn từ đã tồn tại trước Công Đồng Vaticanô II, và hạn từ này cũng có nghĩa là đồng chịu trách nhiệm nảy sinh từ sự thuộc về một nhóm. Nhưng trên bình diện Giáo Hội, hạn từ này đặt ra vấn đề về mối tương quan giữa Đức Giáo Hoàng và thẩm quyền mang tính cộng đoàn của các Giám mục. Công Đồng Vaticanô I đã xác định ơn bất khả ngộ của Đức Giáo Hoàng. Vì thế cần phải xem xét làm cách nào để chắp khớp ơn bất khả ngộ này với vai trò của Giám mục đoàn cùng chịu trách nhiệm (Giám mục là đại diện và đặc sứ của Đức Kitô trong giáo phận của mình). Là hoa trái của những thỏa thuận vất vả, Hiến chế Lumen gentium phản bác việc đối kháng hai thẩm quyền này: Đức Giáo Hoàng thuộc về Giám mục đoàn, ngài là đầu mà không có đầu thì Giám mục đoàn có lẽ sẽ không tồn tại.

Cùng lúc,về nền móng của quyền bính mang tính cộng đoàn các Giám mục không giống với Đức Giáo Hoàng nhưng giống với Ngài về chức tư tế mà các Giám mục lãnh nhận qua Bí Tích Truyền Chức. Vì thế rõ ràng có một quyền bính mang tính cộng đoàn khác biệt với quyền của Giáo Hoàng Rôma. Cuối cùng, một ghi chú  được thêm vào dưới sức ép của nhóm thiểu số, đưa đến lời giải thích rõ ràng như sau: chính Đức Giáo Hoàng, khi trao trách vụ cho các Giám mục, thì trao quyền cho các ngài để thi hành quyền bính bằng sự thánh hiến. Trên bình diện lý thuyết, điều đó không thay đổi gì cả, nhưng ghi chú này đã làm lu mờ sứ điệp về tính cộng đoàn.

Giáo dân

Hiến chế Lumen gentium khai triển một cách tỉ mỉ một nền thần học về giáo dân trong sự logic với Dân Thiên Chúa, mà ở đó mỗi tín hữu đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy được mời gọi tham dự vào Vương Quốc đang đến. Đây là lần đầu tiên, người giáo dân không chỉ được định nghĩa một cách duy nhất không phải là (linh mục lẫn không phải là tu sĩ), nhưng bằng một cách thế tích cực: “Các Kitô hữu được nhập hiệp vào thân thể Đức Kitô nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, làm thành Dân Thiên Chúa và được tham dự vào những chức năng tư tế, ngôn sứ và vương đế của Đức Kitô theo cách thức của mình, đồng thời góp phần thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô hữu trong Giáo Hội và giữa thế giới”.

Bậc sống giáo dân có sứ vụ riêng mà phần tiếp theo của bản văn khai triển: “làm cho Giáo Hội hiện diện một cách hiện tại trong những nơi này và những hướng nhắm này mà ở đó chỉ có các Kitô hữu mới có thể làm cho Giáo Hội trở thành muối cho đời”. Nền thần học vẫn còn rất cổ điển và nhắc lại một cách quyết đoán cho những người đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy bổn phận phải vâng phục phẩm trật. Người giáo dân là chứng nhân của sự Phục Sinh trong một thế giới mà họ thuộc về để “thánh hóa” các hoạt động, nhưng không đưa Giáo Hội vào trong những lựa chọn trần thế của họ (ví dụ như dấn thân vào chính trị).

Lời kêu gọi nên thánh mang tính phổ quát

Có lẽ người ta đã đánh giá thấp ý niệm này vì ý niệm đã không gây nên cuộc tranh luận nào vào thời bấy giờ. Tuy nhiên, lời mời gọi nên thánh lúc đầu thuộc về đời sống tu trì, sau đã trở nên phổ quát. Đây là lần đầu tiên, một Công đồng thừa nhận cùng lúc sự thánh thiện là trung tâm và cùng đích của Giáo Hội và của cuộc sống con người.

Lời mời gọi nên thánh được diễn tả bằng nhiều phương cách khác nhau theo những đặc sủng và vì thế đưa ra một khung sườn về mặt tâm linh cho mọi Kitô hữu. Qủa vậy, đời sống tu trì là một trong những con đường nên thánh, nhưng không phải chỉ có con đường đó: mọi Kitô hữu được mời gọi nên thánh trong đời sống thường nhật, trong những trách vụ khác nhau mà họ nắm giữ.

Hiến chế cũng nhấn mạnh đến mọi bậc sống và phác họa nên một cách đầy mới mẻ sự thánh thiện trong đời sống vợ chồng “phải suốt đời nâng đỡ nhau trong một tình yêu chung thủy, và giúp cho những người con mà họ đã yêu thương đón nhận từ Thiên Chúa, được thấm nhuần giáo lý Kitô giáo và các nhân đức của Tin Mừng”. Đây là một nên linh đạo hôn nhân gia đình mà trước đây Giáo Hội chỉ nói về luân lý hôn nhân gia đình…

Đức Maria Đấng Trung Gian

Lòng sùng kính Đức Maria đã bay cao trong thế kỷ XIX, với các cuộc hiện ra tại Lộ Đức, Fatima, và các tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội vào năm 1854 và Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời và năm 1950. Một số Nghị Phụ công đồng mong ước một định nghĩa mới về Đức Maria là “Đồng Công Cứu Chuộc” (chuộc lại các tội nhân cùng một tước hiệu với Đức Kitô). Nhưng cuối cùng, phần đông các Nghị Phụ đồng ý để sáp nhập chương về Đức Maria vào trong Hiến chế để xếp đặt lại Hiến chế vào một trong nền thần học rộng lớn hơn về Giáo Hội.

Vì thế, hạn từ đồng công cứu chuộc bị loại bỏ, nhưng nỗi băn khoăn hòa hợp tất cả mọi người có thể thấy được trong việc liệt kê “Đức Maria Đấng Trung Gian”, ngay lập tức theo sau bằng lời giải thích rõ ràng: “Điều đó không thêm gì lẫn không xúc phạm gì đến phẩm vị của Đức Kitô Đấng Trung Gian duy nhất”. Đức Maria được định nghĩa cùng lúc trong tương quan với Giáo Hội và trong tương quan với Thiên Chúa: trong Giáo Hội, Đức Maria chiếm giữ một vị trí riêng biệt, là người đầu tiên trong số những người được cứu độ và là Thân Mẫu Của Đức Kitô Đầu của Giáo Hội. Nhưng Đức Maria vẫn lệ thuộc hoàn toàn vào sự trung gian duy nhất của Đức Kitô.

ISABELLE DE GAULMYN, nhật báo La Croix

Giuse Nguyễn Xuân Phong chuyển ngữ

 


Văn Kiện Giáo Hội