MỤC LỤC
Biến cố Thượng
Hội Đồng mà chúng tôi đã trải qua. 2
Tài liệu kết
thúc của Hội đồng Thượng Hội Đồng. 2
MỞ ĐẦU – Chúa Giêsu đồng
hành với các môn đệ trên đường Emmau. 3
PHẦN I – “NGƯỜI CÙNG ĐI
VỚI HỌ”. 3
Chương I – Một Hội Thánh
lắng nghe. 4
Nghe và nhìn
thấy với sự thông cảm.. 4
Những người
trẻ muốn được lắng nghe. 4
Việc lắng nghe
trong Hội Thánh. 4
Việc lắng nghe
của các mục tử và giáo dân có trình độ. 5
Sự đa dạng về
bối cảnh và văn hóa. 5
Việc loại trừ và
bị đẩy ra ngoài lề xã hội 5
Việc thực dân
hoá nền văn hóa. 6
Một thoáng nhìn
về Hội Thánh ngày nay. 6
Cam kết giáo dục
của Hội Thánh. 6
Gánh nặng của
việc quản lý hành chính. 7
Sự gia nhập vào
đời sống Kitô hữu. 7
Việc đào luyện
các chủng sinh và những người được thánh hiến. 8
Chương II
– Ba chiều kích
quan trọng. 8
Sự mới lạ của
thế giới kỹ thuật số. 8
Người di cư như
mô thức của thời đại chúng ta. 9
Bạo lực và những
người dễ bị tổn thương. 9
Những câu chuyện
chia tay và gặp gỡ. 9
Vai trò tiên tri
của Hội Thánh. 10
Nhận ra và đáp
lại tất cả các loại lạm dụng. 10
Nói lên sự thật
và cầu xin sự tha thứ. 10
Lòng biết ơn và
sự khích lệ. 10
Chương III – Căn tính và các
mối liên hệ. 11
Các mối liên hệ
gia đình và giữa các thế hệ. 11
Gia đình, điểm
quy chiếu đặc quyền. 11
Tầm quan trọng
của việc làm mẹ và làm cha. 11
Các mối liên hệ
giữa các thế hệ. 11
Giới trẻ và cội
rễ văn hóa. 12
Tình bằng hữu và
các mối liên hệ giữa những người giống nhau. 12
Những thay đổi
đang xảy ra. 12
Việc tiếp nhận
các giáo huấn luân lý của Hội Thánh. 13
Những thắc mắc
của người trẻ. 13
Các hình thức dễ
bị tổn thương. 13
Việc đẩy ra
ngoài lề và sự bất ổn xã hội 14
Tài nguyên của
những người dễ bị tổn thương. 14
Chương IV – Là những người
trẻ hôm nay. 15
Các khía cạnh
của nền văn hóa giới trẻ ngày nay. 15
Việc dấn thân và
tham gia xã hội 15
Nghệ thuật, âm
nhạc và thể thao. 15
Các bối cảnh tôn
giáo khác nhau. 16
Mong ước một
phụng vụ sống động. 17
Sự tham gia và
nhân vật chính. 17
Các người trẻ
muốn trở thành những nhân vật chính. 17
Những lý do của
sự xa cách. 17
Các phụ nữ trong
Hội Thánh. 18
Sứ vụ của những
người trẻ với những người trẻ đồng trang lứa. 18
Ước muốn một
cộng đồng Hội Thánh chân thật và thân tình hơn. 18
Hành động của
Chúa Thánh Thần. 19
Chúa Thánh Thần
trẻ trung hoá Hội Thánh. 19
Chúa Thánh Thần
trong đời sống tín hữu. 20
Một cảm ngiệm
đích thực về Thiên Chúa. 20
Chương I – Hồng ân tuổi
trẻ. 20
Chúa Giêsu trẻ ở
giữa những người trẻ. 20
Các đặc tính của
tuổi trẻ. 21
Mối quan tâm
lành mạnh của những người trẻ. 21
Những người trẻ
bị tổn thương. 22
Cuộc sống dưới
dấu chỉ của sứ vụ. 22
Một phương pháp
sư phạm có khả năng thách đố. 23
Ý nghĩa thực sự
của quyền bính. 23
Mối dây liên kết
với gia đình. 23
Tự do bị thương
tích và được cứu chuộc. 24
Chương II – Mầu nhiệm của ơn
gọi 25
Ơn gọi, cuộc
hành trình và khám phá. 25
Để có một nền
văn hóa ơn gọi 26
Đức tin, ơn gọi
và việc làm môn đệ. 27
Ơn gọi và sứ vụ
của Hội Thánh. 27
Sự đa dạng của
các đặc sủng. 28
Chương III – Sứ vụ đồng hành.
29
Các môi trường
và các vai trò. 30
Hỗ trợ việc hội
nhập vào xã hội 30
Đồng hành cộng
đồng, theo nhóm và cá nhân. 30
Việc đồng hành
cộng đồng và theo nhóm.. 31
Đồng hành tâm
linh cá nhân. 31
Việc đồng hành
và Bí Tích Hòa Giải 31
Đồng hành trong
việc đào luyện thừa tác vụ có chức thánh và đời sống thánh hiến. 32
Việc đồng hành
có chất lượng. 33
Chân dung của
người bạn đồng hành. 33
Tầm quan trọng
của việc đào tạo. 33
Chương IV – Nghệ thuật phân
định. 34
Hội Thánh, môi
trường của sự phân định. 34
Một chòm sao
quan trọng trong sự đa dạng của các truyền thống tâm linh. 34
Tham chiếu liên
tục Lời Chúa và Hội Thánh. 34
Lương tâm trong
việc phân định. 35
Thiên Chúa nói
với con tim.. 35
Ý tưởng Kitô
giáo về lương tâm.. 35
Việc thực hành
sự phân định. 36
Những chuẩn bị
của con tim.. 36
PHẦN III – “NGAY LÚC ẤY, HỌ
RA ĐI”. 37
Một biểu tượng
cho việc phục sinh. 37
Hành trình với
những người trẻ. 37
Mong muốn tiếp
cận tất cả những người trẻ. 38
Hoán cải tâm
linh, mục vụ và truyền giáo. 38
Chương I – Tính truyền giáo
kiểu hội đồng của Hội Thánh. 39
Một động năng có
tính cấu thành. 39
Người trẻ mời
chúng ta cùng đi 39
Tiến trình của
Thượng Hội Đồng tiếp tục. 39
Hình thức hội
đồng của Hội Thánh. 40
Một Hội Thánh có
sự tham gia và đồng trách nhiệm.. 40
Tiến trình phân
định cộng đồng. 41
Hướng về các
vùng ngoại vi của thế giới 42
Chương II – Cùng nhau hành
trình hàng ngày. 42
Từ các cấu trúc
đến các liên hệ. 42
Từ uỷ quyền đến
tham gia trực tiếp. 42
Những cấu trúc
cởi mở và dễ hiểu. 43
Một bức tranh
được ghép bằng nhiều khuôn mặt 43
Lời Công Bố Ban
Đầu (Kerygma) và việc dạy giáo lý. 44
Tính trung tâm
của phụng vụ. 44
Sự quảng đại của
diakonia (việc phục vụ) 45
Mục vụ giới trẻ
trong một quan điểm ơn gọi 45
Hội Thánh, một
ngôi nhà cho giới trẻ. 45
Nhiệt tình theo
ơn gọi của việc mục vụ. 46
Một mục vụ ơn
gọi cho những người trẻ. 46
Mối liên hệ hiệu
quả giữa các biến cố và cuộc sống hàng ngày. 47
Trung tâm thanh thiếu
niên. 47
Chương III – Một động lực
truyền giáo mới 47
Sứ vụ trong môi
trường kỹ thuật số. 48
Việc di dân: hãy
phá xập những bức tường và xây những cây cầu. 48
Phụ nữ trong Hội
Thánh theo kiểu hội đồng. 49
Phái tính: một
lời rõ ràng, tự do, xác thực. 49
Kinh tế, chính
trị, công việc, ngôi nhà chung. 50
Trong các bối
cảnh liên văn hóa và liên tôn. 50
Những người trẻ
cho việc đối thoại đại kết 51
Chương IV – Đào tạo toàn
diện. 51
Tính cụ thể,
phức tạp và đầy đủ. 51
Giáo dục, trường
học và đại học. 51
Việc chuẩn bị
các nhà đào tạo mới 52
Việc đào tạo các
môn đệ truyền giáo. 52
Một thời gian để
đồng hành và phân định. 53
Việc đào tạo các
chủng sinh và những người được thánh hiến. 53
Đánh thức thế
giới bằng sự thánh thiện. 55
Được thúc đẩy
bởi sự thánh thiện của những người trẻ. 55
Chương I. Một
Hội Thánh lắng nghe.
Chương II. Ba
chiều kích quan trọng.
Chương III. Căn
tính và các mối liên hệ.
Chương IV. Là
những người trẻ hôm nay.
Chương II. Mầu
nhiệm của ơn gọi.
Chương IV. Nghệ
thuật phân định.
Chương I. Truyền
giáo kiểu hội đồng của Hội Thánh
Chương II. Cùng
hành trình hàng ngày.
Chương III. Một
đông lực truyền giáo mới.
1.
“Trong những
ngày ấy, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên tất cả xác phàm, con trai con gái các ngươi
sẽ nói tiên tri, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng” (Công vụ 2:17, x. Gioen 3:1).
Đây là kinh nghiệm mà chúng tôi đã có trong Thượng Hội Đồng này, cùng đi và
lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần. Ngài đã làm cho chúng tôi ngạc nhiên bởi sự
phong phú của các hồng ân của Ngài, Ngài đã cho chúng tôi can đảm và sức mạnh
để đem hy vọng đến cho thế giới.
Chúng tôi đã cùng đi, với Đấng kế vị Thành Phêrô, người đã
củng cố chúng tôi trong đức tin và làm tươi mát chúng tôi trong nhiệt tình
truyền giáo. Mặc dù đến từ nhiều hoàn cảnh rất khác nhau về quan điểm văn hóa
và Hội Thánh, chúng tôi cảm thấy, ngay từ đầu, một sự hòa hợp tinh thần, một
ước mong đối thoại và một sự cảm thông thật sự. Chúng tôi đã cùng nhau làm
việc, chia sẻ những gì quan trọng nhất đối với chúng tôi, chia sẻ những quan
tâm của chúng tôi và không che đây những khó khăn của chúng tôi. Nhiều can
thiệp đã gợi lên trong chúng tôi cảm xúc và lòng trắc ẩn Tin Mừng: chúng tôi
cảm thấy rằng chúng tôi hợp thành một thân thể, là thân thể chịu đau khổ và vui
mừng. Chúng tôi muốn chia sẻ với mọi người kinh nghiệm về ân sủng mà chúng tôi
đã cảm nghiệm và truyền lại cho các Hội Thánh của chúng tôi và cho thế giới
niềm vui Tin Mừng.
Sự hiện diện của những người trẻ là một điều mới lạ: qua
các em, tiếng nói của cả một thế hệ vang lên tại Thượng Hội Đồng. Trong khi đi
cùng với họ, những khách hành hương viếng mộ Thánh Phêrô, chúng tôi đã cảm
nghiệm được một sự gần gũi, tạo điều kiện để biến Hội Thánh thành một không
gian để đối thoại và một chứng từ hấp dẫn về tình huynh đệ. Sức mạnh của cảm
nghiệm này vượt trên sự mệt mỏi và yếu đuối. Chúa tiếp tục lập lại: “Đừng sợ,
Thầy ở cùng các con.”
2.
Những đóng góp của các Giám Mục và
sự góp ý của các mục tử, tu sĩ, giáo dân, chuyên gia, các nhà giáo dục và nhiều
người khác đã giúp ích lớn lao cho chúng tôi. Ngay từ đầu, những người trẻ đã
tham gia vào tiến trình của Thượng Hội Đồng: bảng câu hỏi trên mạng, nhiều đóng
góp cá nhân và đặc biệt là Cuộc họp tiền Thượng Hội Đồng là
dấu chỉ hùng hồn. Sự đóng góp của các em rất cần thiết, như trong câu chuyện về
các con cá và bánh: Chúa Giêsu đã có thể thực hiện được phép lạ này nhờ vào sự
sẵn sàng của một cậu bé đã đại lượng dâng hiến những gì mình có (xem Ga 6:
8-11).
Tất cả các đóng góp đã được tóm tắt trong Tài liệu
làm việc, tạo thành cơ sở vững chắc của các cuộc bàn luận trong các
tuần của Thượng Hội đồng. Giờ đây Tài liệu kết thúc gom góp kết quả
của tiến trình này và sự hồi sinh hướng tới tương lai: nó diễn tả những gì mà
các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhận ra, giải thích và lựa chọn dưới ánh sáng
Lời Chúa.
3.
Điều quan trọng là phải làm rõ sự
liên hệ giữa Tài liệu làm việc và Tài liệu kết thúc.
Tài liệu thứ nhất đại diện cho khung sườn tham chiếu của việc kết hợp và sự
tổng hợp đạt được trong hai năm lắng nghe; tài liệu thứ hai là thành quả của sự
phân định được thực hiện và tổng kết các chủ đề mà các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng
đặc biệt hăng say và tận tâm chú ý đến. Do đó, chúng tôi nhận ra sự đa dạng và
bổ túc cho nhau của văn hai bản này.
Tài liệu này được đệ trình lên cho Đức Thánh Cha (x.
Phanxicô, Episcopalis Communio, số 18, Chỉ thị,
Điều 35 § 5) và toàn thể Hội Thánh như thành quả của Thượng Hội Đồng này. Vì
hành trình của Thượng Hội Đồng chưa chấm dứt và bao gồm một giai đoạn đem ra
thực hành (x. Episcopalis Communio, số 19-21), Tài liệu
kết thúc là một kế hoạch hướng dẫn các bước tiếp theo mà Hội
Thánh được mời gọi thực hiện.
* Trong tài liệu này, thuật ngữ “Thượng Hội Đồng” dùng để
chỉ toàn bộ quá trình của Thượng Hội Đồng đang diễn ra hoặc Phiên họp Khoáng
Đại, diễn ra từ ngày 3 đến 28 tháng 10 năm 2018.
4.
Chúng tôi đã nhận ra trong cảnh các
môn đệ trên đường Emmau (x. Lk 24:13-35) một bản văn mẫu để
hiểu sứ vụ của Hội Thánh trong mối liên hệ với các thế hệ trẻ. Trang này diễn
tả đúng những gì mà chúng tôi đã cảm nghiệm ở Thượng Hội Đồng và những gì chúng
tôi muốn các Hội Thánh địa phương của chúng ta có thể sống trong mối liên hệ
với giới trẻ. Chúa Giêsu đi cùng hai môn đệ là những người chưa hiểu ý nghĩa
của những gì đã xảy ra và họ đang rời bỏ Giêrusalem và cộng đồng. Để trở nên
bạn đồng hành với họ, Người đã cùng đi với họ trên đường. Người đã hỏi họ và
kiên nhẫn lắng nghe câu chuyện của họ về biến cố đã xảy ra để giúp họ nhận ra những
gì họ đang trải qua. Rồi, Người công bố Lời Chúa cho họ một cách thân mật và
đầy sinh lực, giải thích biến cố mà họ đã sống dưới ánh sáng của Thánh Kinh.
Người chấp nhận lời mời của họ và ngừng lại với họ khi màn đêm buông xuống: Người
đã bước vào đêm đen của họ. Khi nghe Người, lòng họ rạo rực và tinh thần họ
bừng sáng; lúc bẻ bánh, mắt họ mở ra. Chính họ là những người chọn đi
con đường ngược lại, để trở về với cộng đồng và chia sẻ với cộng đồng kinh
nghiệm về cuộc gặp gỡ với Đấng Phục sinh mà không chút chần chừ.
Cũng như Tài liệu làm việc, Tài liệu kết thúc được
chia thành ba phần nhấn mạnh đến cảnh này. Phần thứ nhất nhan đề “Người cùng đi
với họ” (Lc 24:15) và tìm cách làm sáng tỏ những gì mà các Nghị
Phụ Thượng Hội Đồng đã nhận ra từ bối cảnh mà trong đó
những người trẻ được đưa vào, bằng cách làm nổi bật những điểm tốt và những
thách đố. Phần thứ hai, “Mắt họ mở ra” (Lc 24:31), để giải thích và
cung cấp một số chìa khoá căn bản để đọc các chủ đề của Thượng Hội Đồng. Phần
thứ ba, tên là “Họ lập tức trở về” (Lc 24:33), đề ra các lựa chọn cho
một cuộc hoán cải tâm linh, mục vụ và truyền giáo.
5.
“Cũng ngày hôm
ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Emmau, cách
Giêrusalem chừng mười một cây số. Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự
việc mới xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giêsu tiến
đến gần và cùng đi với họ.” (Lc 24:
13-15).
Trong đoạn văn này, thánh ký chụp hình nhu cầu tìm kiếm ý
nghĩa cho các biến cố mà hai người khách hành hương đã trải qua. Ngài nhấn mạnh
đến thái độ của Chúa Giêsu, Đấng nhập cuộc với họ. Đấng Phục Sinh mong ước được
cùng đi với mỗi người trẻ, đón nhận những kỳ vọng của em, thậm chí cả những
thất vọng và hy vọng của em, ngay cả những gì không thích hợp. Chúa Giêsu cùng
đi, lắng nghe và chia sẻ.
6.
Lắng nghe là một cuộc gặp gỡ của tự
do, đòi hỏi lòng khiêm tốn, kiên nhẫn, sẵn sàng để hiểu và cam kết quyết tâm
khai triển các câu trả lời một cách mới mẻ. Việc lắng nghe biến đổi tâm hồn
những người sống nó, đặc biệt là khi người ta đặt mình vào một thái độ nội tâm
hài hòa và ngoan ngoãn với Chúa Thánh Thần. Vì vậy, nó không chỉ là vấn đề thu
thập tin tức hay một chiến lược để đạt được mục đích, mà là hình thức mà trong
đó Chính Thiên Chúa tiếp xúc với dân của Ngài. Thật vậy, Thiên Chúa thấy sự
khốn khổ của dân Ngài và Ngài đã lắng nghe lời kêu than của họ, Ngài đã động
lòng và xuống để giải thoát họ (x. Xh 3: 7-8). Do đó, Hội Thánh, qua
sự lắng nghe, bước vào chuyển động của Thiên Chúa, là Đấng trong Chúa Con, đã
đến để gặp gỡ mỗi con người.
7.
Những người trẻ liên tục được mời gọi
để có những lựa chọn hướng dẫn đời sống của các em; các em bày tỏ ước mong được
lắng nghe, được nhìn nhận, được đồng hành. Nhiều em nhận ra rằng tiếng nói của
mình không được coi là đáng quan tâm hoặc hữu ích trong vòng xã hội và Hội
Thánh. Trong một số trường hợp, người ta ít chú ý đến tiếng kêu than của các
em, đặc biệt là của các em nghèo nhất và bị bóc lột nhiều nhất, và rất ít người
lớn sẵn sàng và có thể lắng nghe các em.
8.
Hội Thánh không thiếu các sáng kiến và kinh nghiệm tổng hợp mà qua đó những người trẻ có thể
cảm nghiệm được sự chào đón, lắng nghe và làm cho tiếng nói của các em được
nghe. Tuy nhiên, Thượng Hội Đồng công nhận rằng cộng đồng Hội Thánh không phải
lúc nào cũng làm rõ thái độ mà Đấng Phục Sinh đã dành cho các môn đệ trên đường
Emmau, trước khi soi sáng cho họ bằng Lời Chúa, Người đã hỏi họ: “Các anh vừa
đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24:17). Khuynh hướng thông
thường là cung cấp các câu trả lời tủ và đưa ra các công thức có sẵn, mà không
biết rõ các câu hỏi của những người trẻ trong sự mới mẻ của chúng hoặc hiểu rõ
những điều làm các em khó chịu.
Lắng nghe giúp cho chúng ta có thể trao đổi quà tặng trong
một bối cảnh cảm thông. Nó cho phép người trẻ đóng góp một điều gì đó cho cộng
đồng, giúp các em nhận thức được những sự nhạy cảm mới và đặt ra những câu hỏi
mới. Đồng thời, tạo điều kiện cho một cuộc loan báo Tin Mừng thực sự chạm đến
con tim, một cách nổi bật và hiệu quả.
9.
Lắng nghe là một giây phút đáng giá
trong tác vụ của các mục tử và, trước hết, là các Giám Mục, những vị thường
có quá nhiều gánh nặng và khó mà tìm được thì giờ cần thiết cho việc phục vụ
rất thiết yếu này. Nhiều người nhận ra việc thiếu chuyên gia dành riêng cho
việc đồng hành. Việc tin vào giá trị thần học và mục vụ của sự lắng nghe hàm ý
coi lại và canh tân các hình thức mà qua đó tác vụ linh mục được thể hiện cách
thông thường, cũng như việc phân biệt các ưu tiên của tác vụ này. Ngoài ra,
Thượng Hội Đồng nhận ra sự cần thiết phải chuẩn bị cho các tu sĩ và các giáo
dân nam nữ có đủ điều kiện để đồng hành với những người trẻ. Đặc sủng lắng
nghe, mà Chúa Thánh Thần mang đến trong các cộng đồng, cũng có thể nhận được
một hình thức công nhận chính thức cho việc phục vụ Hội Thánh.
10.
Chính thành phần của Thượng Hội Đồng
đã cho thấy sự hiện diện và đóng góp của các khu vực khác nhau trên thế giới,
làm nổi bật vẻ đẹp của việc trở thành một Hội Thánh hoàn vũ. Mặc dù bối cảnh
toàn cầu hóa càng ngày càng gia tăng, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng yêu cầu nhấn
mạnh đến nhiều sự khác biệt giữa các bối cảnh và nền văn hóa khác nhau, cũng
như trong một quốc gia. Có rất nhiều thế giới trẻ, vì vậy ở một số quốc gia có
khuynh hướng sử dụng thuật ngữ “giới trẻ” ở số nhiều. Hơn nữa, nhóm tuổi liên
quan đến Thượng Hội Đồng này (16-29 tuổi) không đại diện cho một tổng thể đồng
nhất, nhưng bao gồm các nhóm sống trong những tình cảnh cụ thể.
Tất cả những khác biệt này tác động sâu xa đến kinh nghiệm
cụ thể mà những người trẻ đang sống: thực ra, các ngài quan tâm đến các giai
đoạn khác nhau của thời đại tiến hóa, các hình thức kinh nghiệm tôn giáo, cấu
trúc gia đình và tầm quan trọng của nó đối với việc truyền thụ đức tin, những
sự cảm thông giữa các thế hệ, chẳng hạn như vai trò của các bậc lão thành và
việc tôn trọng họ. phương thức tham gia vào đời sống xã hội, thái độ đối với
tương lai, vấn đề đại kết và liên tôn. Thượng Hội Đồng công nhận và hoan nghênh
sự phong phú đa dạng của các nền văn hóa và bắt đầu phục vụ sự hiệp thông của
Chúa Thánh Thần.
11.
Sự khác biệt về động lực giữa các
nước có tỷ số sinh cao, ở đó người trẻ chiếm tỷ lệ đáng kể và càng ngày càng
gia tăng trong dân số, và các nước [có tỷ số sinh thấp], ở đó ảnh hưởng của các
em đang bị suy giảm, có tầm quan trọng đặc biệt. Một sự khác biệt khác bắt
nguồn từ lịch sử, trong đó các quốc gia và lục địa của truyền thống Kitô giáo
cổ đại, nơi mà nền văn hóa mang một ký ức được bảo tồn, khác với các quốc gia
và lục địa được đánh dấu, ngược lại, bởi những truyền thống tôn giáo khác, nơi
mà sự hiện diện của Kitô giáo, và đôi khi gần đây, là thiểu số. Mặt khác, ở các
lãnh thổ khác, các cộng đồng Kitô giáo và những người trẻ thuộc các cộng đồng
ấy còn là những mục tiêu của việc đàn áp.
12.
Cũng có sự khác biệt giữa các quốc
gia và trong mỗi quốc gia, những khác biệt gây ra bởi cấu trúc xã hội và lợi
ích về kinh tế là những điều tách biệt, đôi khi rất rõ ràng, giữa những người
có thể tiếp cận những cơ hội càng ngày càng gia tăng được cung cấp bởi việc
toàn cầu hóa, và những người sống bên lề xã hội hoặc trong thế giới nông thôn
và chịu hậu quả của các hình thức loại trừ và chối từ khác nhau. Một số can
thiệp đã vạch ra rằng Hội Thánh cần phải can đảm đứng cạnh họ và tham gia vào
việc thực hiện những giải pháp thay thế là những giải pháp loại bỏ sự loại trừ
và đẩy họ ra ngoài lề xã hội, bằng cách củng cố sự tiếp nhận, đồng hành và hòa
nhập. Đây là lý do tại sao chúng ta phải nhận ra được sự thờ ơ là điều đặc
trưng cho nếp sống của nhiều Kitô hữu, để vượt qua nó bằng cách đào sâu chiều
kích xã hội của đức tin.
13.
Chúng ta không được quên sự khác biệt
giữa nam giới và nữ giới, với những hồng ân đặc biệt của họ, sự nhạy cảm cụ thể
và các kinh nghiệm của họ về thế giới. Trong khuôn khổ này có thể phát sinh các
hình thức thống trị, loại trừ và kỳ thị mà xã hội và Hội Thánh cần phải tự giải
phóng.
Thánh Kinh trình bày người nam và người nữ như những đối
tác bình đẳng trước mặt Thiên Chúa (x. St 5: 2): tất cả sự thống trị và
kỳ thị dựa trên phái tính xúc phạm đến nhân phẩm. Thánh Kinh cũng trình
bày sự khác biệt giữa hai giới tính như một mầu nhiệm cấu thành của con người
là điều không thể bị giảm xuống thành những mẫu rập khuôn. Mối liên hệ nam nữ cũng
được hiểu theo nghĩa của một ơn gọi chung sống trong sự tương tác và đối thoại,
trong sự hiệp thông và sinh sản (x. St 1: 27-29, 2: 21-25), và điều
này (cũng được hiểu) trong tất cả mọi khía cạnh của kinh nghiệm của con người:
đời sống vợ chồng, công ăn việc làm, giáo dục và những điều khác. Đó là theo
giao ước mà trong đó Thiên Chúa đã trao phó trái đất cho họ.
14.
Nhiều Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng từ
các quốc gia không thuộc Tây phương vạch ra rằng ở nước họ việc toàn cầu hóa
mang đến cho họ các hình thức thực dân hoá nền văn hóa thật sự, nó nhổ những
người trẻ ra khỏi các liên hệ văn hóa và tôn giáo mà từ đó các em đến. Cần phải
có một cam kết của Hội Thánh để đồng hành với các em trong việc chuyển tiếp này
mà không đánh mất những đặc điểm quý giá nhất về căn tính của các em.
Tiến trình tục hóa dẫn đến những cách giải thích rất khác
nhau. Trong khi một số người coi đó là một cơ hội quý giá để tự thanh lọc khỏi
các hình thức tôn giáo theo thói quen, hoặc dựa trên bản sắc dân tộc và quốc
gia, thì những người khác lại coi đó là một trở ngại cho việc truyền thụ đức
tin. Trong các xã hội bị tục hóa, chúng ta cũng đang chứng kiến việc tái khám phá về Thiên Chúa và tâm linh. Điều này
khuyến khích Hội Thánh tìm thấy lại tầm quan trọng của các động lực đặc thù đối
với đức tin, việc công bố [Lời Chúa] và đồng hành mục vụ.
15.
Không hiếm những vùng trong đó các
người trẻ nhận thấy Hội Thánh như một sự hiện diện sống động và hấp dẫn, điều
này cũng quan trọng với những người trẻ cùng trang lứa với các em, nhưng không
phải là tín hữu hoặc thuộc các tôn giáo khác. Các cơ cấu giáo dục của Hội Thánh
tìm cách đón nhận mọi người trẻ, bất chấp lựa chọn tôn giáo, nguồn gốc văn hóa
và tình trạng cá nhân, gia đình hoặc xã hội của các em. Bằng cách này, Hội
Thánh đem đến một đóng góp cơ bản cho nền giáo dục không thể thiếu được của các
người trẻ ở những nơi đa dạng nhất trên thế giới. Điều này liên quan đến việc
giáo dục trong các trường học ở mọi cấp và mọi nghành, qua các trung tâm dạy
nghề, các trường cao đẳng và đại học, mà còn qua các trung tâm sinh hoạt thanh
thiếu niên và cơ quan bảo trợ; nỗ lực này cũng được hiện thực hóa bằng việc
tiếp nhận người tị nạn và bằng một cam kết dấn thân đa dạng trong lĩnh vực xã
hội. Ở tất cả những nơi này, Hội Thánh kết hợp công việc giáo dục và thăng tiến
con người với việc làm chứng và loan báo Tin Mừng. Khi được gợi hứng bởi cuộc
đối thoại liên văn hóa và liên tôn, hoạt động giáo dục của Hội Thánh cũng được
những người ngoài Kitô giáo đánh giá cao như một hình thức thăng tiến con người
đích thực.
16.
Cuộc hành trình của Thượng Hội Đồng
nhấn mạnh đến sự cần thiết phải cho mục vụ giới trẻ một khía cạnh ơn gọi, bằng
cách coi tất cả người trẻ như những người lãnh nhận của mục vụ ơn gọi. Đồng
thời, cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải phát triển các tiến trình mục vụ
hoàn chỉnh là tiến trình dẫn dắt từ thơ ấu đến trưởng thành, bằng cách đưa mọi
người vào cộng đồng Kitô hữu. Chúng ta đã thấy nhiều nhóm giáo xứ, phong trào
và đoàn thể trẻ đang thực hiện một tiến trình hiệu quả để đồng hành và đào tạo
những người trẻ trong đời sống đức tin của các em.
Ngày Giới Trẻ Thế Giới – được sinh ra từ một trực giác
tiên tri của Thánh Gioan Phaolô II, vẫn là một điểm quy chiếu cho những người
trẻ của thiên niên kỷ thứ ba – và các cuộc họp mặt quốc gia và giáo phận đóng
một vai trò quan trọng trong cuộc sống của nhiều người trẻ vì chúng cung cấp
một kinh nghiệm sống đức tin và hiệp thông, giúp các em đối diện với những
thách đố lớn của cuộc sống và đảm nhận chỗ đứng của các em trong xã hội và
trong cộng đồng Hội Thánh một cách có trách nhiệm. Do đó, những những cuộc tụ
họp này có thể bàn đến việc đồng hành mục vụ thông thường của các cộng đồng
khác nhau, nơi việc đón nhận Tin Mừng phải được đào sâu và chuyển thành một lựa
chọn của đời sống.
17.
17. Nhiều Nghị Phụ đã nhận xét rằng gánh nặng của các nhiệm
vụ hành chính chiếm quá nhiều thì giờ và đôi khi bóp nghẹt thiện chí cùng
năng lực của nhiều mục tử; đây là một trong những lý do gây khó khăn cho việc
gặp gỡ những người trẻ và nâng đỡ các em. Để cho ưu tiên của các cam kết mục vụ
và tâm linh trở nên rõ ràng hơn, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng nhấn mạnh đến sự
cần thiết phải xét lại các phương thức thực tế của việc thực thi mục vụ.
18.
Mặc dù [các giáo xứ] vẫn là hình thức
chính yếu và thiết yếu của Hội Thánh trong một lãnh thổ nhất định, một số tiếng
nói đã được nêu lên để ám chỉ rằng giáo xứ hầu như chưa phải là điểm quy chiếu
cho giới trẻ và cần phải suy nghĩ lại về ơn gọi truyền giáo nhiều hơn nữa.
Thực sự là giáo xứ đã trở nên không đáng kể trong các không gian đô thị, động
năng yếu kém của các đề nghị của giáo xứ, thêm vào những thay đổi theo thời
gian trong cách sống, đòi buộc phải có một cuộc canh tân thật sự. Mặc dù có
nhiều nỗ lực canh tân khác nhau, nhưng thường thì dòng sông cuộc sống của những
người trẻ vẫn tiếp tục chảy bên lề cộng đồng, mà không gặp được nó.
19.
Nhiều người lưu ý rằng con đường khai
tâm Kitô giáo không phải lúc nào cũng có thể dẫn các trẻ em, thiếu niên và
thanh niên đến với vẻ đẹp của kinh nghiệm đức tin. Khi cộng đồng được tạo thành
như một nơi hiệp thông và như một gia đình thực sự của con cái Thiên Chúa, nó
diễn tả một sức mạnh có thể gây ra và truyền thụ đức tin; ngược lại, khi nó đầu
hàng luận lý của việc uỷ quyền và khi tổ chức quan liêu chiếm ưu thế, thì việc
khai tâm Kitô giáo bị coi là một tiến trình giảng dạy về tôn giáo, là tiến
trình thường kết thúc khi người trẻ lãnh nhận bí tích Thêm Sức. Do đó, thật là
điều rất cấp bách để xét lại cách sâu xa tình trạng dạy giáo lý và sự liên kết
giữa việc truyền thụ đức tin của gia đình và cộng đồng, bằng cách dùng đến các
tiến trình đồng hành cá nhân.
20.
Các chủng viện và các nơi (tu viện)
đào tạo là những nơi có tầm quan trọng lớn lao, ở đó những người trẻ được gọi
đến chức linh mục và đời sống thánh hiến đào sâu sự lựa chọn ơn gọi của họ và
trưởng thành bằng cách đi theo Đức Kitô của họ (sequela Christi).
Đôi khi những môi trường này không kể đến các kinh nghiệm trước đây của các ứng
viên một cách đầy đủ, qua việc đánh giá thấp tầm quan trọng của chúng. Điều này
ngăn cản sự phát triển con người và có thể dẫn đến [việc trở lại] các cách sống
trước kia, thay vì thúc đẩy sự phát triển các hồng ân của Thiên Chúa và sự biến
đổi sâu xa của tâm hồn.
21.
Thế giới kỹ thuật số (điện toán) đặc
trưng cho thế giới đương thời. Một phần lớn nhân loại đang đắm chìm trong nó
một cách bình thường và liên tục. Đó không chỉ là vấn đề “sử dụng” các công cụ
truyền thông, mà là sống trong một nền văn hóa phần lớn bị thuật số hóa, nó ảnh
hưởng sâu xa đến các quan niệm về thời gian và không gian, nhận thức về bản
thân, về tha nhân và thế giới, phương thức giao tiếp, học hỏi, tìm hiểu và liên
hệ với những người khác. Một cách tiếp cận thực tế có khuynh hướng đặt hình ảnh
trên việc nghe và đọc có tác động đến cách học và phát triển sự suy nghĩ cách
phê phán. Giờ đây rõ ràng là “môi trường kỹ thuật số không phải là một thế giới
song song hay thuần túy ảo, mà là một phần của thực tại hàng ngày của nhiều
người, đặc biệt là những người trẻ nhất” (Bênêđictô XVI, Sứ điệp cho
Ngày Truyền Thông Xã Hội Thế giới XLVII).
22.
Mạng lưới điện
toán (internet) và mạng lưới
xã hội (mạng xã hội) là không gian mà ở đó người trẻ dành
nhiều thì giờ và gặp gỡ nhau một cách dễ dàng, ngay cả khi mọi người không có
quyền truy cập giống nhau, đặc biệt là ở một số nơi trên thế giới. Trong mọi
trường hợp, chúng là một cơ hội phi thường để đối thoại, gặp gỡ và trao đổi
giữa con người và truy cập tin tức và kiến thức.
Ngoài ra, môi trường kỹ thuật số là bối cảnh của việc tham gia chính trị xã hội
và quyền công dân tích cực và nó có thể tạo điều kiện cho một luồng thông tin
độc lập có khả năng bảo vệ cách hiệu quả nhất cho những người dễ bị tổn
thương nhất bằng cách tiết lộ các sự vi phạm quyền lợi của họ. Ở nhiều quốc
gia, mạng điện toán và mạng xã hội hiện là một nơi thiết yếu để tiếp cận và lôi
kéo giới trẻ, đặc biệt là trong các sáng kiến và hoạt động mục vụ.
23.
Thế giới kỹ thuật số cũng là không
gian của cô đơn, thao túng, bóc lột và bạo lực, đến trường hợp cực đoan
của mạng lưới đen. Các phương tiện truyền thông kỹ thuật số có
thể khiến mọi người có nguy cơ bị lệ thuộc, cô lập và mất liên lạc dần dần với
thực tại cụ thể, do đó cản trở sự phát triển của các mối liên hệ thực sự giữa
các cá nhân. Các hình thức bạo lực mới đang lan truyền qua các phương tiện
truyền thông xã hội, chẳng hạn như làm nhục trên mạng; mạng cũng là
một kênh để phân phát tài liệu khiêu dâm và khai thác con người cho mục đích
tình dục hoặc qua các trò chơi may rủi.
24.
Cuối cùng, các lợi ích kinh tế khổng
lồ đang hoạt động trong thế giới kỹ thuật số. Chúng có thể đưa ra các hình thức
kiểm soát tinh vi như chúng đang xâm lấn, tạo ra các cơ chế để thao túng lương
tâm và các tiến trình dân chủ. Hoạt động của nhiều diễn đàn luôn kết thúc có
lợi cho cuộc gặp gỡ giữa những người có cùng một cách suy nghĩ, ngăn chặn việc
đối đầu của những khác biệt. Những đường liên lạc kín này tạo điều kiện cho
việc phổ biến thông tin sai lệch và tin tức giả, tạo ra những thành kiến và thù hận. Việc phổ biến các tin tức giả là
cách diễn tả của một nền văn hóa đã mất ý thức về chân lý và nộp các sự kiện
cho những lợi ích cụ thể của nó. Danh tiếng của con người đang bị đe dọa bởi
những cuộc xét xử trực tuyến vô bằng cớ. Hiện tượng
này cũng liên quan đến Hội Thánh và các mục tử của Hội Thánh.
25.
Các hiện tượng di cư đại diện cho một
mức độ toàn cầu của hiện tượng theo cấu trúc, và không phải là một trường hợp
khẩn cấp chuyển tiếp. Những cuộc di cư có thể xảy ra trong một quốc gia hoặc
giữa các quốc gia khác nhau. Mối quan tâm đặc biệt của Hội Thánh là những người
chạy trốn chiến tranh, bạo lực, đàn áp chính trị hoặc tôn giáo, thiên tai do
biến đổi khí hậu và nghèo đói cùng cực: nhiều người trong số họ còn trẻ. Nói
chung, họ đang tìm kiếm những cơ hội cho chính họ và gia đình họ. Họ mơ ước về
một tương lai tốt đẹp hơn và muốn tạo điều kiện để hiện thực hóa nó.
Nhiều Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh rằng người di
cư là một “mô thức” có khả năng chiếu sáng thời đại chúng ta và, đặc biệt là
tình trạng của những người trẻ; họ nhắc nhở chúng ta về tình trạng nguyên thủy
của đức tin, đó là đức tin của “những ngoại kiều và khách lữ hành trên mặt đất”
(Dt 11:13).
26.
Những người di cư khác ra đi vì họ bị
thu hút bởi nền văn hóa Tây phương, đôi khi hàm chứa những kỳ vọng thiếu thực
tế khiến họ phải thất vọng ê chề. Những kẻ buôn người vô lương tâm, thường liên
quan đến các băng đảng ma túy và vũ khí, khai thác yếu điểm của những người di
cư, là những người trong suốt cuộc hành trình của họ, thường xuyên phải đối
diện với bạo lực, buôn người, lạm dụng tâm lý và thậm chí cả thể xác, và những
đau khổ không kể xiết. Chúng ta phải ghi nhận sự tổn thương đặc biệt của những
người di cư không có ai đi cùng và tình trạng của những người bị bắt buộc
phải sống nhiều năm trong các trại tị nạn hoặc bị nhốt một thời gian dài nơi
các quốc gia chuyển tiếp, mà không thể tiếp tục việc học hành, hoặc thi thố tài
năng của họ. Ở một số quốc gia mà họ đến được, các hiện tượng di cư làm phát
sinh tình trạng báo động và sợ hãi, thường bị xúi giục và khai thác cho mục
đích chính trị. Từ đó, một tâm lý bài ngoại, đóng cửa và rút vào chính mình
được lan rộng. Chúng ta phải phản ứng một cách cứng rắn với điều ấy.
27.
Những người trẻ di cư sống tách biệt
với môi trường gia đình của các em và thường trải qua việc mất gốc về văn hóa
và tôn giáo. Sự chia cách cũng ảnh hưởng đến các cộng đồng địa phương, là những
cộng đồng đang mất đi những yếu tố mạnh mẽ và đầy nghị lực nhất, và gia đình,
đặc biệt là khi một cha mẹ, hoặc cả hai di cư, để con cái họ ở lại quê nhà. Hội
Thánh có một vai trò quan trọng để làm nơi nương tựa cho những người trẻ của
những gia đình tan vỡ này. Nhưng những câu chuyện về người di cư cũng là những
câu chuyện về những cuộc gặp gỡ giữa những con người và các nền văn hóa: đối
với cộng đồng và xã hội chủ nhà, chúng đại diện cho một cơ hội phong phú hoá và
phát triển con người không thể thiếu được cho tất cả mọi người. Các sáng kiến tiếp nhận dựa vào Hội Thánh có một vai trò quan trọng
trong vấn đề này và có thể hồi sinh các cộng đồng có khả năng thực hiện chúng.
28.
Nhờ nguồn gốc đa dạng của các Nghị
Phụ, Thượng Hội Đồng đã nhìn thấy nhiều quan điểm về chủ đề di dân, đặc biệt là
giữa các quốc gia khởi hành và các quốc gia cùng đích. Ngoài ra, đã vang vọng
một tiếng kêu báo động từ các Hội Thánh mà các thành viên bị bắt buộc phải chạy
trốn chiến tranh cùng bắt bớ và những người coi các cuộc di cư bất đắc dĩ này
như một mối đe dọa cho chính mạng sống của họ. Việc bao gồm tất cả các quan
điểm khác nhau này đặt Hội Thánh vào vị trí đóng một vai trò tiên tri trước xã
hội trong lĩnh vực di cư.
29.
Các loại lạm dụng khác nhau do các
Giám Mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân gây ra, trong cuộc đời của nhiều nạn
nhân, nhiều người trong họ là những người trẻ, những đau khổ có thể kéo dài
suốt đời và không có sự ăn năn nào có thể khắc phục được. Hiện tượng này lan
rộng trong xã hội, nhưng nó cũng ảnh hưởng đến Hội Thánh và diễn tả một trở
ngại nghiêm trọng đối với sứ vụ của Hội Thánh. Thượng Hội Đồng tái khẳng định
cam kết chắc chắn trong việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt để
ngăn chặn điều này xảy ra một lần nữa, từ việc lựa chọn và đào tạo những người
được trao sứ vụ lãnh đạo và giáo dục.
30.
Có nhiều loại lạm dụng khác nhau: lạm
dụng quyền lực, lạm dụng kinh tế, lạm dụng lương tâm, lạm dụng tình dục. Rõ
ràng là chúng ta phải xóa bỏ các hình thức thực thi quyền bính mà chúng được
ghép vào và đấu tranh chống lại sự thiếu trách nhiệm và minh bạch mà nhiều
trường hợp đã được quản lý. Ước muốn thống trị, sự thiếu đối thoại và minh
bạch, các hình thức sống hai mặt, sự trống rỗng về tâm linh, cũng như các yếu
tố tâm lý tạo thành nền tảng trên đó sự thối nát nảy nở. Cụ thể, chủ trương
giáo sĩ trị, “được sinh ra từ một cái nhìn ưu tú và độc quyền về ơn gọi, là
điều giải thích chức vụ được nhận như một quyền lực để thực thi, thay vì là một
việc phục vụ miễn phí và quảng đại để hiến dâng. Và điều ấy dẫn đến việc tin
rằng mình thuộc về một nhóm người có mọi câu trả lời và không còn cần phải lắng
nghe và học hỏi bất cứ điều gì, hoặc chỉ giả vờ lắng nghe” (Phanxicô, Diễn từ
trước Buồi Họp Chung thứ nhất của Thượng Hội Đồng Giám Mục, ngày
3 tháng 10 năm 2018).
31.
Thượng Hội Đồng bày tỏ lòng biết ơn
đối với những người có can đảm tố cáo sự dữ mà họ phải chịu: họ giúp Hội Thánh
nhận thức được những gì đã xảy ra và cần phải phản ứng quyết liệt. Thượng Hội
Đồng cũng đánh giá cao và khuyến khích những nỗ lực chân thành của vô số giáo
dân, linh mục, tu sĩ và Giám Mục, là những người, hằng ngày, hiến thân cách
trung thực và tận tụy trong việc phục vụ giới trẻ. Công việc của họ là một khu
rừng đang phát triển mà không gây ồn ào. Nhiều người trẻ có mặt tại Thượng Hội
Đồng cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với những người đồng hành với các em và nhắc lại
nhu cầu lớn về các khuôn mặt gương mẫu.
Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi Hội Thánh của Người, chính
Người ban cho Hội Thánh sức mạnh và các công cụ cho một con đường mới. Xác định
đường lối của các hành động và biện pháp “cần thiết và kịp thời” (Đức Phanxicô, Thư gửi dân
Chúa, ngày 20 tháng 8 năm 2018, số 2) và ý thức rằng lòng thương
xót đòi hỏi sự công bằng, Thượng Hội Đồng công nhận rằng phải đương đầu với vấn
đề lạm dụng dưới mọi khía cạnh của nó, đặc biệt là với sự giúp đỡ quý giá của
những người trẻ, thực sự có thể là cơ hội cho một cuộc cải cách có ý nghĩa lịch
sử.
32.
Gia đình tiếp tục là điểm quy chiếu
chính cho người trẻ. Con cái đánh giá cao tình yêu và sự quan tâm của cha mẹ,
mối liên hệ gia đình rất quan trọng đối với các em, và đến lượt các em, các em
hy vọng sẽ thành công trong việc thiết lập một gia đình. Không thể phủ nhận sự
gia tăng của viêc ly thân, ly dị, tái hôn và gia đình chỉ có một cha hay một mẹ
có thể gây ra những đau khổ lớn lao và một cuộc khủng hoảng căn tính. Đôi khi,
các em phải gánh những trách nhiệm không tương xứng với tuổi của các em và điều
đó buộc các em phải trở thành người lớn trước tuổi bình thường. Các ông bà
thường góp phần một cách quyết định vào việc giáo dục tình cảm và tôn giáo: qua
sự khôn ngoan của họ, họ là một mắt xích quyết định trong mối liên hệ giữa các
thế hệ.
33.
Những người mẹ và những người cha có
vai trò riêng biệt nhưng không kém phần quan trọng như chuẩn mực để đào tạo con
cái và truyền thụ đức tin cho chúng. Khuôn mặt người mẹ tiếp tục chiếm một vai
trò thiết yếu đáng kể với người trẻ trong sự phát triển của các em, ngay cả khi
nó không được công nhận cách đầy đủ theo quan điểm văn hóa, chính trị và chuyên
nghiệp. Nhiều người cha tận tâm chu toàn vai trò của mình, nhưng chúng ta không
thể bưng bít rằng trong một số bối cảnh, khuôn mặt người cha vẫn còn vắng bóng
hoặc mờ nhạt, và trong các bối cảnh khác, lại là khuôn mặt áp bức và độc đoán.
Những sự mơ hồ này cũng phản ánh trong việc thực thi sứ vụ làm cha thiêng
liêng.
34.
Thượng Hội Đồng công nhận sự tận tâm
của nhiều phụ huynh và nhà giáo, là những người nghiêm túc trong việc truyền
thụ các giá trị, bất chấp những khó khăn của môi trường văn hóa. Ở các vùng
khác nhau, vai trò của những vị cao niên và việc tôn kính tổ tiên tạo thành một
trụ cột của việc giáo dục và góp phần mãnh liệt vào việc hình thành căn tính cá
nhân. Các đại gia đình, mà trong một số nền văn hóa, là các gia đình theo nghĩa
đen, đóng một vai trò quan trọng. Tuy nhiên, một số người trẻ cảm thấy truyền
thống gia đình như những áp bức và chạy trốn chúng theo sự thúc đẩy của một nền
văn hóa toàn cầu hóa, là nền văn hoá đôi khi loại bỏ chúng khỏi bất kỳ điểm
tham chiếu nào. Đằng khác, ở những nơi khác trên thế giới không có sự xung đột
liên thế hệ thật sự giữa những người trẻ và người lớn, nhưng ở đó họ đang không
ngó ngàng gì đến nhau. Đôi khi người lớn không tìm kiếm hoặc không thành công
trong việc truyền thụ các giá trị cơ bản của cuộc sống hoặc thích nghi những
kiểu sống của tuổi trẻ, do đó đảo ngược mối liên hệ giữa các thế hệ. Bằng cách
này, mối liên hệ giữa những người trẻ và người lớn có thể kết thúc theo tình
cảm, mà không bao giờ chạm đến khía cạnh giáo dục và văn hóa.
35.
Những người trẻ dự thảo kế hoạch cho
tương lai và đối diện cuộc đời với năng lượng và năng động. Tuy nhiên, các em
cũng bị cám dỗ tập trung vào việc hưởng thụ của hiện tại và đôi khi có khuynh
hướng ít chú ý đến ký ức về quá khứ mà các em từ đó mà đến, đặc biệt là nhiều
món quà mà cha mẹ, ông bà của các em và hành lý văn hóa của xã hội nơi họ sống
đã được chuyển cho các em. Việc giúp những người trẻ khám phá ra sự phong phú
sống động trong quá khứ, bằng cách làm cho các em nhớ lại và sử dụng chúng
trong việc lựa chọn và trong sự phát triển tiềm năng của các em, là một hành
động của tình yêu đích thực đối với các em, đối với sự phát triển của các em và
những lựa chọn mà các em được gọi để thực hiện.
36.
Ngoài các mối liên hệ giữa các thế
hệ, chúng ta không được quên mối liên hệ giữa những người trẻ cùng trang lứa,
những người đại diện một kinh nghiệm cơ bản về sự tương tác và giải phóng dần
dần khỏi bối cảnh gia đình ban đầu. Tình bạn và sự đương đầu, thường cũng ở
trong các nhóm có ít nhiều cấu trúc, mang đến cơ hội để củng cố các kỹ năng
quan hệ và xã hội của các em trong một bối cảnh mà ở đó một người không bị đánh
giá cũng không bị kết án. Kinh nghiệm nhóm cũng là một nguồn tuyệt vời để chia
sẻ đức tin và giúp đỡ lẫn nhau trong việc làm chứng. Những người trẻ có thể
hướng dẫn các người trẻ khác và sống một đời tông đồ thực sự giữa những người
bạn của các em.
37.
Những người trẻ nhận ra tầm quan
trọng của cơ thể và phái tính trong cuộc sống của các em và trong hành trình
phát triển căn tính của các em, vì các em coi chúng là thiết yếu để sống tình
bạn và tình cảm. Tuy nhiên, trong thế giới hiện đại, chúng ta gặp những hiện
tượng phát triển nhanh chóng trong vấn đề này. Trên hết, sự phát triển về khoa
học và công nghệ y sinh có tác động mạnh mẽ đến nhận thức về cơ thể, dẫn đến ý
tưởng rằng người ta không có giới hạn trong cách sửa đổi nó. Khả năng can
thiệp vào DNA, khả năng chèn các yếu tố nhân tạo vào cơ thể (cyborg) và sự phát
triển của khoa học thần kinh tạo nên một nguồn lực lớn, nhưng đồng thời cũng
đặt ra những vấn đề về nhân học và đạo đức. Một sự đón nhận mù quáng cách tiếp
cận theo kỹ thuật về cơ thể làm suy yếu ý thức về sự sống như một hồng ân và
sự giới hạn của loài thụ tạo, là loài có thể bị các động lực kinh tế và chính
trị lừa dối hoặc khai thác (xem Phanxicô, Laudato si’, số
106).
Ngoài ra, một số người trẻ càng ngày càng bị mê hoặc bởi
những hành vi mạo hiểm như một phương tiện để khám phá chính mình, tìm kiếm
những cảm xúc mạnh mẽ và được người khác công nhận. Ngoài các hiện tượng đã có
từ lâu đời như biết sớm về tình dục, sống phóng đãng, chủ trương du lịch tình
dục, tôn thờ thái quá khía cạnh thể lý, giờ đây chúng ta thấy sự lan tràn rộng
rãi của những tài liệu khiêu dâm bằng điện toán và triển lãm thân xác trực
tuyến. Những hiện tượng này, mà trong đó các thế hệ mới bị đặt vào, tạo thành
một trở ngại cho sự trưởng thành trong sáng. Chúng biểu lộ các động lực
xã hội chưa từng có, là các động lực ảnh hưởng đến những kinh nghiệm và lựa
chọn cá nhân, qua việc biến chúng thành lãnh thổ của một loại thuộc địa hoá về
tư tưởng.
38.
Đây là bối cảnh mà trong đó các gia
đình Kitô giáo và cộng đồng Hội Thánh tìm cách giúp cho những người trẻ khám
phá ra rằng phái tính là một món quà tuyệt vời có trong mầu nhiệm, để sống các
mối liên hệ theo luân lý của Tin Mừng. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng
thành công trong việc chuyển ước muốn này thành giáo dục về tình cảm và phái
tính thích hợp, là những điều không giới hạn ở các can thiệp rời rạc và bất
thường. Ở những nơi mà cách giáo dục này thực sự đã được áp dụng như một lựa
chọn tích cực, người ta nhận thấy có những kết quả tốt giúp người trẻ hiểu rõ
được sự liên hệ giữa đức tin vào Chúa Giêsu Kitô của các em và cách sống tình
cảm và những quan hệ giữa các cá nhân của các em. Những kết quả này thu hút và
khuyến khích một sự đầu tư năng lực của Hội Thánh cách rộng rãi hơn vào lĩnh
vực này.
39.
Hội Thánh có một truyền thống phong
phú như cơ sở để xây dựng và đề ra giáo huấn của mình về chủ đề này: chẳng hạn
như, Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo, Thần Học Thân Xác đã được Thánh
Gioan Phaolô II khai triển, Thông Điệp Deus caritas est của Đưc Bênêđictô
XVI, Tông huấn Amoris laetitia của Đức Phanxicô.
Nhưng những người trẻ, ngay cả những người biết và sống theo giáo huấn này, bày
tỏ ước mong nhận được từ Hội Thánh một lời nói rõ ràng, nhân bản và cảm thông.
Thực ra, luân lý phái tính là một nguyên nhân thường xuyên của việc hiểu lầm
và sự xa cách Hội Thánh, theo mức độ nó bị coi như một không gian để phán xét
và lên án. Đối diện với những thay đổi xã hội và những cách sống tình cảm và vô
số quan điểm về đạo đức, những người trẻ rất nhạy cảm với giá trị của tính xác
thực và của lòng sùng đạo, nhưng thường bị mất định hướng. Các em bày tỏ cách
cụ thể ước muốn đối thoại rõ ràng về các vấn đề liên quan đến sự khác biệt giữa
căn tính nam và nữ, tính hỗ tương giữa người nam và người nữ và sự đồng tính
luyến ái.
40.
Thế giới công việc vẫn là một lĩnh
vực ở đó những người trẻ thể hiện sự sáng tạo và khả năng canh tân của các em.
Đồng thời, các em cũng trải nghiệm những hình thức loại trừ và bị đẩy ra ngoài
lề xã hội. Trước hết và nghiêm trọng nhất là nạn thất nghiệp của người trẻ, mà
ở một số quốc gia đang lên đến những mức độ rất cao. Điều này không những chỉ
làm cho các em thành nghèo, mà tình trạng thiếu công ăn việc làm còn cướp đi
khả năng mơ ước và hy vọng của những người trẻ và tước đoạt cơ hội đóng góp của
các em vào sự phát triển của xã hội. Ở nhiều quốc gia, tình trạng này phụ thuộc
vào sự thể là một số nhóm trẻ trong dân chúng không có trình độ chuyên môn đầy
đủ, đặc biệt là do những thiếu xót trong hệ thống giáo dục và đào tạo. Thông
thường thì sự bất ổn định về công ăn việc làm ảnh hưởng đến những người trẻ
tương ứng với lợi ích kinh tế của việc bóc lột lao động.
41.
Nhiều người trẻ sống trong hoàn cảnh
chiến tranh và chịu đựng bạo lực dưới vô số hình thức: bắt cóc, tống tiền, các
nhóm tội phạm có tổ chức, buôn người, nô lệ và bóc lột tình dục, hãm hiếp trong
chiến tranh, v.v. Những người trẻ khác, vì đức tin của các em, rất khó tìm được
công ăn việc làm trong xã hội của các em và chịu đựng nhiều kiểu ngược đãi khác
nhau, thậm chí cả cái chết. Nhiều người trẻ, vì bị ép buộc hoặc thiếu các lựa
chọn khác, đang sống trong tình trạng gây ra các tội ác và bạo lực: các binh
lính trẻ em, các băng đảng vũ trang và tội phạm, buôn bán ma túy, khủng bố,
v.v. Bạo lực này làm tan vỡ nhiều đời sống của người trẻ. Những sự lạm dụng và
nghiện ngập, cùng với bạo lực và những sự lầm đường lạc lối, là nhiều lý do
trong những lý do khiến những người trẻ phải vào tù, với một phạm vi ảnh hưởng
đặc biệt đến với các nhóm dân tộc và xã hội nhất định. Tất cả những tình cảnh
này chất vấn và thách đố Hội Thánh.
42.
Thậm chí nhiều người trên thế giới là
những người trẻ phải chịu các hình thức loại trừ và bị đẩy ra ngoài lề xã hội, vì lý do tôn giáo, dân tộc hoặc kinh tế. Chúng ta hãy
nhớ lại hoàn cảnh của những trẻ vị thành niên và thiếu nữ đang mang thai, nạn
phá thai, cũng như sự lan tràn của HIV, các dạng nghiện ngập khác nhau (ma túy,
trò chơi may rủi, tranh ảnh khiêu dâm, v.v.) và tình trạng trẻ em và thanh
thiếu niên sống ngoài đường phố không có nhà cửa, gia đình, và nguồn lợi kinh
tế; các tù nhân trẻ cũng đáng được đặc biệt quan tâm. Nhiều can thiệp khác nhau
đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của Hội Thánh để chứng tỏ khả năng của những
người trẻ bị loại trừ và những đóng góp mà các em có thể làm cho các cộng đồng.
Hội Thánh muốn can đảm đứng về phía các em, đồng hành với các em trong suốt
tiến trình phục hồi phẩm giá và một vai trò của của các em trong việc xây dựng
công ích.
43.
Khác hẳn với việc vơ đũa cả nắm đang
thịnh hành rộng rãi, thế giới của giới trẻ cũng bị ảnh hưởng sâu xa bởi kinh
nghiệm về sự tổn thương, khuyết tật, bệnh tật và đau khổ. Ở nhiều quốc gia, sự
lan tràn của các hình thức đau khổ tâm lý, trầm cảm, các bệnh tâm thần và những
rối loạn, liên kết chặt chẽ với những cuộc sống bất hạnh hoặc không thể tìm
thấy một chỗ đứng trong xã hội, là điều liên tục phát triển, đặc biệt là trong
giới trẻ; Chúng ta đừng quên hiện tượng bi thảm của những vụ tự tử. Những người
trẻ trải qua các điều kiện khó chịu khác nhau và gia đình của các em dựa vào sự
nâng đỡ của các cộng đồng Kitô giáo, tuy là những cộng đồng không phải lúc nào
cũng được trang bị để đón tiếp họ.
44.
Nhiều hoàn cảnh trong số những hoàn
cảnh này là sản phẩm của “nền văn hóa lãng phí”: những người trẻ nằm trong số
những nạn nhân đầu tiên. Tuy nhiên, nền văn hóa này cũng có thể thấm nhập vào
những người trẻ, các cộng đồng Kitô giáo và các nhà lãnh đạo của các em, cũng
góp phần vào sự xuống cấp của con người, xã hội và môi trường làm ảnh hưởng đến
thế giới của chúng ta. Với Hội Thánh, đó là một lời kêu gọi hoán cải, đoàn kết
và một hành động giáo dục mới để hiện diện, đặc biệt là trong những môi trường
khó khăn này. Những người trẻ đang sống trong những hoàn cảnh này cũng có các
nguồn tài nguyên quý giá để chia sẻ với cộng đồng và dạy chúng ta đo lường giới
hạn của chính mình, giúp chúng ta phát triển về nhân bản. Óc sáng tạo là điều
không thể thiếu được, một óc sáng tạo mà với nó cộng đồng được linh hoạt bởi
niềm vui của Tin Mừng có thể trở thành một sự thay thế cho sự bất ổn và những
tình cảnh khó khăn. Theo cách này, xã hội có thể kinh nghiệm rằng những viên đá
bị các thợ xây loại bỏ có thể trở thành những viên đá góc tường (x. Tv 118:22, Lc 20:17, Cv4:11, 1 Pr 2:4).
45.
Các thế hệ trẻ mang một cách tiếp cận
thực tế với những đặc điểm cụ thể. Những người trẻ đòi hỏi phải được chào đón
và tôn trọng trong sự độc đáo của các em. Trong số các yếu tố rõ ràng nhất của
nền văn hóa giới trẻ, là các em thích hình ảnh hơn các ngôn ngữ truyền thông
khác, tầm quan trọng của cảm giác và cảm xúc khi tiếp cận với thực tế và ưu
tiên cho sự cụ thể và cho hoạt động so với phân tích lý thuyết. Mối liên hệ của
tình bạn và của việc thuộc về các nhóm tuổi, được nuôi dưỡng qua các phương
tiện truyền thông xã hội, là điều rất quan trọng. Giới trẻ nói chung có một sự
cởi mở tự phát đối với sự đa dạng, điều này khiến các em chú ý đến các chủ đề
hòa bình, hòa nhập và đối thoại giữa các nền văn hóa và tôn giáo. Nhiều kinh
nghiệm từ nhiều nơi trên thế giới cho thấy những người trẻ biết cách trở thành
những người tiên phong trong cuộc gặp gỡ và đối thoại liên văn hóa và liên tôn,
trong quan điểm chung sống hòa bình.
46.
Mặc dù dưới một hình thức khác so với
các thế hệ trước, việc tham gia xã hội là một tính năng cụ thể của giới trẻ
ngày nay. Bên cạnh một số em vẫn thờ ơ, có nhiều em khác sẵn sàng cung cấp các
sáng kiến tình nguyện, làm công dân tích cực và
đoàn kết xã hội: điều quan trọng là phải hỗ trợ và khích lệ các em phát huy tài
năng, kỹ năng và sự sáng tạo của các em, và khuyến khích tinh thần trách nhiệm
của các em. Sự tham gia xã hội và tiếp xúc trực tiếp với người nghèo vẫn là một
cơ hội cơ bản để khám phá và đào sâu đức tin và phân định ơn gọi của chính
mình. Sự nhạy cảm với các chủ đề môi sinh và phát triển bền vững là điều mạnh
mẽ và lan rất rộng, và phải nhấn mạnh rằng Thông Điệp Laudato si’ là
chất xúc tác cho nó. Việc sẵn sàng dấn thân vào chính trị vì công ích được ghi
nhận, mặc dù Hội Thánh không phải lúc nào cũng có thể hỗ trợ nó bằng cách cung
cấp các cơ hội đào tạo và không gian để phân định. Còn việc quảng bá công lý,
các người trẻ đòi hỏi Hội Thánh phải cam kết rõ ràng và mạch lạc, là cam
kết xóa bỏ tất cả mọi thông đồng với một não trạng thế tục.
47.
Thượng Hội Đồng công nhận và đánh giá
cao tầm quan trọng mà những người trẻ dành cho nghệ thuật dưới mọi hình thức:
trong lĩnh vực này, nhiều người trẻ sử dụng những tài năng các em đã nhận được,
phát huy thẩm mỹ, chân lý và thiện tâm, để lớn lên trong nhân loại và trong
tương quan với Thiên Chúa. Với nhiều em, việc diễn tả nghệ thuật cũng là một ơn
gọi chuyên nghiệp đích thực. Chúng ta không thể quên rằng trong nhiều thế kỷ,
“con đường thẩm mỹ” là một trong những cách thế đặc quyền để bày tỏ đức tin và
Phúc Âm hoá.
Tầm quan trọng của âm nhạc là điều rất đặc biệt; nó đại
diện cho một môi trường thực sự mà trong đó những người trẻ không ngừng đắm
chìm, như một nền văn hóa và ngôn ngữ có khả năng khơi dậy cảm xúc và định hình
một căn tính. Ngôn ngữ âm nhạc cũng đại diện cho một nguồn tài nguyên mục vụ
đặc biệt, là thách đố và sự canh tân của phụng vụ. Việc chấp thuận các thị hiếu
theo quan điểm thương mại đôi khi có nguy cơ ảnh hưởng đến sự liên hệ với các
hình thức diễn tả âm nhạc truyền thống và thậm chí cả phụng vụ.
Tầm quan trọng của việc tập thể thao trong giới trẻ cũng
là điều đáng chú ý. Hội Thánh không được đánh giá thấp các tiềm năng của mình
về mặt giáo dục và đào tạo, trong khi vẫn duy trì một sự hiện diện được khẳng
định trong đó. Thế giới thể thao cần được giúp đỡ để vượt qua những điều mơ hồ
là một phần của nó, như huyền thoại về các nhà vô địch, việc làm nô lệ cho luận
lý thương mại và quan niệm thành công bằng bất cứ giá nào. Theo nghĩa này, giá
trị của việc đồng hành và nâng đỡ những em khuyết tật trong việc luyện tập thể
thao được tái khẳng định.
48.
Kinh nghiệm tôn giáo của những người
trẻ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những hoàn cảnh xã hội và văn hóa ở nơi các em
sống. Trong một số quốc gia, đức tin Kitô giáo là một kinh nghiệm cộng đồng
mạnh mẽ và sôi nổi mà những người trẻ chia sẻ với niềm vui. Trong các khu vực
khác của truyền thống Kitô giáo cổ đại, phần lớn dân số Công giáo không sống như
những thành viên thực sự của Hội Thánh; tuy nhiên, không thiếu những nhóm thiểu
số có óc sáng tạo và kinh nghiệm, là những nhóm cho thấy sự hồi sinh của việc
quan tâm đến tôn giáo như một phản ứng chống lại một cái nhìn thu nhỏ và nghẹt
thở. Ở những nơi khác, người Công Giáo, cùng với các giáo phái Kitô giáo khác,
là thiểu số, đôi khi gặp phải sự kỳ thị và thậm chí bắt bớ. Cuối cùng, có những
tình cảnh mà các giáo phái hoặc hình thức tín ngưỡng thay thế đang gia tăng;
những người theo các giáo phái ấy thường thất vọng và trở thành đối thủ của tất
cả những gì gọi là tôn giáo. Nếu ở một số vùng, những người trẻ không có cơ hội
bày tỏ cách công khai đức tin của mình hoặc tự do tôn giáo bị từ chối, thì ở
những nơi khác người ta cảm thấy sức nặng của các lựa chọn trong quá khứ, bao
gồm cả những lựa chọn chính trị, làm suy yếu tính đáng tin cậy của Hội Thánh.
Không thể nói về tín ngưỡng của những người trẻ mà không kể đến tất cả những sự
khác biệt này.
49.
Nói chung, những người trẻ tuyên bố là
đang tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời và bày tỏ sự quan tâm của các em đến đời
sống tâm linh. Sự chú ý này đôi khi có hình thức của một cuộc tìm kiếm hạnh
phúc tâm lý hơn là mở lòng ra cho cuộc gặp gỡ Mầu Nhiệm của Thiên Chúa hằng
sống. Đặc biệt, trong một số nền văn hóa, nhiều người tin rằng tôn giáo là một
vấn đề riêng tư và là việc chọn lựa, trong các truyền thống tâm linh khác nhau,
những yếu tố mà trong đó họ tìm thấy các xác tín của chính mình. Do đó, một sự
pha trộn chắc chắn cũng lan ra và phát triển dựa trên giả định tương đối rằng
tất cả các tôn giáo đều ngang hàng với nhau. Việc gắn bó với một cộng đồng đức
tin không được tất cả moi người coi là phương tiện đặc quyền để tiếp cận ý
nghĩa của cuộc đời và được đồng hành, hoặc đôi khi bị thay thế bởi các ý thức
hệ hoặc việc tìm kiếm thành công về kinh tế và chuyên nghiệp, trong luận lý của
việc tự mình có thể thành công về mặt vật chất. Nhiều thực hành được truyền lại
qua truyền thống vẫn còn tồn tại, chẳng hạn như việc hành hương đến các đền
thờ, có thể ảnh hưởng đến nhiều người trẻ, cũng như những cách bày tỏ việc sùng
kính phổ thông thường liên quan đến việc tôn sùng Đức Mẹ và các Thánh, là những
điều bảo tồn kinh nghiệm về đức tin của một dân tộc.
50.
Sự đa dạng tương tự cũng được tìm
thấy trong mối liên hệ của người trẻ với hình ảnh của Chúa Giêsu. Nhiều em nhận
ra Người là Cứu Chúa và Con Thiên Chúa, và thường các em cảm thấy gần gũi Người
qua Đức Maria, Mẹ Người và các tham gia vào một cuộc hành trình đức tin. Các em
khác không có mối liên hệ cá nhân với Người, nhưng coi Người như một người tốt
và một mẫu gương đạo đức. Các em khác gặp Người qua một kinh nghiệm mạnh mẽ về
Chúa Thánh Thần. Đằng khác, đối với những em khác, đó là một nhân vật quá khứ,
không có sự hiện hữu thường hằng, hoặc rất xa với kinh nghiệm của con người.
Nếu, đối với nhiều người trẻ, Thiên Chúa, tôn giáo và Hội
Thánh dường như là những từ trống rỗng, các em lại nhạy cảm với hình ảnh của
Chúa Giêsu, khi hình ảnh này được trình bày một cách hấp dẫn và hiệu quả. Bằng
nhiều cách, những người trẻ ngày nay nói với chúng ta: “Chúng con muốn thấy
Chúa Giêsu” (Ga 12:21), do đó biểu lộ mối quan tâm thánh thiêng
này, là điều đặc trưng cho tâm hồn của mỗi con người: “ao ước tìm kiếm tâm
linh, khao khát gặp gỡ Thiên Chúa, khắc khoải về tình yêu” (Phanxicô, Thánh lễ
Khai Mạc Tổng Tu Nghị của Dòng thánh Augustinô, ngày 28 tháng 8 năm
2013).
51.
Trong nhiều bối cảnh khác nhau, những
người trẻ Công giáo muốn có những đề nghị về cầu nguyện và những giây phút bí
tích có khả năng nắm bắt cuộc sống hàng ngày của các em trong một phụng vụ tươi
mát, chân thực và vui mừng. Ở nhiều nơi trên thế giới, kinh nghiệm phụng vụ là
yếu tố chính của căn tính Kitô giáo và có sự tham gia rộng rãi của những người
sống với niềm xác tín. Những người trẻ nhận ra một giây phút đặc quyền của kinh
nghiệm về Thiên Chúa và của cộng đồng Hội Thánh, và một điểm khởi hành cho sứ
vụ. Trái lại, ở những nơi khác, có một khoảng cách nhất định giữa bí tích và
Thánh Lễ Chúa Nhật, bị coi là một giới luật đạo đức hơn là một cuộc gặp gỡ hân
hoan với Chúa Phục Sinh và cộng đồng. Nói chung, người ta có thể thấy rằng ngay
cả khi một bài giáo lý về các bí tích được cung cấp, việc đồng hành cách giáo
dục để sống cuộc cử hành theo chiều sâu và bước vào sự phong phú của Mầu Nhiệm,
các biểu tượng và nghi thức của nó vẫn còn quá yếu.
52.
Đối diện với những mâu thuẫn của xã
hội, nhiều người trẻ muốn sử dụng tài năng, kỹ năng và sự sáng tạo của mình và
sẵn sàng thực thi các trách nhiệm. Các chủ đề quan trọng nhất đối với các em là
sự phát triển bền vững, cả về xã hội lẫn môi trường, việc kỳ thị và phân biệt
chủng tộc. Sự tham gia của những người trẻ thường tuân theo các cách tiếp cận
chưa từng có, đặc biệt là việc khai thác các tiềm năng của truyền thông kỹ
thuật số trong việc động viên và áp lực chính trị: việc phổ biến những kiểu
sống và những mô hình tiêu thụ và việc đầu tư là điều thiết yếu, hỗ trợ và chú
ý đến môi trường; các hình thức nhập cuộc và tham gia mới vào xã hội và chính
trị; những phương thức đảm bảo xã hội mới cho những đối tượng yếu đuối nhất.
53.
Thượng Hội Đồng ý thức rằng một số
lớn người trẻ, vì những lý do rất đa dạng, không đòi hỏi gì ở Hội Thánh vì các
em cho rằng điều ấy không có ý nghĩa đối với cuộc sống của các em. Một số em
thậm chí còn yêu cầu Hội Thánh buông tha cho các em, vì các em cảm thấy khó
chịu, nếu không muốn nói là bực bội, về sự hiện diện của Hội Thánh. Đa số những
yêu cầu này không phát sinh từ một sự khinh miệt thiếu suy nghĩ hoặc bốc đồng,
nhưng bắt nguồn từ những lý do nghiêm trọng và đáng tôn trọng: các gương mù về
tình dục và kinh tế, những phán đoán sai lầm của các thừa tác viên có chức
thánh, là những vị không biết phương thức hiểu biết cách thích hợp sự nhạy cảm
của những người trẻ, thiếu chuẩn bị cho bài giảng và trình bày Lời Chúa, vai
trò thụ động được trao cho những người trẻ trong các cộng đồng Kitô hữu, những
khó khăn của Hội Thánh trong việc đưa ra lý do cho các lập trường về giáo lý và
luân lý của mình trong xã hội hiện đại.
54.
Những người Công giáo trẻ không chỉ
đơn thuần là những người tiếp nhận hành động mục vụ, mà là những phần tử sống
động trong một thân thể duy nhất của Hội Thánh, những người đã được rửa tội
trong đó Thần Khí của Chúa sống và hoạt động. Các em góp phần vào việc phong
phú hoá điều gì Hội Thánh là, chử không chỉ những gì Hội Thánh làm. Các em là
hiện tại chứ không chỉ là tương lai của Hội Thánh. Những người trẻ là nhân vật
chính trong nhiều sinh hoạt của Hội Thánh, ở đó các em quảng đại phục vụ, đặc
biệt là cho việc linh động hoá việc dạy giáo lý và phụng vụ, để tâm đến những
người bé nhỏ nhất, tình nguyện hướng đến người nghèo. Các phong trào, các hiệp
hội và các dòng tu cũng cung cấp cho những người trẻ cơ hội dấn thân và cùng
lãnh trách nhiệm. Đôi khi, việc sẵn sàng của những người trẻ gặp một chủ nghĩa
độc đoán và ngờ vực nào đó của người lớn và của các mục tử, là những người
không nhận ra cách đầy đủ sự sáng tạo và cố gắng chia sẻ trách nhiệm của các
em.
55.
Trong số những người trẻ, chúng ta
thấy nhu cầu nhận biết và đánh giá cao hơn về phụ nữ trong xã hội và trong Hội
Thánh. Nhiều phụ nữ đóng một vai trò không thể thay thế được trong các cộng
đồng Kitô giáo, nhưng ở nhiều nơi rất khó để đưa họ vào các tiến trình có thể
đưa ra quyết định, ngay cả khi họ không đòi hỏi những trách nhiệm mục vụ cụ
thể. Sự vắng mặt của tiếng nói và cái nhìn của phụ nữ nghèo nàn hoá cuộc bàn
luận và con đường của Hội Thánh, qua việc loại bỏ một đóng góp có giá trị để
phân định. Thượng Hội Đồng khuyến nghị đảm bảo rằng mọi người đều nhận thức
được sự cấp bách của một thay đổi không thể tránh được, đặc biệt là từ những
suy tư nhân học và thần học về sự hợp tác hỗ tương giữa người nam và người nữ.
56.
Trong các nhóm khác nhau, có những
nhóm trẻ, thường biểu hiện cho các hiệp hội và phong trào Hội Thánh, những
người rất tích cực trong việc Phúc Âm hoá những người trẻ cùng lứa tuồi với các
em qua một chứng từ về một đời sống trong sáng, một ngôn ngữ dễ tiếp cận và khả
năng thiết lập tình bằng hữu chân chính. Hoạt động tông đồ này giúp mang Tin
Mừng đến cho những người mà việc chăm sóc mục vụ giới trẻ thông thường sẽ khó
mà đến được; nó cũng giúp làm cho đức tin của những người làm điều ấy được
trưởng thành. Do đó, nó phải được đánh giá cao, được hỗ trợ, đồng hành một cách
khôn ngoan và hòa nhập vào cuộc sống của cộng đồng.
57.
Giới trẻ yêu cầu Hội Thánh phải tỏa
sáng qua sự chân thật, gương mẫu, có khả năng, đồng trách nhiệm và vững chắc về
văn hóa của mình. Đôi khi, đòi hỏi này nghe có vẻ như một lời chỉ trích, nhưng
thường có hình thức tích cực của một dấn thân cá nhân cho một cộng đồng huynh
đệ, đón chào, vui vẻ và cam kết một cách tiên tri chống lại bất công xã hội.
Trong số những kỳ vọng của người trẻ, việc ước mong rằng Hội Thánh chấp nhận
một kiểu đối thoại ít gia trưởng và thẳng thắn là một điều đặc biệt rõ ràng.
58.
“Rồi bắt đầu từ
ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan
đến Người trong tất cả Sách Thánh. Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm
như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi,
vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ.
Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho
họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất trước mắt
họ.” (Lc 24:
27-31).
Sau khi lắng nghe họ, Chúa nói với hai người lữ khách một
Lời “dứt khoát” và qủa quyết, là Lời có thẩm quyền và biến đổi họ. Vì vậy, với
sự hiền lành và sức mạnh, Chúa vào nhà của họ, ở lại với họ và chia sẻ bánh
hằng sống với họ: chính dấu chỉ Thánh Thể là điều làm cho mắt hai môn đệ cuối
cùng mở ra.
59.
Chúa Thánh Thần soi sáng tâm hồn, mở
mắt và hồi sinh đức tin của hai người lữ khách. Ngài làm việc từ thủa tạo thiên
lập địa để kế hoạch gồm tóm tất cả mọi sự trong Đức Kitô của Chúa Cha đi đến
hoàn thành. Ngài hành động, ở mọi lúc và mọi nơi, trong sự đa dạng của hoàn
cảnh và các nền văn hóa, cũng hồi sinh việc cam kết dấn thân cho công lý, việc
tìm kiếm chân lý, lòng can đảm của hy vọng giữa những khó khăn và đau khổ. Đó
là lý do tại sao Thánh Phaolô nói rằng “cho đến bây giờ, muôn loài thụ tạo
cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8, 22). Lòng ao ước sống trong
tình yêu và sự quan tâm lành mạnh đang ở trong tâm hồn những người trẻ là một
phần của khát vọng mãnh liệt của tất cả mọi thụ tạo để có một niềm vui trọn
vẹn. Trong mỗi người, ngay cả trong những người không biết Đức Kitô, Thần Khí
của Đấng Tạo Hoá hoạt động để dẫn họ đến chân thiên mỹ.
60.
Tuổi trẻ là thời kỳ nguyên thủy và
kích động của cuộc đời sống, là cuộc sống mà chính Chúa Giêsu đã sống, trong
khi thánh hóa nó. Sứ điệp gửi đến những người trẻ của
Công đồng Vatican II (ngày 7 tháng 12 năm 1965) đã trình bày Hội Thánh như
“tuổi trẻ đích thực của thế giới”, có “khả năng vui mừng vì những gì bắt đầu,
tự hiến mà không quay trở lại, canh tân chính mình và lại ra đi cho các cuộc
chinh phục mới”. Với sự tươi mới và đức tin của các em, những người trẻ góp
phần vào việc tỏ cho người ta thấy dung nhan này của Hội Thánh, nơi phản ánh
“Sự Sống Vĩ Đại, Đức Kitô trẻ trung muôn đời”. Vì thế, vấn đề không phải là tạo
ra một Hội Thánh mới cho giới trẻ, mà là cùng các em tìm lại tuổi trẻ của Hội
Thánh, bằng cách mở lòng chúng ta ra cho ân sủng của một Lễ Ngũ Tuần mới.
61.
Ơn gọi của Kitô hữu là đi theo Đức
Kitô bằng cách vượt qua nước Rửa tội, lãnh nhận ấn tín Thêm Sức và trở nên Thân
Thể của Người qua Bí tích Thánh Thể: “Chúa Thánh Thần đến, đó là ngọn lửa sau
nước, và bạn trở nên bánh, tức là thân thể của Đức Kitô” (Thánh
Augustinô, Bài giảng 227). Trong con đường khai tâm (nhập đạo)
Kitô giáo, trên hết là Bí Tích Thêm Sức, một Bí Tích cho phép các tín hữu cảm
nghiệm Lễ Ngũ Tuần và một cuộc tuôn đổ Thánh Thần mới cho việc tăng trưởng và
sứ vụ. Điều quan trọng là phải tái khám ra sự phong phú của Bí Tích này, để
hiểu rõ mối liên hệ của nó với ơn gọi cá nhân của mỗi người đã được rửa tội và
với thần học vế các đặc sủng, để trông nom tốt hơn việc chăm sóc mục vụ của nó,
để nó không trở thành một giây phút trang trọng mà có rất ít ý nghĩa. Chúa
Thánh Thần là nghệ nhân của mọi con đường ơn gọi: Ngài là “bậc thầy nội tâm”,
là Đấng mà chúng ta phải để cho Ngài dẫn dắt.
62.
Điều kiện đầu tiên để phân biệt ơn
gọi trong Chúa Thánh Thần là một cảm nghiệm đích thực về đức tin vào Đức Kitô
đã chết và phục sinh, bằng cách nhớ rằng “Đức tin không phải là một ánh sáng
xua tan tất cả mọi bóng tối của chúng ta, nhưng là một ngọn đèn hướng dẫn các
bước đi của chúng ta trong đêm tối và vừa đủ cho cuộc hành trình”
(Phanxicô, Lumen Fidei, số 57). Trong các cộng đồng Kitô hữu, đôi khi
chúng ta có nguy cơ đề nghị, vượt ra ngoài các ý định, một chủ nghĩa hữu thần
đạo đức trị liệu[1],
là chủ nghĩa đáp ứng nhu cầu an toàn và thoải mái của con người, thay vì dẫn
đến một cuộc gặp gỡ sống động với Thiên Chúa dưới ánh sáng Tin Mừng và quyền
năng của Chúa Thánh Thần. Nếu đúng là cuộc đời chỉ được đánh thức bởi sự sống,
thì rõ ràng là những người trẻ cần gặp những cộng đồng Kitô hữu bắt nguồn từ
tình bằng hữu với Đức Kitô, Đấng dẫn chúng ta đến cùng Chúa Cha trong sự hiệp
thông với Chúa Thánh Thần.
63.
“Người trẻ ở giữa những người trẻ trở
nên gương sáng cho những người trẻ và thánh hiến họ cho Chúa” (Thánh
Irênê, Chống Lạc Giáo, II, 22, 4), Đức Kitô đã thánh hóa tuổi trẻ
bằng chính sự thể là Người sống tuổi trẻ. Tường thuật Thánh Kinh trình bày một
cảnh về tuổi trẻ của Chúa Giêsu (x. Lc 2:41-52), Người đã sống không
ồn ào, trong sự đơn giản và làm việc ở Nadareh, đến nỗi được người ta biết đến
là “bác thợ mộc” (Mc 6: 3) và “con bác thợ mộc” (Mt 13:55).
Khi suy ngẫm về cuộc đời của Người, chúng ta có thể hiểu
rõ hơn về tuổi trẻ là một phúc lành thế nào: Chúa Giêsu đã tin tưởng vô điều
kiện vào Chúa Cha, Người đã quan tâm đến tình bằng hữu với các môn đệ của Người
và ngay cả trong những lúc khủng hoảng, Người đã vẫn trung thành. Người đã tỏ
lộ lòng trắc ẩn sâu xa với những người yếu đuối, đặc biệt là người nghèo, người
bệnh tật, người tội lỗi và những người bị khai trừ. Người đã can đảm
đương đầu với những người có quyền bính về tôn giáo và chính trị thời bấy giờ;
Người đã trải qua việc bị hiểu lầm và chối từ; Người đã cảm thấy sợ hãi sự đau
khổ và đã biết sự mỏng dòn của Cuộc Khổ Nạn; Người đã hướng mắt về tương lai,
phó thác Mình trong bàn tay đáng tin cậy của Chúa Cha và tín thác vào quyền
năng của Chúa Thánh Thần. Trong Chúa Giêsu, tất cả những người trẻ có thể tìm
thấy chính mình, với những lo âu và hy vọng, những tư lự và những giấc mơ của
các em và các em có thể tâm sự với Người. Việc chiêm niệm về các cuộc gặp gỡ
của Chúa Giêsu với những người trẻ sẽ là nguồn cảm hứng cho các em.
64.
Việc lắng nghe Đức Kitô và hiệp thông
với Người cũng giúp cho các mục tử và các nhà giáo có được một bài học khôn
ngoan về giai đoạn này của đời sống. Thượng Hội Đồng cố gắng nhìn những người
trẻ với thái độ của Chúa Giêsu, để nhận ra trong đời sống của các em những dấu
chỉ về tác động của Chúa Thánh Thần. Thực ra, chúng tôi tin rằng ngay cả ngày
nay, Thiên Chúa đang nói với Hội Thánh và thế giới qua giới trẻ, óc sáng tạo và
cam kết dấn thân của các em, cũng như qua những đau khổ và các yêu cầu giúp đỡ
của các em. Với các em, chúng ta có thể đọc thời đại của mình cách tiên tri hơn
và nhận ra các dấu chỉ của thời đại; đó là lý do tại sao những người trẻ là một
trong những “những địa điểm thần học” ở đó Chúa cho chúng ta biết một số kỳ
vọng và các thách đố của mình để xây dựng ngày mai.
65.
Tuổi trẻ, giai đoạn phát triển nhân
cách, được đánh dấu bằng những giấc mơ đang dần dần hình thành, bằng những mối
liên hệ càng ngày càng trở nên kiên định và cân bằng hơn, bằng những nỗ lực và
thử nghiệm, bằng những lựa chọn, đang từ từ xây dựng một kế hoạch cho cuộc đời.
Vào lúc này của cuộc đời, những người trẻ được mời gọi tự tiên liệu, mà không
cần phải cắt đứt gốc rễ của mình, để xây dựng sự tự chủ của mình, nhưng không
phải trong sự cô độc. Bối cảnh xã hội, kinh tế và văn hóa không phải lúc nào
cũng cung cấp những điều kiện thuận lợi. Nhiều vị thánh trẻ đã làm cho các đặc
điểm của tuổi trẻ tỏa sáng trong tất cả vẻ đẹp của chúng và, trong thời đại các
ngài, các ngài là những ngôn sứ thật của sự thay đổi; những gương sáng của các
ngài cho chúng ta thấy rằng người trẻ có những khả năng gì khi các em tự ý mở
lòng ra để gặp gỡ Đức Kitô.
Những người trẻ khuyết tật hoặc bệnh tật cũng có thể có
những đóng góp giá trị. Thượng Hội Đồng mời các cộng đồng nhường chỗ cho những
sáng kiến, là những gì làm cho các em được nhìn
nhận và cho phép các em trở thành những nhân vật chính, chẳng hạn như qua việc
sử dụng ngôn ngữ ký hiệu cho người điếc, qua các lộ trình giáo lý được hoàn
thiện tốt, qua các thí nghiệm hiệp hội hoặc các hội nhập nghề.
66.
Những người trẻ có một mối quan tâm,
trên hết, là phải được lắng nghe, tôn trọng và đồng hành, với xác tín về tự do
và trách nhiệm của các em. Hội Thánh biết qua kinh nghiệm rằng sự đóng góp của
các em là nền tảng cho việc canh tân của mình. Ở một số khía cạch, những người
trẻ này có thể đi trước các mục tử của các em. Vào buổi sáng Lễ Phục Sinh,
người Môn Đệ trẻ yêu dấu đã đến ngôi mộ trước, đến trước trong cuộc chạy đua
với Thánh Phêrô, người tự an ủi vì tuổi tác và phản bội (x. Ga20:1-10);
cũng vậy, trong cộng đồng Kitô hữu, tính năng động của tuổi trẻ là nguồn năng
lượng canh tân cho Hội Thánh, bởi vì nó giúp Hội Thánh thoát ra khỏi sự nặng nề
và chậm chạp cùng mở mình ra cho Đấng Phục Sinh. Đồng thời, thái độ của người
môn đệ yêu dấu cho thấy điều quan trọng là phải nối kết với kinh nghiệm của
những người lớn tuổi, nhận ra vai trò của các mục tử và không tiến về phía
trước một mình. Do đó, chúng ta sẽ có bản hoà tấu nhiều giọng này là hoa quả
của Chúa Thánh Thần.
67.
Cuộc sống của những người trẻ, giống
như những người khác, cũng bị đánh dấu bởi các vết thương. Chúng là các vết
thương của những thất bại trong lịch sử của chính mình, những ước muốn không
thành, những kỳ thị và những bất công phải chịu, hoặc sự thể là không cảm thấy
được yêu thương hoặc nhìn nhận. Đây là những tổn thương về thể lý và tâm lý.
Đức Kitô, Đấng đã chấp nhận vượt qua cuộc khổ nan và cái chết qua Thập Giá của
Người, đã trở nên người lân cận của tất cả những người trẻ chịu đau khổ. Cũng
có những vết thương về đạo đức, sức nặng của những sai lầm mắc phải, mặc cảm sau
khi lỗi lầm. Việc được hòa giải với vết thương của chính mình, ngày nay hơn bao
giờ hết, là điều kiện cần thiết cho một cuộc sống tốt. Hội Thánh được mời gọi
để nâng đỡ tất cả những người trẻ trong các thử thách của các em và thực thi
các hành động mục vụ thích hợp.
68.
Tuổi trẻ là thời gian của cuộc sống
phải kết thúc để nhường chỗ cho tuổi trưởng thành. Sự chuyển tiếp này không
những chỉ là một tiến trình khám phá, mà còn bao hàm một con đường trưởng
thành, không phải lúc nào cũng được thuận tiện hoá bởi môi trường mà trong đó
người trẻ đang sống. Thực ra, ở nhiều vùng, đã có một nền văn hóa tạm thời ủng
hộ việc kéo dài tuổi thiếu niên cách vô hạn và trì hoãn các quyết định; do đó,
nỗi sợ sự dứt khoát tạo ra một loại tê liệt về quyết định. Tuy nhiên, tuổi trẻ
không thể ngừng lại ở một thời gian lơ lửng: đây là tuổi của những chọn lựa và
sự quyến rũ cùng nhiệm vụ lớn nhất của nó nằm ở chính tuổi này. Những người trẻ
đưa ra những quyết định trong các lĩnh vực chuyên nghiệp, xã hội, chính trị và
các lĩnh vực khác, rất căn bản, là điều đem lại cho cuộc đời các em một hướng
đi quyết định. Chính về những điều sau cùng này mà người ta nói cách chính xác
hơn là “sự lựa chọn của cuộc đời”: thực ra, chính cuộc đời, ở thời điểm độc
nhất vô nhị của nó, nhận được định hướng dứt khoát của nó.
69.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời các bạn
trẻ suy nghĩ về cuộc đời của các em trong chân trời của sứ vụ: “Rất nhiều lần
trong đời, chúng ta lãng phí thì giờ để tự hỏi: ‘Nhưng tôi là ai?’. Nhưng bạn
có thể tự hỏi mình là ai và dành cả cuộc đời để tìm kiếm bạn là ai. Hãy tự hỏi,
‘Tôi là ai? ‘“ (Diễn tử trong buổi cầu nguyện để chuẩn bị cho Ngày Giới trẻ Thế giới,
Basilica Santa Maria Maggiore, ngày 8 tháng 4 năm 2017). Khẳng định này làm
sáng tỏ cách sâu xa những lựa chọn của cuộc đời, bởi vì nó mời gọi người ta nắm
lấy chúng trong chân trời giải phóng của món quà chính mình. Đây là cách duy
nhất để đạt được hạnh phúc đích thực và lâu dài! Thật vậy, “sứ vụ ở tâm hồn của
mọi người chẳng phải là một phần của cuộc sống của tôi, cũng chẳng phải là một
vật trang trí mà tôi có thể để lại, cũng chẳng phải một phụ lục hay một giây
phút hiện sinh. Đó là một điều gì đó mà tôi không thể tách ra khỏi bản thân
mình nếu tôi không muốn tự hủy hoại. Tôi là một sứ vụ trên mặt đất này và tôi
đang ở trong thế giới này vì nó” (Phanxicô, Evangelii Gaudium,
số 273).
70.
Sứ vụ là một la bàn chắc chắn cho
đường đời, nhưng không phải là một “hoa tiêu”, là điều cho thấy toàn thể cuộc
hành trình qua dự đoán. Tự do luôn có một chiều kích rủi ro phải được khai
triển với lòng can đảm, và được đi kèm một cách tiến bộ, với sự khôn ngoan.
Nhiều trang của Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu, Đấng mời chúng ta
dám cả gan, cởi bỏ, đi từ luận lý của việc tuân giữ giới luật đến luận lý của
món quà quảng đại và vô điều kiện, mà không che giấu đòi hỏi phải vác thập giá
của mình (x. Mt 16:24). Người rất cực đoan: “Người cho đi tất cả mọi
sự và đòi hỏi tất cả mọi sự: Người cho đi một tình yêu trọn vẹn và đòi hỏi một
con tim không bị chia cắt” (Phanxicô, Bài Giảng ngày 14 tháng 10 năm 2018).
Khi tránh lừa dối những người trẻ bằng những đề nghị theo chủ thuyết tối thiểu
hoặc nghiền nát các em bằng một bộ quy tắc đưa ra một hình ảnh Kitô giáo bị thu
nhỏ và luân lý hóa, chúng ta được mời gọi tận dụng sự táo bạo của các em, để
khuyến khích và huấn luyện các em gánh lấy trách nhiệm của mình, chắc chắn rằng
lỗi lầm, thất bại và khủng hoảng cũng là những kinh nghiệm có thể giúp các em
lớn lên cách nhân bản.
71.
Để thực hiện một cuộc hành trình
trưởng thành thật sự, những người trẻ cần những người lớn có thẩm quyền. Theo
nguyên gốc của nó, auctoritas (quyền bính) ám chỉ khả
năng phát triển; nó không diễn tả ý tưởng về một quyền ra lệnh, mà một sức phát
sinh thực sự. Khi Chúa Giêsu gặp những người trẻ, ở mọi hoàn cảnh và mọi điều
kiện, ngay cả cái chết, bằng cách này hay cách khác, Người nói bảo họ: “Hãy dậy
đi! Hãy lớn lên!”. Và lời Người đã làm tròn những gì Người nói (x. Mc 5:
41, Lc 7:14). Trong cảnh chữa người động kinh bị quỷ ám
(x. Mc 9: 14-29), gợi lên nhiều hình thức tha hóa của giới
trẻ ngày nay, rõ ràng là bàn tay của Chúa Giêsu không cất đi tự do, mà khích lệ
nó, giải phóng nó. Chúa Giêsu thi hành trọn vẹn quyền bính của Người:
Người không mong muốn gì hơn là sự trưởng thành của những người trẻ, không có
một ý chiếm hữu, thao túng hay dụ dỗ nào.
72.
Gia đình là cộng đồng đức tin đầu
tiên, ở đó, bất chấp những giới hạn và thiếu hoàn hảo, người trẻ cảm nghiệm
được tình yêu của Thiên Chúa và bắt đầu phân định về ơn gọi của mình. Các
Thượng Hội Đồng Giám Mục trước đây, rồi Tông huấn Amoris
laetitia, không ngừng nhấn mạnh rằng gia đình, như một Hội Thánh
tại gia, có sứ vụ sống niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống hàng ngày và làm cho
tất cả các thành viên của mình tham dự vào cuộc sống này tuỳ theo điều kiện của
họ, cho phép họ vẫn mở lòng ra với chiều hướng ơn gọi và truyền giáo.
Tuy nhiên, không phải tất cả các gia đình luôn dạy con cái
họ nhìn về tương lai từ viễn cảnh ơn gọi. Đôi khi việc theo đuổi danh vọng xã
hội hoặc thành công cá nhân, tham vọng của cha mẹ hoặc khuynh hướng quyết định
các lựa chọn của con cái, xâm chiếm không gian của sự phân định và điều kiện
hoá việc quyết định. Thượng Hội Đồng nhận ra sự cần thiết phải giúp các gia
đình có một quan niệm rõ ràng hơn về cuộc sống như một ơn gọi. Câu chuyện Tin
Mừng về thiếu nên Giêsu (x. Lc 2:41-52), đã vâng phục cha mẹ
Người, nhưng đã rời xa các ngài để lo cho những việc của Chúa Cha, có thể cho
chúng ta những hiểu biết quý giá để hướng dẫn các mối liên hệ gia đình theo một
ý nghĩa Tin Mừng.
73.
Tự do là một điều kiện thiết yếu cho
một sự lựa chọn đích thực của cuộc đời. Tuy nhiên, nó có khả năng bị hiểu lầm,
đặc biệt vì nó không phải lúc nào cũng được trình bày cách chính xác. Chính Hội
Thánh rốt cuộc cũng bị coi như một cơ chế áp đặt các quy tắc, các cấm đoán và
bó buộc trước mắt nhiều người trẻ. Nhưng Đức Kitô đã “giải phóng chúng ta để
được tự do” (Gal 5: 1), làm cho chúng ta đi từ thể chế của Lề Luật
sang thể chế của Chúa Thánh Thần. Dưới ánh sáng của Tin Mừng, ngày nay chúng ta
đã kịp thời nhận ra một cách rõ ràng hơn rằng tự do là quan hệ cấu thành và cho
thấy rằng các đam mê và cảm xúc là điều quan trọng khi chúng hướng ta về phía
cuộc gặp gỡ đích thực với người khác. Một viễn cảnh như vậy cho thấy rõ ràng
rằng tự do thực sự là dễ hiểu và chỉ khả thi trong tương quan với sự thật
(x. Ga 8:31-32) và đặc biệt là đức bác ái (1 Cr 13:1-13; Ga 5:13):
tự do, là sống thực với chính mình trong con tim người khác.
74.
Qua tình huynh đệ và tình đoàn kết,
đặc biệt là với những người trẻ nhất, người trẻ khám phá ra rằng sự tự do đích
thực nảy sinh từ cảm giác được lắng nghe và phát triển qua việc nhường chỗ cho
người khác. Các em có một cảm nghiệm tương tự khi cố gắng trau dồi sự tiết độ
hoặc tôn trọng môi trường. Kinh nghiệm về việc công nhận lẫn nhau và cam kết
được chia sẻ khiến các em khám phá ra rằng con tim của các em được chiếm ngự
bởi một tiếng gọi yêu thương âm thầm đến từ Thiên Chúa. Cho nên, các em dễ dàng
hơn để nhận ra chiều kích siêu việt mà tự do mang trong mình ngay từ ban đầu
và, khi tiếp xúc với những kinh nghiệm mãnh liệt nhất của cuộc đời, như sự sống
và sự chết, tình bạn và tình yêu, lỗi lầm và tha thứ, thì nó thức dậy một cách
rõ ràng hơn. Những kinh nghiệm này giúp các em nhận ra rằng bản chất của tự do
là đáp trả một cách triệt để.
75.
75. Hơn 50 năm trước, Thánh Phaolô VI đã đưa ra cụm từ
“đối thoại về ơn cứu rỗi” và giải thích sứ vụ của Chúa Con trên thế gian như sự
diễn tả của một “đòi hỏi yêu thương dữ dội”. Tuy nhiên, ngài nói thêm rằng chúng
ta được “tự do đáp trả hoặc chối từ” (x. Ecclesiam suam, số
77). Trong viễn cảnh này, hành động của đức tin cá nhân xuất hiện dưới dạng tự
do và giải phóng: nó sẽ là khởi điểm cho việc chiếm hữu dần dần các nội dung
đức tin. Như thế, đức tin không tạo thành một yếu tố được thêm vào sự tự do hầu
như từ bên ngoài, nhưng đáp lại ước muốn của lương tâm khao khát Chân Thiện Mỹ
bằng cách đón nhận chúng hoàn toàn trong Chúa Giêsu. Chứng từ của nhiều vị tử
vì đạo trẻ, trong quá khứ và hiện tại, đã vang lên cách mãnh liệt ở Thượng Hội
Đồng, là bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy đức tin đem lại sự giải thoát
khỏi các thế lực thế gian, các bất công và thậm chí sự chết.
76.
Tự do của con người bị đánh dấu bằng
những thương tích của tội lỗi cá nhân và tham dục. Nhưng khi, nhờ ơn tha thứ và
lòng thương xót, con người nhận thức được những chướng ngại giam hãm mình, thì
họ lớn lên trong trưởng thành và có thể quyết tâm hơn trong những lựa chọn dứt
khoát của cuộc đời. Từ quan điểm giáo dục, điều quan trọng là giúp những người
trẻ không nản lòng trước những sai lầm và thất bại, thậm chí là ê chề, bởi vì
chúng là một phần của con đường dẫn đến một sự tự do trưởng thành hơn cùng ý
thức về sự cao quý và nhược điểm của sự tự do này.
Tuy nhiên, sự dữ không có quyền quyết định cuối cùng: “Vì
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài” (Ga 3:16).
Người yêu chúng ta cho đến cùng và vì thế Người đã chuộc lại tự do của chúng
ta. Khi chết vì chúng ta trên Thánh Giá, Người đã lan truyền Thần Khí và “ở đâu
có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2 Cr 3: 17): một sự tự do mới,
thuộc về mầu nhiệm Vượt Qua, được hoàn thành trong việc tự hiến hàng ngày.
77.
Câu chuyện về ơn gọi của ngôn sứ
Samuel (1 Sm 3: 1-21) giúp chúng ta hiểu được các yếu tố cơ bản
của việc phân định: lắng nghe và nhận ra sáng kiến của Thiên Chúa, một kinh nghiệm cá nhân, một sự hiểu biết
tiệm tiến, một việc đồng hành kiên nhẫn và tôn trọng sự bí nhiệm trong hành
động, một mục tiêu cộng đồng. Ơn gọi không áp đặt trên ngôn sứ Samuel như một
định mệnh phải chịu; đó là một đề nghị yêu thương, một sứ giả được sai đi trong
lịch sử của việc tin tưởng lẫn nhau hàng ngày.
Như với thiếu niên Samuel, với mọi người nam nữ, ơn gọi,
mặc dù có những lúc mãnh liệt và đặc quyền, đòi hỏi một cuộc hành trình lâu
dài. Lời Chúa cần thời gian để được hiểu và giải thích; sứ vụ mà một người được
gọi để thi hành được tỏ lộ từ từ. Những người trẻ được thu hút bởi cuộc phiêu
lưu của việc dần dần khám phá ra chính mình. Các em sẵn sàng học hỏi từ các
hoạt động mà các em thực hành, từ các cuộc gặp gỡ và các mối liên hệ, bằng cách
tự đặt mình vào các cuộc thử thách hàng ngày. Nhưng các em cần được giúp đỡ để
kết hợp các kinh nghiệm đa dạng này và đọc chúng theo quan điểm đức tin, để
tránh nguy cơ bị phân tán, và nhận ra các dấu chỉ mà Thiên Chúa nói. Trong việc
khám phá ra ơn gọi, tất cả đều không rõ ràng ngay, bởi vì “đức tin ‘nhìn
thấy’ theo mức độ (một người) đi đến đâu, nơi (người ấy) bước vào vùng trời
được mở ra bởi Lời Thiên Chúa” (Phanxicô, Lumen fidei, 9).
78.
Qua nhiều thế kỷ, sự hiểu biết thần
học về mầu nhiệm ơn gọi đã có những điểm nhấn mạnh khác nhau, tùy thuộc vào bối
cảnh xã hội và Hội Thánh mà chủ đề này được suy nghĩ. Như vậy, chúng ta phải
nhận ra đặc tính loại suy của thuật ngữ “ơn gọi” và nhiều chiều đặc trưng cho
thực tại được chỉ định. Điều này có thể dẫn đến việc làm nổi bật một số khía
cạnh, trong các quan điểm không phải lúc nào cũng được lưu lại, với cùng một sự
cân bằng, sự phức tạp của tổng thể. Để hiểu một cách sâu xa mầu nhiệm ơn gọi có
nguồn gốc từ Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi thanh tẩy trí tưởng tượng và
ngôn ngữ tôn giáo của mình, bằng cách phục hồi sự phong phú và cân bằng của
tường thuật Thánh Kinh. Đặc biệt là sự liên kết chặt chẽ giữa lựa chọn của
Thiên Chúa và tự do của con người phải được suy nghĩ bên ngoài tất cả thuyết
định mệnh (determinism )[2] và
thuyết ngoại tại (extrinsecism).[3] Ơn
gọi không phải là một bản văn đã được viết sẵn mà con người chỉ cần đọc thuộc
lòng, cũng chẳng phải là một phút ngẫu hứng trên sân khấu mà không để lại
một dấu vết nào. Vì Thiên Chúa gọi chúng ta làm bạn hữu của Người chứ không
phải tôi tớ của Người (xem Ga 15:13), nên những lựa chọn của
chúng ta góp phần một cách đích thực vào việc triển khai lịch sử của kế hoạch
yêu thương của Người. Hơn nữa, công trình cứu rỗi là một mầu nhiệm chúng ta
không tài nào hiểu nổi; đó là lý do tại sao chỉ nhờ lắng nghe Chúa mà chúng ta
biết mình được mời gọi vào vai trò gì. Được nhận thức trong ánh sáng này, ơn
gọi thực sự xuất hiện như một hồng ân của ân sủng và giao ước, như bí mật đẹp
nhất và quý giá nhất của sự tự do của chúng ta.
79.
Khi khẳng định rằng mọi sự được tạo
thành bởi Đức Kitô và theo nhãn quan của Đức Kitô (x. Cl 1,
16), Thánh Kinh mời gọi chúng ta đọc mầu nhiệm ơn gọi như một thực tại đặc
trưng cho việc tạo dựng của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng bởi Lời của Ngài
là Đấng “dựng nên” các hữu thể và sự sống cùng “phân biệt” trong sự hỗn loạn
của phiếm định, bằng cách in trên vũ trụ vẻ đẹp của trật tự cùng sự hài hòa của
đa dạng. Nếu Thánh Phaolô VI đã khẳng định rằng “toàn thể cuộc đời là một ơn
gọi” (Populorum Progressio, 15), thì Đức Bênêđictô XVI đã
nhấn mạnh rằng con người được tạo dựng như một hữu thể đối thoại: Lời sáng tạo
“mời gọi mỗi người theo cách riêng do đó tỏ ra rằng chính cuộc đời là một ơn
gọi trong mối liên hệ với Thiên Chúa” (Verbum Domini, 77).
80.
Việc nói về đời sống con người về mặt
ơn gọi làm nổi bật một số yếu tố rất quan trọng cho sự phát triển của một người
trẻ: điều này loại trừ đời sống được định đoạt bởi số phận hoặc như kết quả của
tình cờ, đời sống cũng không như một của cải riêng tư mà người ta có thể tự
quản lý. Nếu, trong trường hợp thứ nhất, không có ơn gọi vì không có sự công
nhận một cùng đích xứng đáng cho đời sống, thì trong trường hợp thứ hai, một
con người được coi là “không có sự liên hệ” hóa ra là “không có ơn gọi”. Đó là
lý do tại sao điều quan trọng là tạo ra các điều kiện để trong tất cả các cộng
đồng Kitô hữu, từ ý thức về Bí Tích Rửa Tội của các phần tử của mình, phát
triển một nền văn hóa ơn gọi thực sự và một cam kết không ngừng cầu nguyện cho
ơn gọi.
81.
Nhiều người trẻ bị thu hút bởi nhân
vật Giêsu. Cuộc đời của nhân vật ấy có vẻ tốt lành và đẹp đẽ đối với các em,
bởi vì nhân vật ấy nghèo và đơn giản, đã có những tình bạn chân thành và sâu
đậm, quảng đại dành cho anh em, không bao giờ đóng cửa lòng với bất cứ ai,
nhưng luôn sẵn sàng ban tặng. Cuộc sống của Chúa Giêsu ngày nay vẫn còn vô cùng
hấp dẫn và gây hứng khởi; đối với tất cả những người trẻ, đó là một khích động
thách thức. Hội Thánh biết điều này là vì Chúa Giêsu có một mối liên hệ sâu xa
với mỗi con người bởi “Adam mới, Đức Kitô, trong việc mặc khải mầu nhiệm của
Chúa Cha và tình yêu của Ngài, đã tỏ cho con người biết rõ về chính họ và khám
phá ra thiên chức rất cao cả của họ” (Gaudium et spes, số 22).
82.
Thật ra, Chúa Giêsu không những chỉ
say mê với đời sống của Người, mà còn mời gọi người ta đến đức tin một cách rõ
ràng. Người gặp những người nam nữ, là những người đã nhận ra trong cử chỉ và
lời nói của Người cách nói đúng về Thiên Chúa và mối liên hệ với Ngài, bằng
cách tiếp cận với đức tin là điều mở ra cho ơn cứu rỗi: “Hỡi con, đức tin của
con đã chữa con; hãy đi bình an” (Lc 8:48). Ngoài ra, những người
khác đã gặp Người, đã được Người mời gọi trở thành môn đệ và nhân chứng. Với
những ai muốn trở thành môn đệ của Người, Người đã không che đậy sự cần thiết
phải vác thập giá của mình hằng ngày, và đi theo Người trên con đường sự chết
và phục sinh. Đức tin của việc làm nhân chứng tiếp tục sống trong Hội Thánh,
một dấu chỉ và công cụ cứu rỗi cho muôn dân. Việc thuộc về cộng đồng của Chúa
Giêsu luôn luôn cho người ta nhiều cách để theo Đức Kitô, dưới nhiều hình
thức đi theo (sequela) khác nhau. Hầu hết các môn đệ sống
đức tin trong các điều kiện thông thường của cuộc sống hàng ngày; trái lại,
những người khác, gồm cả một số khuôn mặt nữ giới, đã chia sẻ cuộc sống lang
thang và ngôn sứ của vị Tôn Sư (x. Lc 8:1-3); ngay từ đầu, các Tông
Đồ đã có một vai trò đặc biệt trong cộng đồng và được Đức Kitô liên kết với
chức vụ hướng dẫn và rao giảng của Người.
83.
Trong tất cả các nhân vật trong Thánh
Kinh làm rõ mầu nhiệm của ơn gọi, Đức Mẹ chiếm một vị trí đặc biệt. Một thiếu
nữ qua việc “xin vâng” đã làm cho việc Nhập Thể khả thi bằng cách tạo điều kiện
cho bất kỳ ơn gọi Hội Thánh nào khác được phát sinh, Mẹ vẫn là người môn đệ đầu
tiên của Chúa Giêsu và là mẫu mực của mọi cách trở thành môn đệ. Trong cuộc
hành hương đức tin của mình, Đức Mẹ đã theo Con Mẹ đến chân thập giá và sau khi
Phục Sinh, Mẹ đã đồng hành cùng Hội Thánh trẻ trong Lễ Hiện Xuống. Như Người Mẹ
và Cô Giáo đầy thương xót, Mẹ tiếp tục đồng hành cùng Hội Thánh và cầu khẩn
Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống cho mọi ơn gọi. Như thế, rõ ràng là “nguyên
tắc Thánh Mẫu” đóng một vai trò nổi bật và soi sáng toàn bộ đời sống của Hội
Thánh trong những biểu hiện khác nhau của nó. Bên cạnh Đức Nữ Trinh, hình bóng
của Thánh Giuse, chồng Mẹ, cũng là một mẫu mực gương mẫu về việc đáp trả ơn
gọi.
84.
Không thể hiểu đầy đủ ý nghĩa của ơn
gọi của Bí Tích Rửa Tội, trừ khi coi rằng nó cấu thành một lời mời gọi nên
thánh cho tất cả các ơn gọi khác, không trừ ơn gọi nào. Lời mời gọi này nhất
thiết ngụ ý là lời mời tham gia vào sứ vụ của Hội Thánh, với mục đích cơ bản là
hiệp thông trong Thiên Chúa và giữa mọi người. Thật vậy, các ơn gọi Hội Thánh
là nhiều cách diễn tả mà qua đó Hội Thánh nhận ra ơn gọi của mình là một dấu
chỉ thực sự của Tin Mừng được đón nhận trong một cộng đồng huynh đệ. Các hình
thức khác nhau của việc theo Đức Kitô diễn tả, mỗi hình
thức theo một cách riêng, sứ vụ làm chứng về biến cố của Chúa Giêsu, trong đó
mỗi người nam nữ đều tìm thấy ơn cứu rỗi.
85.
Trong các thư của ngài, Thánh Phaolô
trở lại nhiều lần với chủ đề này, gợi lên hình ảnh của Hội Thánh như một thân
thể được tạo thành bởi các chi thể khác nhau và nhấn mạnh rằng mọi chi thể đều
cần thiết, đồng thời, luôn luôn được kết nối với toàn thân thể, bởi vì chỉ có
sự hợp nhất của tất cả các chi thể mới làm cho thân thể được sống động và hài
hòa. Thánh Tông Đồ tìm thấy nguồn gốc của sự hiệp thông này trong chính mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi: “Chắc chắn rằng có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có
một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều
hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi
người.” (1 Cor 12: 4-6). Công đồng Vaticanô II và Huấn Quyền
tiếp theo đó cung cấp những hướng dẫn có giá trị để phát triển một thần học
chính xác về các đặc sủng và các tác vụ trong Hội Thánh, để đón nhận cách biết
ơn và phát triển với sự khôn ngoan những món quà ân sủng mà Chúa Thánh Thần
tiếp tục làm phát sinh trong Hội Thánh, để trẻ trung hóa Hội Thánh.
86.
Đối với nhiều người trẻ, hướng đi
nghề nghiệp được sống trong một chân trời ơn gọi. Chẳng lạ gì khi các em từ
chối các đề nghị công việc hấp dẫn nhưng không phù hợp với các giá trị Kitô
giáo, và chọn con đường đào luyện của các em bằng cách tự hỏi làm thế nào cho
tài năng cá nhân của mình sinh hoa quả trong việc phục vụ Nước Thiên Chúa. Đối
với nhiều em, công việc là một cơ hội để nhận ra và phát triển những hồng ân
nhận được: bằng cách này, các người nam nữ tích cực tham gia vào mầu nhiệm tạo
dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
87.
Hai cuộc Họp Thượng Hội Đồng Giám Mục
gần đây về Gia đình, tiếp theo là Tông huấn Amoris Laetitia,
đã đóng góp rất nhiều cho ơn gọi của gia đình trong Hội Thánh và cho sự góp
phần không thể thay thế được của các gia đình được mời gọi để làm chứng cho ân
sủng của Tin Mừng qua tình yêu hỗ tương, việc sinh sản và giáo dục của con cái.
Trong khi đề cập đến sự phong phú của các tài liệu gần đây, chúng tôi nhắc lại
tầm quan trọng của việc dùng sứ điệp của chúng để tái khám phá và làm cho những
người trẻ hiểu được vẻ đẹp của ơn gọi hôn nhân.
88.
Món quà đời sống thánh hiến mà Chúa
Thánh Thần khơi dậy trong Hội Thánh, dưới hình thức vừa hoạt động vừa chiêm
niệm, có một giá trị tiên tri đặc biệt khi nó tạo thành một chứng từ vui mừng
về bản chất cho không của tình yêu. Khi các cộng đoàn dòng tu và các tổ chức
mới thực sự sống tình huynh đệ, chúng trở thành các trường hiệp thông, trung
tâm cầu nguyện và chiêm niệm, các nơi làm chứng cho cuộc đối thoại liên thế hệ
và liên văn hóa và những không gian để Phúc Âm hoá và làm việc bác ái. Sứ vụ
của nhiều người đã được thánh hiến, nam cũng như nữ, đang chăm sóc những người
bé nhỏ ở ngoại vi của thế giới, tỏ bày một cách cụ thể sự tận tình của một “Hội
Thánh đi ra”. Nếu, ở một số vùng nào đó, nó đang phải chịu một tình trạng giảm
số lượng và mệt mỏi vì bị lão hóa, đời sống thánh hiến cũng vẫn tiếp tục sinh
hoa quả và sáng tạo qua việc đồng trách nhiệm của giáo dân, là những người chia
sẻ tinh thần và sứ vụ của các đặc sủng khác nhau. Hội Thánh và thế giới không
thể làm gì nếu không có món quà ơn gọi này, đây là một nguồn tài nguyên lớn lao
cho thời đại chúng ta.
89.
Hội Thánh luôn luôn đặc biệt quan tâm
đến thừa tác vụ có chức thánh, ý thức rằng thừa tác vụ này là yếu tố cấu thành
căn tính của mình và cần thiết cho đời sống Kitô hữu. Vì lý do này, Hội Thánh
luôn luôn vun trồng một chú tâm cụ thể đến việc đào luyện và đồng hành với các
ứng viên của thiên chức linh mục. Mối bận tâm của nhiều Hội Thánh vì sự suy
giảm số lượng linh mục đòi hỏi một suy tư mới về ơn gọi cho thừa tác vụ có chức
thánh và về một thừa tác vụ mục vụ về các ơn gọi là điều giúp triển khai một
sức thu hút thực sự cho con người của Chúa Giêsu và chấp nhận lời Người mời gọi
để trở nên những mục tử của đàn chiên của Người. Ơn gọi phó tế vĩnh viễn cũng
đòi hỏi sự chú ý lớn lao hơn vì đây là một nguồn lực mà tiềm năng của nó chưa
được phát triển.
90.
Thượng Hội Đồng đã suy nghĩ về tình
trạng của những người sống “độc thân”, ý thức rằng thuật ngữ này có thể đề cập
đến nhiều hoàn cảnh sống rất khác nhau. Tình trạng này có thể lệ thuộc vào
nhiều lý do, các yếu tố tự nguyện hoặc không tự nguyện, và các yếu tố văn hóa,
tôn giáo và xã hội. Do đó, có thể diễn tả hàng loạt những chiều hướng rộng rãi.
Hội Thánh nhận ra rằng điều kiện này, được giả định theo luận lý đức tin và
hồng ân, có thể trở nên một trong nhiều con đường cho phép ân sủng của Bí Tích
Rửa Tội đi đến kết quả và dẫn đến sự thánh thiện mà tất cả chúng ta được mời
gọi.
91.
Trong thế giới đương thời, được đặc
trưng rõ ràng hơn bao giờ hết bằng chủ nghĩa đa nguyên, và sự sẵn có luôn rất
rộng rãi của nhiều chọn lựa, chủ đề về các lựa chọn được đặt ra với một tác
dụng cụ thể và ở các cấp độ khác nhau, đặc biệt là đối diện với các lối sống càng
ngày càng một chiều và đặc trưng bởi sự tạm bợ. Thực ra, những người trẻ thường
bị đu đưa giữa các cách tiếp cận cực kỳ ngây thơ: một số em cho rằng mình bị
mắc kẹt trong một số phận đã bị định đoạt trước và không thể nào thay đổi được,
trong khi những em khác lại cảm thấy mình bị tràn ngập bởi một lý tưởng tuyệt
vời trừu tượng, trong khuôn khổ của một cuộc tranh đua dã man và bạo lực.
Do đó, việc đồng hành với các em để đưa ra các lựa chọn
chắc chắn, ổn định và có cơ sở vững chắc là một việc phục vụ rất cần thiết.
Hiện diện, để nâng đỡ và đồng hành trong hành trình hướng về những lựa chọn
đích thực là cho Hội Thánh một cách thế để thực thi chức năng làm mẹ của mình,
đem đến sự tự do của con cái Thiên Chúa. Việc phục vụ này không là gì khác hơn
việc kéo dài cách mà Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô đã làm với dân Ngài: qua
một sự hiện diện liên tục và thân mật, một sự gần gũi tận tụy và yêu thương và
một sự dịu dàng vô hạn.
92.
Như câu chuyện về các môn đệ trên
đường Emmau dạy chúng ta, việc đồng hành đòi hỏi phải sẵn sàng cùng nhau đi một
chặng đường dài, và như thế sẵn sàng thiết lập một mối liên hệ có ý nghĩa.
Nguồn gốc của thuật ngữ “đồng hành” nói về việc một tấm bánh được bẻ ra và chia
cho nhau (cum pane), với tất cả sự phong phú biểu tượng về con người
và bí tích của ám chỉ này. Vì thế, cộng đồng, như một tổng thể, là chủ thể đồng
hành đầu tiên, bởi vì chính trong cộng đồng mà mạng lưới các mối liên hệ này
được phát triển và có thể nâng đỡ một người trong cuộc hành trình của người ấy
và cung cấp cho người ấy những điểm quy chiếu và hướng dẫn. Việc đồng hành dọc
theo cuộc hành trình phát triển nhân bản và Kitô giáo hướng đến đời sống
trưởng thành là một trong những hình thức mà cộng đồng chứng tỏ khả năng canh
tân chính mình và đổi mới thế giới.
Bí tích Thánh Thể là cuộc tưởng niệm sống động biến cố
Phục Sinh, là nơi đặc quyền để Phúc Âm hoá và truyền thụ đức tin với mục đích
truyền giáo. Trong cộng đồng tụ họp lại để cử hành Thánh Lễ, cảm nghiệm được
Chúa Giêsu chạm đến, dạy dỗ và chữa lành cách cá nhân qua việc Người đồng hành
với mỗi người trong cuộc hành trình trưởng thành cá nhân của họ.
93.
Ngoài các phần tử trong gia đình, tất
cả những người quan trọng trong các môi trường khác nhau của đời sống người
trẻ, chẳng hạn như các nhà giáo, các hướng dẫn viên, huấn luyện viên và các
nhân vật liên hệ khác, bao gồm cả các chuyên gia, đều được mời gọi đóng một vai
trò trong việc đồng hành. Theo yêu cầu của những người trẻ có mặt trong Thượng
Hội Đồng, thay mặt cho nhiều người trẻ khác, thì mặc dù không độc quyền về việc
đồng hành, các linh mục và tu sĩ nam nữ có một nhiệm vụ cụ thể bắt nguồn từ ơn
gọi của các ngài và là điều các ngài phải tái khám phá. Kinh nghiệm của một số
Hội Thánh đánh giá cao vai trò của giáo lý viên như những người đồng hành của
các cộng đồng Kitô hữu và các phần tử của các cộng đồng ấy.
94.
Việc đồng hành không thể chỉ giới hạn
trong con đường lớn lên và thực hành tâm linh của đời sống Kitô hữu. Việc đồng
hành dọc theo con đường từ từ đảm nhận trách nhiệm trong xã hội cũng có kết quả
tương tự, chẳng hạn như trong môi trường nghề nghiệp hoặc trong việc tham gia
chính trị – xã hội. Theo nghĩa này, Thượng Hội Đồng đề nghị quảng bá học thuyết
xã hội của Hội Thánh. Nhất là trong các xã hội và các cộng đồng Hội Thánh đa
văn hóa và đa tôn giáo, việc đồng hành cụ thể để sống tốt sự đa dạng là điều
cần thiết, ngõ hầu chứng minh giá trị của nó trong việc phong phú hoá xã hội và
khả năng hiệp thông huynh đệ, chống lại cám dỗ kép của việc không dám tỏ lộ căn
tính của mình và thuyết tương đối.
95.
Có một sự bổ sung cấu thành giữa việc
đồng hành cá nhân và việc đồng hành trong cộng đồng, mà mọi linh đạo hay sự
nhạy cảm về Hội Thánh được gọi kết hợp theo cách nguyên thủy. Nhất là, ở một số
thời điểm đặc biệt tế nhị,thí dụ như, trong giai đoạn phân biệt các lựa chọn cơ
bản hoặc trong lúc vượt qua các thời điểm quan trọng, việc đồng hành cá nhân sẽ
xem ra đặc biệt hiệu quả. Trong mọi trường hợp, nó cũng vẫn quan trọng trong
cuộc sống hàng ngày, như một cách đào sâu mối liên hệ với Chúa.
Chúng ta cũng phải nhấn mạnh đến sự cấp bách của việc đồng
hành cách cá nhân với các chủng sinh và các linh mục trẻ, các tu sĩ đang được
huấn luyện, cũng như các cặp vợ chồng trẻ trong việc chuẩn bị kết hôn của họ và
trong những ngày đầu sau khi cử hành bí tích này, được gợi hứng bởi tiến trình
giáo lý dự tòng.
96.
Chúa Giêsu đã đồng hành với nhóm môn
đệ của Người bằng cách chia sẻ với họ cuộc sống hàng ngày. Kinh nghiệm cộng
đồng làm nổi bật những phẩm chất và những giới hạn của mỗi người và giúp dẫn họ
đến việc khiêm tốn nhận ra rằng, nếu không chia sẻ những món quà đã nhận được
vì lợi ích của tất cả mọi người, thì không thể theo Chúa được.
Kinh nghiệm này tiếp tục trong thực hành của Hội Thánh,
khi thấy những người trẻ được đưa vào các nhóm, các phong trào và các hiệp hội
thuộc nhiều loại khác nhau, ở đó các em kinh nghiệm một môi trường đầm ấm và
chào đón cùng các liên hệ nhiệt tình mà các em hằng mơ ước Việc đưa vào thực tế
như vậy là một điều đặc biệt quan trọng, một khi con đường khai tâm Kitô giáo
đã hoàn thành, vì nó mang đến cho những người trẻ một mảnh đất màu mỡ để tiếp
tục làm cho ơn gọi Kitô giáo của các em được trưởng thành. Trong những môi
trường này, sự hiện diện của các mục tử phải được khuyến khích để đảm bảo một
sự đồng hành thích hợp.
Trong các nhóm, các nhà giáo và người hướng dẫn đại diện
cho một điểm tham chiếu về mặt đồng hành, trong khi các mối liên hệ thân hữu
được phát triển giữa các em tạo thành nền tảng cho sự đồng hành giữa những người cùng
trang lứa.
97.
Đồng hành tâm linh là một tiến trình
giúp con người dần dần hòa nhập các chiều kích khác nhau của cuộc đời để theo
Chúa Giêsu. Tiến trình này có ba khía cạnh: lắng nghe cuộc sống, gặp gỡ Chúa
Giêsu và cuộc đối thoại thần bí giữa sự tự do của Thiên Chúa và của con người.
Người bạn đồng hành chào đón với lòng kiên nhẫn, đặt ra những câu hỏi thực sự
và nhận ra các dấu chỉ của Chúa Thánh Thần trong câu trả lời của những người
trẻ.
Trong việc đồng hành tâm linh cá nhân, chúng ta học cách
nhận ra, giải thích và lựa chọn dưới ánh sáng đức tin và lắng nghe những gì
Chúa Thánh Thần gợi ý trong cuộc sống hàng ngày (x. Phanxicô, Evangelii
Gaudium, số 169-173). Sự lôi cuốn của việc đồng hành thiêng liêng,
ngay cả trong truyền thống, không nhất thiết liên quan đến thừa tác vụ có chức
thánh. Chưa bao giờ cần hơn lúc này những vị linh hướng, những người cha và
người mẹ, với kinh nghiệm sâu xa về đức tin và nhân bản và không những chỉ được
đào tạo về trí năng mà thôi. Thượng Hội Đồng hy vọng rằng sẽ có một sự tái khám
phá, cũng trong môi trường này, nguồn tài nguyên lớn lao của thế hệ những người
được thánh hiến, đặc biệt là phái nữ, và giáo dân, những người lớn và người
trẻ, được chuẩn bị tốt.
98.
Bí tích Hòa giải đóng một vai trò
không thể thiếu được trong việc thăng tiến đời sống đức tin, là đời sống được
đặc trưng không chỉ bởi giới hạn và sự mong manh, mà còn bởi tội lỗi. Thừa tác
vụ hòa giải và việc đồng hành tâm linh phải được phân biệt một cách thích hợp
vì mục đích và hình thức của chúng khác nhau. Một sự tiệm tiến lành mạnh và
khôn ngoan của các hành trình sám hối, trong đó có rất nhiều khuôn mặt giáo dục
tham gia, giúp các bạn trẻ đọc được đời sống luân lý của mình, làm cho ý thức
đúng đắn về tội lỗi được trưởng thành và đặc biệt là mở ra cho các em niềm vui
giải thoát của lòng thương xót, là mục vụ đúng lúc.
99.
Hơn nữa, Thượng Hội Đồng nhận ra sự
cần thiết phải cổ võ một việc đồng hành trọn vẹn, trong đó các khía cạnh tâm
linh được hoà hợp tốt với các khía cạnh khác nhau về nhân bản và xã hội. Như
Đức Giáo Hoàng Phanxicô giải thích, “sự phân biệt tâm linh không loại trừ những
đóng góp của các hiểu biết về con người, về sự hiện hữu, tâm lý, xã hội học hay
luân lý. Nhưng nó siêu vượt chúng” (Gaudete et exsultate, số 170). Đây là
những yếu tố để nắm bắt một cách năng động và tôn trọng các nền văn hóa và tâm
linh khác nhau, không có sự loại trừ hay mập mờ.
Việc đồng hành tâm lý hoặc tâm lý trị liệu, nếu mở ra cho
sự siêu việt, có thể làm nền tảng cho con đường hoà hợp của nhân cách, bằng
cách làm cho một số khía cạnh của nhân cách đã bị đóng kín hoặc bị ngăn chặn có
thể dễ dàng tiếp cận với sự tăng trưởng của ơn gọi. Những người trẻ sống tất cả
sự phong phú và mỏng dòn để trở thành một “nơi mở ra”. Đồng hành tâm lý không
những có thể giúp các em kiên nhẫn đọc lại câu chuyện cá nhân của các em, mà
còn mở ra cho các em những câu hỏi để giúp các em đạt được một sự cân bằng tình
cảm ổn định hơn.
100. Khi đón tiếp những người trẻ đến các nơi đào tạo hoặc hội
thảo, điều quan trọng là kiểm tra đầy đủ gốc gác của các em trong một cộng
đồng, sự ổn định của các em trong những liên hệ bằng hữu, nỗ lực của các em
trong việc học hành hoặc công việc, sự liên hệ của các em với những người nghèo
và đau khổ. Trong việc đồng hành tâm linh, dẫn nhập vào cầu nguyện và vào các
việc làm trong nhà[4] là
điều quyết định, để học cách phân định trước hết và quan trọng nhất trong đời
sống của chính mình, đặc biệt là qua các hình thức từ bỏ mình và khổ chế. Sống
độc thân cho Nước Trời (x. Mt 19:12) phải được hiểu như một
hồng ân để nhận biết và xác minh, trong tự do, niềm vui, biết ơn và khiêm
nhường, trước khi được nhận vào dòng tu hoặc tuyên khấn lần đầu. Sự đóng góp
của tâm lý học phải được hình thành như một sự trợ giúp cho việc trưởng thành
về tình cảm và sự hòa nhập của nhân cách, và được đưa vào hành trình đào tạo
theo đạo đức nghề nghiệp và tôn trọng sự tự do tình cảm của người được đào
luyện. Khuôn mặt của vị bề trên hoặc người chịu trách nhiệm đào tạo trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết để thống nhất lộ trình đào tạo, để đạt được sự phân
định thực tế, qua việc tham khảo ý kiến của
tất cả những người liên quan đến việc đào tạo, và trong một số trường hợp, để
quyết định việc có thể phải ngưng đào tạo, bằng cách chuyển sang một con đường
ơn gọi khác.
Một khi giai đoạn đào luyện ban đầu đã hoàn thành, cần
phải đảm bảo sự đào tạo và đồng hành liên tục của các linh mục và những người
đã được thánh hiến, nam và nữ, đặc biệt là những người trẻ nhất. Họ thường phải
đối diện với những thách đố và trách nhiệm không cân xứng. Nhiệm vụ đồng hành
cùng họ không những chỉ thuộc về một số người được uỷ quyền nhất định, mà còn
phải được các Giám Mục và bề trên thực hiện.
101. Bằng nhiều cách, những người trẻ yêu cầu chúng tôi nhấn
mạnh đến phẩm chất của những người bạn đồng hành. Tác vụ đồng hành là một sứ vụ
đích thực, nhằm thu hút sự sẵn sàng làm việc tông đồ của người chu toàn nó. Như
phó tế Philipphê, người bạn đồng hành được dẫn đến vâng theo tiếng gọi của Chúa
Thánh Thần, đi ra ngoài và từ bỏ việc giam mình giữa các bức tường của thành
Giêrusalem, biểu tượng cho cộng đồng Kitô hữu, để đến một nơi hoang vắng và thù
nghịch, thậm chí có thể nguy hiểm, nơi người ta phải khó khăn lắm mới đến được
với một chiếc xe ngựa. Sau khi nhập cuộc, ngài phải tìm cách bắt đầu mối liên
hệ với người du khách ngoại quốc, để đưa ra một câu hỏi không mấy dễ dàng hình
thành một cách tự nhiên (x. Cv 8:26-40). Tóm lại, để đồng hành
đòi hỏi phải đặt mình dưới quyền xử dụng của Thần Khí của Chúa và của người
được đồng hành, cống hiến tất cả mọi chất lượng và khả năng của mình, và có can
đảm khiêm nhường từ bỏ mình.
102. Người bạn đồng hành tốt là một người cân bằng, có thể lắng
nghe, được chống đỡ bởi đức tin và cầu nguyện, và là người đã phải đối diện với
những yếu đuối và mỏng giòn của chính mình. Đó là lý do tại sao người ấy biết
cách chào đón những người trẻ mà mình đồng hành với, mà không lên mặt đạo đức
hoặc nuông chiều cách sai lầm. Khi cần thiết, người ấy cũng có thể đưa ra những
lời sửa lỗi huynh đệ.
Ý thức rằng việc đồng hành là một sứ vụ đòi hỏi phải bén
rễ sâu trong đời sống tâm linh sẽ giúp duy trì sự tự do trong tương quan với
những người trẻ mà người ấy đồng hành: người ấy sẽ tôn trọng kết quả của tiến
trình của các em, qua việc nâng đỡ các em bằng cầu nguyện và thưởng thức những
hoa quả mà Chúa Thánh Thần tạo ra nơi những em mở lòng ra với mình, mà không
tìm cách áp đặt ý muốn hay sở thích của mình trên các em. Người ấy cũng sẽ có
thể phục vụ những người khác, thay vì đứng ở giữa sân khấu và áp dụng những
thái độ chiếm hữu cùng thao túng, là những thái độ tạo ra sự lệ thuộc và cản
trở sự tự do của người ta. Sự tôn trọng sâu xa này cũng là cách đảm bảo tốt
nhất chống lại nguy cơ đạo văn và lạm dụng dưới bất cứ hình thức nào.
103. Để có thể chu toàn tác vụ của mình, người đồng hành sẽ cần
phải nuôi dưỡng đời sống tâm linh của mình, nuôi dưỡng mối liên hệ của mình với
Đấng đã trao cho mình sứ vụ này. Đồng thời, người ấy sẽ cần phải cảm thấy được
sự nâng đỡ của cộng đồng Hội Thánh mà người ấy là một phần tử. Việc người ấy
được huấn luyện đặc biệt cho tác vụ đặc thù này và được hưởng việc đồng hành
của cấp trên sẽ là điều rất quan trọng.
Cuối cùng, phải nhớ rằng những đặc điểm đặc trưng của việc
trở thành một Hội Thánh, và rằng những người trẻ nhấn mạnh cách tích cực, là sự
sẵn có và khả năng làm việc theo nhóm: bằng cách này, chúng ta có ý nghĩa, hiệu
quả và khôn ngoan hơn trong việc đào tạo những người trẻ. Khả năng này
trong công việc cộng đồng đòi hỏi rằng một số đức tính cụ thể về những quan hệ
phải được chín mùi: kỷ luật lắng nghe và khả năng nhường chỗ cho người khác,
sẵn sàng tha thứ và sẵn sàng tham gia theo linh đạo hiệp thông thực sự.
104. Việc đồng hành trong ơn gọi là một khía cạnh cơ bản của
một tiến trình phân định bởi người được mời gọi lựa chọn. Thuật ngữ “phân định”
được sử dụng theo nhiều nghĩa, mặc dù có liên quan đến nhau. Theo một nghĩa
tổng quát hơn, sự phân định ám chỉ tiến trình dẫn đến việc đưa ra các quyết
định quan trọng; theo nghĩa thứ hai, cụ thể hơn với truyền thống Kitô giáo và
chúng ta sẽ bàn đến nó một cách đặc biệt hơn, nó tương ứng với động năng tâm
linh nhờ đó một người, một nhóm hoặc một cộng đồng tìm cách nhận ra và chấp
nhận Thánh Ý Thiên Chúa một cách cụ thể trong hoàn cảnh của họ: “Hãy xem xét
mọi sự: điều gì tốt thì giữ lại” (1 Ts 5: 21). Như một sự sẵn có để
nhận ra tiếng nói của Chúa Thánh Thần và đón chào lời mời gọi của Ngài, sự phân
định là một chiều kích thiết yếu trong kiểu sống của Chúa Giêsu, một thái độ cơ
bản hơn nhiều so với một hành động chính xác.
Xuyên qua suốt lịch sử của Hội Thánh, nhiều linh đạo khác
nhau đã chạm trán với chủ đề phân định, với các nhấn mạnh khác nhau, đặc biệt
là theo sự đa dạng của những nhạy cảm với các đặc sủng và những thời đại lịch
sử. Trong Thượng Hội Đồng, chúng tôi đã nhận ra một số yếu tố chung, là những
yếu tố không loại bỏ sự đa dạng của các ngôn ngữ: sự hiện diện của Thiên Chúa
trong đời sống và lịch sử của mỗi người; khả năng nhận ra hành động của Ngài;
vai trò của cầu nguyện, đời sống bí tích và khổ hạnh; việc đối diện vĩnh viễn
với những đòi hỏi của Lời Chúa; sự tự do liên quan đến những điều chắc chắn đã
nhận được; việc xác minh liên tục với cuộc sống hàng ngày; tầm quan trọng của
một cuộc đồng hành đầy đủ.
105. Như “một thái độ nội tâm bắt nguồn
từ một hành vi đức tin” (Phanxicô, Diễn từ
trước Buổi Họp Khoáng Đại thứ nhất của Đại Hội Thông Thường thứ XV của Thượng
Hội Đồng Giám Mục, ngày 3 tháng 10 năm 2018), sự phân định đề cập
cách hiến pháp đến Hội Thánh, mà sứ vụ là làm cho mọi người nam nữ gặp gỡ Chúa,
Đấng đang hoạt động trong cuộc đời và trong con tim của họ.
Bối cảnh của cộng đồng Hội Thánh thuận lợi cho một bầu khí
tin cậy và tự do trong việc tìm kiếm ơn gọi của một người trong một môi trường
hồi tâm và cầu nguyện; nó mang đến những cơ hội cụ thể để đọc lại lịch sử của
chính mình và khám phá ra những hồng ân và những yếu điểm của một người dưới
ánh sáng của Lời Chúa; nó cho phép một người đối đầu với các chứng từ là hiện
thân của những lựa chọn khác nhau của cuộc sống. Cuộc gặp gỡ với những người
nghèo cũng mời gọi một người đào sâu những gì thiết yếu trong cuộc đời, trong
khi các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Thánh Thể và Hòa Giải, nuôi dưỡng và nâng
đỡ những người tìm ra Thánh Ý của Thiên Chúa.
Chân trời cộng đồng luôn liên hệ đến bất cứ sự phân định
nào, là điều không bao giờ có thể được chỉ thu hẹp vào chiều kích cá nhân. Đồng
thời, bất cứ sự phân định cá nhân nào cũng thách đố cộng đồng, bằng cách khuyến
khích nó lắng nghe những gì Chúa Thánh Thần gợi ra cho nó qua kinh nghiệm tâm
linh của các phần tử của nó: giống như tất cả các tín hữu, Hội Thánh luôn luôn
ở trong tình trạng phân định.
106. Việc phân định lôi kéo sự chú ý đến những gì đang xảy ra
trong tâm hồn của mỗi người nam nữ. Trong các văn bản Thánh Kinh, thuật ngữ
“con tim” được sử dụng để ám chỉ trung tâm của nội tâm con người, trong đó việc
lắng nghe Lời mà Thiên Chúa nói với người ấy liên tục trở thành tiêu chuẩn đánh
giá cuộc sống và lựa chọn của người ấy (x. Tv 139).
Thánh Kinh kể đến chiều kích cá nhân, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh đến chiều
kích cộng đồng. Ngay cả “quả tim mới” được các ngôn sứ hứa hẹn không phải là
một món quà riêng tư, nhưng liên quan đến tất cả dân Israel, với truyền thống
và lịch sử cứu độ của nó, mà trong đó tín hữu được đưa vào (x. Ed 36:
26-27). Các Tin Mừng tiếp tục trong chiều hướng này: Chúa Giêsu nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của nội tâm và đặt con tim vào trung tâm của đời sống luân lý
(xem Mt 15:18-20).
107. Thánh Tông Đồ Phaolô đã phong phú hoá điều mà truyền thống
Thánh Kinh đã đề ra về con tim, bằng cách liên hệ nó với thuật ngữ “lương tâm”,
là điều mà ngài lại lấy từ nền văn hóa của thời đại ngài. Chính trong lương tâm
mà chúng ta nắm được hoa quả của cuộc gặp gỡ và hiệp thông với Đức Kitô: một sự
biến đổi cứu rỗi và đón nhận một tự do mới. Truyền thống Kitô giáo nhấn mạnh
rằng lương tâm là nơi đặc quyền của sự mật thiết đặc biệt với Thiên Chúa và gặp
gỡ Ngài, nơi có tiếng nói của Ngài: Lương tâm là trung tâm bí ẩn nhất và là
cung thánh của con người, nơi con người ở một mình với Thiên Chúa, và tiếng nói
của Ngài vang dội trong thẳm sâu lòng họ” (Gaudium et spes, số 16). Ý thức này
không trùng hợp với cảm giác tức thì và hời hợt, cũng không phải là “sự tự nhận
thức”: nó chứng thực một sự hiện diện siêu việt mà mọi người tìm thấy trong nội
tâm của mình, nhưng không sở hữu nó.
108. Đào luyên lương tâm là cuộc hành trình của toàn thể cuộc
đời, nơi người ta học cách nuôi dưỡng cùng những cảm tình như Chúa Giêsu Kitô,
qua việc áp dụng các tiêu chuẩn về các lựa chọn của mình và các chủ ý của các
hành động của mình (x. Pl 2: 5). Để đạt đến chiều kích
sâu thẳm nhất của lương tâm, theo quan điểm Kitô giáo, điều quan trọng là phải
hết sức chú ý đến nội tâm, là điều, trên hết, liên hệ đến thời gian im lặng,
chiêm niệm cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa, với sự nâng đỡ của việc thực hành
Bí Tích và các giáo huấn của Hội Thánh. Ngoài ra, người ta cần thực hành thói
quen tốt, được kiểm chứng trong việc xét mình: một thực tập mà trong đó không
chỉ là vấn đề xác định tội lỗi của mình mà còn nhận ra công việc của Thiên Chúa
trong kinh nghiệm hàng ngày của chính mình, trong các biến cố lịch sử và các
nền văn hóa nơi mình sống, trong chứng từ của rất nhiều người nam nữ đã đi
trước chúng ta hoặc những người đi cùng chúng ta với sự khôn ngoan của họ. Tất
cả điều này giúp phát triển trong đức minh trí (thận trọng), bằng cách nói lên
rõ ràng chiều hướng toàn cầu của cuộc đời với những lựa chọn cụ thể, với một sự
sáng suốt thanh thản về những hồng ân và giới hạn của mình. Chàng thanh niên
Solomon đã xin hồng ân này hơn bất cứ điều gì khác (x. 1 V 3:9).
109. Lương tâm của mọi tín hữu trong chiều kích cá nhân nhất
của nó luôn luôn gắn liền với lương tâm của Hội Thánh. Chỉ qua sự trung gian
của Hội Thánh và truyền thống đức tin của Hội Thánh mà chúng ta có thể đến gần
Dung Nhan đích thực của Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải trong Chúa Giêsu Kitô. Như
vậy, sự phân định tâm linh được tự trình bày như công việc chân thành của lương
tâm, trong quyết tâm của nó để biết điều tốt có thể thực hiện được, từ đó có
thể đưa ra quyết định có trách nhiệm, qua việc đem ra thi hành theo lý do thực
tiễn, và để cho mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu soi sáng mình.
110. Như một cuộc gặp gỡ với Chúa hiện diện trong sự mật thiết
của con tim, sự phân định có thể được hiểu như một hình thức cầu nguyện đích
thực. Đó là lý do tại sao nó đòi hỏi những thời gian hồi tâm thích hợp, cả
trong sự đều đặn của cuộc sống hàng ngày và trong những lúc đặc quyền, chẳng
hạn như các buổi tĩnh tâm, linh thao, hành hương, vv. Sự phân định nghiêm chỉnh
được nuôi dưỡng bằng tất cả các dịp gặp gỡ Chúa và đào sâu sự quen thuộc với
Người trong các thực tại khác nhau mà Người hiện diện: các Bí Tích, đặc biệt là
Bí Tích Thánh Thể và Hòa Giải, việc lắng nghe Người và suy niệm Lời Chúa, Lectio
divina trong cộng đồng, kinh nghiệm huynh đệ của đời sống cộng
đồng, việc gặp gỡ những người nghèo là những người mà Chúa Giêsu tự đồng hoá
với.
111. Tự mở lòng ra để lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần
đòi hỏi những chuẩn bị nội tâm cụ thể: trước hết là sự chú ý của con tim, được
ưu đãi bởi sự im lặng và khả năng trút bỏ mình, là điều cần khổ hạnh. Cũng cơ
bản không kém là sự sáng suốt, chấp nhận chính mình và ăn năn hối cải, hợp với
việc tự nguyện xắp đặt cuộc đời mình cho có trật tự, từ bỏ những gì bị coi là
trở ngại, hầu phục hồi sự tự do nội tâm cần thiết để thực hiện chỉ những lựa
chọn được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Một phân định tốt cũng đòi hỏi phải chú ý
đến những chuyển động của con tim, càng ngày càng trở nên có khả năng nhận ra
chúng và đặt tên cho chúng. Cuối cùng, sự phân định đòi hỏi lòng can đảm để dấn
thân vào cuộc chiến tâm linh, bởi vì sẽ không thiếu việc nổi lên những cám dỗ
và chướng ngại được Thần Dữ đặt trên con đường của chúng ta.
112. Các truyền thống tâm linh khác nhau đều đồng ý rằng một
phân định tốt cần một sự đối diện thường xuyên với một hướng dẫn tâm linh. Việc
tỏ bày cách chân thật và cá nhân kinh nghiệm của mình giúp làm cho nó thêm sáng
tỏ. Đồng thời, người bạn đồng hành đảm nhận một chức năng thiết yếu là đối diện
cách khách quan, qua việc trở nên người trung gian cho sự hiện diện từ mẫu của
Hội Thánh. Đây là một chức năng tế nhị, đã được bàn đến ở chương trước.
113. Sự phân định như một chiều kích trong cách sống của Chúa
Giêsu và các môn đệ của Người cho phép các tiến trình cụ thể phát xuất từ tính
bất định, để chịu trách nhiệm về các quyết định. Các tiến trình phân định không
thể kéo dài vô thời hạn, cả trong trường hợp những con đường cá nhân cùng những
con đường cộng đồng và tổ chức. Quyết định được theo sau bởi một giai đoạn cũng
hoàn toàn cơ bản của việc thực thi và xác minh trong cuộc sống hàng ngày. Do
đó, sẽ rất cần thiết để tiếp tục với một giai đoạn chăm chú lắng nghe những
rung cảm nội tâm, để biết rõ tiếng nói của Chúa Thánh Thần. Việc đối diện với
các thực tế cụ thể có tầm quan trọng đặc biệt theo quan điểm này. Đặc biệt là
các truyền thống tâm linh khác nhau cho thấy giá trị của đời sống huynh đệ và
phục vụ người nghèo như thời gian để thử nghiệm các quyết định được đưa ra và
là nơi mà một người được biểu lộ trọn vẹn.
114. “Họ mới bảo nhau: ‘Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải
thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?’ Ngay
lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu
đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: ‘Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã
hiện ra với ông Simôn.’ Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường
và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (Lc 24: 32-35).
Từ việc lắng nghe Lời Chúa, chúng ta đi qua niềm vui của
một cuộc gặp gỡ, là điều lấp đầy con tim, mang lại ý nghĩa cho cuộc đời và hít
thở một năng lượng mới. Các khuôn mặt được chiếu sáng và cuộc hành trình tìm
lại được ý nghĩa: đó là ánh sáng và sức mạnh của việc đáp trả ơn gọi, cũng biến
thành sứ vụ cho cộng đồng và toàn thế giới. Không chút chậm trễ và không sợ
hãi, các môn đệ đi trở lại bước đường để tái hợp cùng anh em và làm chứng về
cuộc gặp gỡ của họ với Chúa Giêsu Phục Sinh.
115. Tiếp tục với niềm hứng khởi Phục Sinh của câu chuyện
Emmau, hình ảnh của cô Maria Mađalena (x. Ga 20: 1-18)
soi sáng con đường mà Hội Thánh muốn đi qua với những người trẻ và cho những
người trẻ như thành quả của Thượng Hội Đồng này: một con đường phục sinh dẫn
đến việc công bố và sứ vụ. Bị chiếm ngự bởi một ao ước sâu xa về Chúa, bất chấp
bóng tối của màn đêm, Maria Mađalêna chạy đến cùng Thánh Phêrô và người môn đệ
khác; chuyển động của cô tác động trên các ông, lòng mộ đạo phụ nữ của cô nhìn
thấy trước con đường của các tông đồ và mở đường cho các ông. Từ tảng sáng hôm
ấy, ngày thứ nhất trong tuần, đã xảy ra một sự bất ngờ của cuộc gặp gỡ: Maria
đã tìm kiếm vì cô đã yêu, nhưng cô tìm thấy vì cô được yêu. Đấng Phục Sinh để
cho cô biết đến Mình bằng cách gọi tên cô và yêu cầu cô đừng giữ Người lại, vì
Thân Xác Phục Sinh của Người không phải là một kho báu để bị giữ lại, nhưng là
một Mầu Nhiệm để chia sẻ. Vì vậy, cô đã trở thành môn đệ truyền giáo đầu tiên,
Tông Đồ của các Tông Đồ. Được chữa lành các thương tích của cô (x. Lc 8:2)
và là chứng nhân của sự phục sinh, cô là hình ảnh của Hội Thánh trẻ trung mà
chúng ta mơ ước.
116. Say mê tìm kiếm sự thật, ngạc nhiên trước vẻ đẹp của Chúa,
khả năng chia sẻ và niềm vui của lời công bố cũng có mặt ngày hôm nay trong
trái tim của nhiều người trẻ, những chi thể sống động của Hội Thánh. Vì thế,
vấn đề không phải chỉ là làm cái gì “cho các em”, mà là sống trong sự hiệp
thông “với các em”, cùng nhau tiến bộ trong sự hiểu biết về Tin Mừng và trong
việc tìm kiếm những hình thức chân thực nhất để sống và để làm chứng. Việc tham
gia có trách nhiệm của những người trẻ vào đời sống Hội Thánh không phải là một
lựa chọn, nhưng là một đòi hỏi của cuộc sống của những người đã được rửa tội,
cũng như một yếu tố không thể thiếu được với cuộc sống của bất cứ cộng đồng
nào. Những khó khăn và yếu đuối của những người trẻ giúp chúng ta trở nên tốt
hơn, những câu hỏi của các em thách thức chúng ta, những nghi ngờ của các em
chất vấn chúng ta về phẩm chất của đức tin của mình. Những lời phê bình của các
em cũng cần thiết bởi vì, thông thường, qua những lời ấy, chúng ta lắng nghe
tiếng nói của Chúa, là Đấng đòi buộc chúng ta phải hoán cải tâm hồn và canh tân
các cơ cấu của mình.
117. Ở Thượng Hội Đồng, chúng tôi băn khoăn về những người trẻ,
khi nhớ đến không chỉ những người trẻ là phần tử của Hội Thánh và hoạt động
trong đó, mà còn tất cả những người trẻ có những quan niệm khác về cuộc đời,
tuyên xưng một đức tin khác, hoặc tuyên bố mình là những kẻ xa lạ với chân trời
tôn giáo. Tất cả những người trẻ, không trừ ai, đều ở trong trái tim của Thiên
Chúa, và do đó, trong trái tim của Hội Thánh. Nhưng chúng tôi phải thẳng thắn
nhìn nhận rằng lời khẳng định này vang vọng trên môi chúng tôi không phải lúc
nào cũng được diễn tả thực sự trong hành động mục vụ của chúng tôi: thường thì
chúng tôi vẫn bị giam hãm trong những vòng luẩn quẩn của mình, nơi mà tiếng nói
của các em không đến được, hoặc chúng tôi dấn thân vào những hoạt động không
mấy đòi hỏi nhưng làm hài lòng chúng tôi hơn, vì thế bóp nghẹt quan tâm mục vụ
lành mạnh này là điều khiến chúng tôi phải bước ra ngoài những gì chúng tôi cho
là an toàn. Tuy nhiên, Tin Mừng đòi buộc chúng tôi phải táo bạo và muốn làm
điều đó mà không cần phải suy đoán, không chủ trương dụ dỗ các em theo đạo,
nhưng bằng cách làm chứng về tình yêu của Chúa và tiếp cận tất cả những người
trẻ trên thế giới.
118. Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường nhắc nhở chúng ta rằng điều
này không thể thực hiện được nếu không có con đường hoán cải chân chính. Chúng
tôi ý thức rằng đó không chỉ là vấn đề tạo ra các hoạt động mới, và chúng tôi
không muốn viết vể “những kế hoạch tông đồ theo chủ nghĩa bành trướng, được
thiết kế tỉ mỉ và cẩn thận, điển hình cho những tướng lãnh bại trận”
(Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 96 ). Chúng tôi biết rằng để trở nên
đáng tin cậy, chúng tôi phải sống một cuộc cải cách của Hội Thánh, bao gồm việc
thanh tẩy tâm hồn và thay đổi phong cách. Hội Thánh phải thực sự để cho mình
được hình thành bởi Bí tích Thánh Thể, mà Hội Thánh cử hành như tột đỉnh và
nguồn sống của mình: hình dạng của một chiếc bánh được tạo thành từ nhiều dé
lúa và bị bẻ ra cho sự sống của thế gian. Thành quả của Thượng Hội Đồng này, sự
lựa chọn mà Chúa Thánh Thần đã gợi hứng cho chúng tôi qua việc lắng nghe và
định phân, là cùng đi với người trẻ, đến với tất cả các em, để làm chứng cho
tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta có thể mô tả tiến trình này bằng cách nói về tính
hội đồng của sứ vụ hay truyền giáo kiểu theo kiểu hội đồng: “Việc thực hiện một
Hội Thánh kiểu hội đồng là một giả định không thể thiếu được đối với một động
lực truyền giáo mới liên quan đến toàn thể Dân Thiên Chúa”.[5] Đây
là lời tiên tri của Công đồng Vaticanô II, mà chúng ta chưa bao giờ thừa nhận
theo chiều sâu của nó và khai triển theo ý nghĩa hàng ngày của nó, và Đức Giáo
Hoàng Phanxicô đã kéo sự chú ý của chúng ta vào đó bằng cách khẳng định: “Con
đường Thượng Hội Đồng là cách mà Thiên Chúa mong đợi từ Hội Thánh của thiên
niên kỷ thứ ba” (Phanxicô, Diễn từ kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội Đồng
Giám Mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Chúng tôi tin rằng lựa chọn
này, kết quả của cầu nguyện và chạm trán, sẽ cho phép Hội Thánh, nhờ ân sủng
của Thiên Chúa, được và tỏ hiện rõ ràng hơn như “tuổi trẻ của thế giới”.
119. Toàn thể Hội Thánh, khi chọn chăm sóc những người trẻ
trong Thượng Hội Đồng này, đã đưa ra một lựa chọn rất cụ thể: coi sứ vụ này như
một ưu tiên mục vụ của thời đại, mà chúng ta phải đầu tư thời gian, sức lực và
tài nguyên vào. Ngay khi bắt đầu cuộc hành trình chuẩn bị, các bạn trẻ đã bày
tỏ mong ước được tham gia, đánh giá cao và cảm thấy là những đồng nghệ nhân của
đời sống và sứ vụ của Hội Thánh. Trong Thượng Hội Đồng này, chúng tôi đã cảm
nghiệm rằng việc đồng trách nhiệm với các Kitô hữu trẻ cũng là một nguồn vui
sâu xa cho các Giám Mục. Trong kinh nghiệm này, chúng tôi nhận ra một hoa trái
của Chúa Thánh Thần là điều liên tục canh tân Hội Thánh và kêu gọi Hội Thánh
thực hành phương pháp hội đồng như một cách sống và hành động, khuyến khích sự
tham gia của tất cả những người đã được rửa tội và những người có thiện chí,
mỗi người theo lứa tuổi, hoàn cảnh sống và ơn gọi của mình. Trong Thượng Hội
Đồng này, chúng tôi đã nhận ra rằng tinh thần Giám Mục Đoàn là điều liên kết
các Giám Mục cùng với Phêrô và dưới Phêrô (cum Petro et sub Petro), trong
sự lo lắng cho Dân Thiên Chúa được kêu gọi để nói rõ về việc thực hành phương
pháp hội đồng ở tất cả các cấp và phong phú hoá nó .
120. Sự kết thúc của việc gom góp và tài liệu này, là điều gặt
hái các thành quả của nó, không kết thúc tiến trình của Thượng Hội Đồng, nhưng
chúng tạo thành một bước. Vì những điều kiện cụ thể, những khả năng thực sự và
những nhu cầu cấp bách của người trẻ rất khác nhau giữa các quốc gia và lục
địa, mặc dù cùng chia sẻ một đức tin, chúng tôi mời gọi các Hội Đồng Giám Mục
và các Hội Thánh địa phương tiếp tục cuộc hành trình này, bằng cách tham gia
vào các tiến trình phân định cộng đồng bao gồm cả những người không phải là
Giám Mục trong các cuộc thảo luận, cũng như Thượng Hội Đồng này đã làm. Cách
thế của những con đường Hội Thánh này phải bao gồm việc lắng nghe huynh đệ và
đối thoại giữa các thế hệ, nhằm mục đích phát triển các đường hướng mục vụ đặc
biệt chú ý đến những người trẻ bị đặt ra ngoài lề xã hội và những người trẻ ít
tiếp xúc hoặc chưa tiếp xúc với cộng đồng Hội Thánh. Chúng tôi ước mong rằng
các gia đình, các học viện tôn giáo, các hiệp hội, các phong trào và những
người trẻ cũng tham gia vào những cuộc hành trình này, để “ngọn lửa” của những
gì chúng tôi đã trải qua những ngày này được đang lan rộng.
121. 121.
Kinh nghiệm sống đã làm cho những tham dự viên Thượng Hội Đồng Giám Mục nhận
thức được tầm quan trọng của hình thức hội đồng của Hội Thánh với việc loan báo
và truyền thụ đức tin. Sự tham gia của giới trẻ đã giúp “đánh thức” hình thức
hội đồng, là một “chiều kích cấu thành của Hội Thánh.” […] Như thánh Gioan Kim
Khẩu nói, “Hội Thánh đồng nghĩa với Hội Đồng”, bởi vì Hội Thánh không là gì
khác mà chính là việc “cùng nhau bước đi” của đàn chiên trên con đường lịch sử
để gặp Đức Kitô” (Phanxicô, Diễn từ kỷ niệm 50 năm thành lập Thượng Hội Đồng
Giám Mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Tính hội đồng đặc trưng cho
cả đời sống lẫn sứ vụ của Hội Thánh, là Dân Chúa được tạo thành bởi những người
già, trẻ, nam, nữ thuộc mọi nền văn hóa và mọi giai cấp từ mọi chân trời, và là
Thân Thể Đức Kitô trong đó chúng ta là những chi thể của nhau, đặc biệt là
những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và bị chà đạp. Trong tiến trình trao đổi
và qua các chứng từ, Thượng Hội Đồng đã đưa ra một số đặc tính cơ bản của kiểu
hội đồng mà chúng ta được mời gọi đổi sang.
122. Chính trong những mối liên hệ, với Đức Kitô, với những
người khác, và trong cộng đồng, mà đức tin được truyền thụ. Theo quan điểm của
sứ vụ hôm nay, Hội Thánh được mời gọi có một khuôn mặt liên hệ, là khuôn mặt
đặt việc lắng nghe, chào đón, đối thoại và phân định chung ở trung tâm trong
một cuộc hành trình biến đổi đời sống của những người tham gia vào nó. “Một Hội
Thánh kiểu hội đồng là một Hội Thánh lắng nghe, với ý thức rằng việc lắng nghe
“còn hơn cả nghe”. Đó là một sự lắng nghe hỗ tương, trong đó mỗi người đều có
một điều gì để học. Các tín hữu giáo dân, Giám Mục Đoàn, Giám Mục Rôma, người
này lắng nghe người khác; và tất cả lắng nghe Chúa Thánh Thần, là “Thần Chân
Lý” (Ga 14:17), để biết những gì Ngài “nói với các Hội
Thánh” (Kh 2:7)” (Phanxicô, Diễn từ kỷ niệm 50 năm thành
lập Thượng Hội Đồng Giám Mục, ngày 17 tháng 10 năm 2015). Theo cách
này, Hội Thánh cho thấy mình như một “nhà tạm” nơi giữ Hòm Bia Giao Ứớc (x. Xh
25): một Hội Thánh năng động và đang chuyển động, cùng đồng hành trên đường,
được củng cố bởi nhiều đặc sủng và tác vụ. Nhờ thế Thiên Chúa hiện diện trong
thế giới này.
123. Một đặc điểm đặc trưng của kiểu Hội Thánh này là việc khai
triển các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban cho theo ơn gọi và vai trò của mỗi
phần tử, qua sự năng động của việc đồng trách nhiệm. Để khởi động nó, cần phải
có một sự hoán cải tâm hồn, cũng như sẵn sàng lắng nghe nhau, điều này giúp
chúng ta nghe nhau cách hiệu quả. Được tác động bởi tinh thần này, chúng ta sẽ
có thể tiến đến một Hội Thánh có tính tham gia và đồng trách nhiệm, có thể phát
triển sự phong phú của sự đa dạng hợp thành nó, đồng thời tri ân đón nhận sự
đóng góp của các tín hữu giáo dân, đặc biệt là giới trẻ và phụ nữ, của những
người nam nữ sống đời thánh hiến, và của các nhóm, các hiệp hội và các phong
trào. Không ai có thể bị loại trừ hoặc có thể tự ý đứng sang một bên. Đó là
cách để tránh chủ trương giáo sĩ trị, là chủ trương loại trừ nhiều người ra
khỏi các tiến trình quyết định, và chủ trương giáo sĩ hoá giáo dân, là chủ
trương giam hãm họ thay vì hướng họ về hướng dấn thân truyền giáo trên thế
gian.
Thượng Hội Đồng kêu gọi làm cho sự tham gia tích cực của
giới trẻ vào những nơi đồng trách nhiệm của các Hội Thánh địa phương có hiệu
quả và thông thường, cũng như trong các tổ chức của các Hội Đồng Giám Mục và
Hội Thánh hoàn vũ. Ngoài ra, Thượng Hội Đồng cũng kêu gọi tăng cường hoạt động
của Văn Phòng Giới Trẻ của Bộ Giáo Dân, Gia đình và Sự Sống, bao gồm việc thành
lập một tổ chức đại diện giới trẻ ở cấp quốc tế.
124. Kinh nghiệm “đi cùng” như Dân Thiên Chúa giúp hiểu rõ hơn
về ý nghĩa của quyền bính trong nhãn quan phục vụ. Các mục tử cần phải có khả
năng thúc đẩy sự cộng tác trong việc làm chứng nhân và sứ vụ, cũng như khả năng
đồng hành với các quy trình phân định cộng đồng để giải thích các dấu chỉ của
thời đại dưới ánh sáng đức tin và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, với sự
đóng góp của tất cả các phần tử trong cộng đồng, bắt đầu với những người đang ở
bên lề cộng đồng. Những người có trách nhiệm trong Hội Thánh, với những khả
năng này, cần được đào tạo cách cụ thể về phương pháp hội đồng. Từ quan điểm
này, nó có vẻ cổ võ việc soạn thảo những khóa đào tạo chung cho các giáo dân
trẻ, các tu sĩ trẻ và chủng sinh, đặc biệt liên quan đến các chủ đề như thực
thi quyền bính hoặc làm việc theo nhóm.
125. Đời sống theo kiểu hội đồng của Hội Thánh chủ yếu là hướng
về việc truyền giáo: đó là “dấu chỉ và công cụ của sự kết hợp mật thiết với
Thiên Chúa và hợp nhất của toàn thể nhân loại” (Lumen Gentium, số
1), cho đến ngày mà Thiên Chúa sẽ là “tất cả trong mọi sự” (1 Cr 15:28).
Những người trẻ, mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần, có thể giúp cho Hội Thánh đi
ra “từ ‘cái tôi’ được nghe theo cách cá nhân đến ‘cái chúng ta’ của Hội Thánh,
trong đó mỗi cái ‘cái tôi’, được mặc lấy Đức Kitô (x. Ga 2:20),
sống và đi cùng với anh chị em mình như một chủ thể có trách nhiệm và tích cực
trong sứ vụ duy nhất của Dân Thiên Chúa” (Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Thượng Hội
Đồng trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, ngày 2 tháng 3, 2018,
số 107). Đoạn văn này, dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần và dưới sự hướng
dẫn của các Mục Tử, phải đến với cộng đồng Kitô hữu, được mời gọi ra khỏi “cái
tôi” là điều tìm cách tự bảo vệ mình, để tiến tới việc xây dựng một “cái chúng
tôi” bao gồm toàn thể gia đình nhân loại và toàn thể các thụ tạo.
126. Động lực cơ bản này có những hiệu quả cụ thể trên cách
chúng ta hoàn thành sứ vụ với những người trẻ, là những người đòi hỏi phải bắt
đầu một cuộc đối thoại với tất cả những người nam nữ có thiện chí cách thẳng
thắn và không thỏa hiệp. Như thánh Phaolô VI đã khẳng định: “Hội Thánh là một
lời; Hội Thánh là một sứ điệp; Hội Thánh trở thành một cuộc đối thoại” (Ecclesiam
suam, số 67). Trong một thế giới được đánh dấu bởi sự đa dạng của
các dân tộc và sự đa dạng của các nền văn hóa, “đi cùng nhau” là nền tảng để
mang lại uy tín và hiệu quả cho các sáng kiến đoàn kết, hội nhập, cổ võ công lý và cho người ta thấy một
nền văn hóa gặp gỡ và vô vị lợi là gì.
Những người trẻ, chính vì các em tiếp xúc hàng ngày với
những người trẻ cùng tuổi, các giáo phái Kitô giáo khác, các tôn giáo khác, các
tín ngưỡng và các nền văn hóa khác, khuyến khích toàn thể cộng đồng Kitô hữu
sống theo tinh thần đại kết và đối thoại liên tôn . Điều này đòi hỏi sự can đảm
của tinh thần mạnh dạn để nói, và sự khiêm tốn
để lắng nghe, trong khi chấp nhận sự khổ hạnh, và đôi khi còn hàm ý tử vì đạo.
127. Việc thực hành đối thoại và tìm kiếm các giải pháp chung
là ưu tiên rõ ràng ở một thời đại mà các chế độ dân chủ đang trải qua một mức
độ tham gia thấp và bị ảnh hưởng không cân xứng bởi các nhóm tư lợi với nguy cơ
đưa đến giản lược hoá, kỹ thuật trị và độc đoán. Việc trung thành với Tin Mừng
sẽ hướng dẫn cuộc đối thoại này để tìm cách đưa ra một câu trả lời cho tiếng
kêu cứu kép của những người nghèo và của trái đất (x. Phanxicô, Laudato si’,
số 49), mà hướng về đó những người trẻ bày tỏ sự nhạy cảm đặc biệt, bằng cách
dấn thân vào các tiến trình xã hội được cảm hứng bởi những nguyên tắc của học
thuyết xã hội: phẩm giá con người, cùng đích phổ quát của của cải, lựa chọn ưu
tiên cho người nghèo, tính ưu tuyển của tình đoàn kết, sự quan tâm đến thuyết
bổ trợ, việc chăm sóc cho ngôi nhà chung. Không có ơn gọi nào trong Hội Thánh
có thể nằm ngoài động năng đi ra và đối thoại cộng đồng này, và đó là lý do tại
sao mọi nỗ lực đồng hành được mời gọi tự đo lường ở chân trời này, qua việc
dành sự chú ý đặc quyền cho những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất.
128. Sứ vụ truyền giáo cách hội đồng này không chỉ liên quan
đến Hội Thánh ở cấp phổ quát. Sự cần thiết phải đi cùng nhau, bằng cách làm
chứng nhân thực sự của tình huynh đệ trong một cuộc sống cộng đồng được canh
tân và hữu hình hơn, liên hệ trên hết đến tất cả các cộng đồng khác nhau. Do
đó, cần phải thức tỉnh, trong mỗi thực tại địa phương, ý thức rằng chúng ta là
Dân Thiên Chúa, được mời gọi để làm cho Tin Mừng nhập thể trong các môi trường
khác nhau và trong mọi hoàn cảnh thường nhật. Điều này đòi hỏi phải rời khỏi
luận lý của của việc uỷ quyền là luận lý điều kiện hoá rất nhiều hoạt động mục
vụ.
Chúng ta có thể lấy một thí dụ về các khóa giáo lý để
chuẩn bị cho các Bí Tích, một nhiệm vụ mà nhiều gia đình ủy quyền cho giáo xứ.
Não trạng này khiến cho trẻ em có nguy cơ không nhận ra rằng đức tin là
một thực tại soi sáng cuộc sống hàng ngày, mà như một tập hợp các khái niệm và
quy tắc thuộc về một môi trường tách biệt với đời sống của các em. Tuy nhiên,
điều cần thiết là phải đồng hành với các em: giáo xứ cần gia đình để làm cho
những người trẻ kinh nghiệm thực tại hàng ngày của đức tin; và ngược lại, gia
đình cần thừa tác vụ dạy giáo lý và cấu trúc của giáo xứ, để cống hiến cho trẻ
em một cái nhìn cơ bản hơn về Kitô giáo, ngõ hầu đưa các em vào cộng đồng và mở
ra cho các em những chân trời rộng lớn hơn. Vì thế, việc có những cấu trúc
không thì chưa đủ nếu người ta không phát triển các mối liên hệ trung thực bên
trong những cấu trúc ấy; thật ra, chính chất lượng của các mối liên hệ ấy mới
Phúc Âm hoá.
129. Giáo xứ nhất thiết phải tham gia vào tiến trình này, để áp
dụng nhiều hơn hình thức của một cộng đồng sinh hoa kết quả, để trở thành một
môi trường từ đó sứ vụ được toả sáng đến những người bé nhỏ. Trong giai đoạn
lịch sử cụ thể mà chúng ta đang sống, các dấu chỉ khác nhau xuất hiện và làm
chứng rằng, trong các trường hợp khác nhau, giáo xứ không đáp ứng được các nhu
cầu tâm linh cấp bách của những người nam nữ của thời đại chúng ta, đặc biệt là
vì một số yếu tố đã thay đổi hoàn toàn cách sống của con người. Thực ra, chúng
ta đang sống trong một nền văn hóa “vô biên giới”, được đánh dấu bằng mối liên
hệ không gian và thời gian mới, đặc biệt là vì việc truyền thông kỹ thuật số,
và được đặc trưng bởi một tính di động thường trưc. Trong bối cảnh này, một cái
nhìn về hành động của giáo xứ được phân định bởi chỉ các ranh giới lãnh thổ và
không có khả năng huy động các tín hữu, với các đề nghị đa dạng, đặc biệt là
cho giới trẻ, sẽ giam hãm giáo xứ trong một sự ù lỳ không thể chấp nhận được và
trong một vòng luẩn quẩn về mục vụ đáng lo ngại. Do đó, cần phải suy nghĩ lại
về giáo xứ theo quan điểm mục vụ, theo luận lý đồng trách nhiệm trong Hội Thánh
và nhiệt tình truyền giáo, qua việc phát triển sự hiệp lực trên lãnh thổ. Như
thế, giáo xứ có thể xuất hiện như một môi trường quan trọng, quan tâm đến đời
sống của những người trẻ.
130. Trong tinh thần cởi mở và chia sẻ nhiều hơn, điều quan
trọng là mỗi cộng đồng phải tự hỏi để kiểm chứng rằng liệu cách sống và việc sử
dụng các cấu trúc của mình có truyền đạt cho những người trẻ một chứng từ rõ
ràng về Tin Mừng hay không. Đời tư của nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ và Giám Mục
chắc chắn là chừng mực và phục vụ dân chúng; nhưng nó gần như vô hình đối với
hầu hết mọi người, đặc biệt là người trẻ. Nhiều người thấy rằng thế giới Hội
Thánh của chúng ta quá phức tạp để có thể hiểu được; chúng bị giữ ở một khoảng
cách rất xa vì các vai trò chúng ta nắm giữ và những mẫu rập khuôn đi kèm với
chúng. Chúng ta hãy làm sao để cho đời sống bình thường của mình, trong tất cả
các biểu hiện của nó, dễ tiếp cận hơn. Việc thực sự gần gũi với họ và chia sẻ
không gian và các hoạt động với họ tạo điều kiện cho một sự truyền thông chân
thật, không thành kiến. Đây là cách Chúa Giêsu đã công bố Nước Trời, và ngày
nay Thần Khí của Người cũng thúc đẩy chúng ta bằng cách này.
131. Một Hội Thánh kiểu hội đồng và truyền giáo biểu lộ qua các
cộng đồng địa phương bằng nhiều khuôn mặt. Ngay từ đầu, Hội Thánh đã không có
một hình thức cứng nhắc và tiêu chuẩn hóa, nhưng đã phát triển như một khối đa
diện của những người với các sự nhạy cảm, nguồn gốc và văn hóa khác nhau. Chính
bằng cách này, mà Hội Thánh đã cho thấy rằng nó mang trong những chiếc bình
bằng đất sét của bản tính nhân loại yếu đuối một kho báu vô song của sự sống
của Chúa Ba Ngôi. Sự hài hòa, vốn là một hồng ân của Chúa Thánh Thần, không xóa
bỏ sự khác biệt, nhưng làm cho chúng hoà hợp, tạo ra một sự phong phú về giao
hưởng. Cuộc gặp gỡ này giữa những người khác nhau trong một đức tin duy nhất là
điều kiện cơ bản cho việc canh tân mục vụ của các cộng đồng của chúng ta. Nó
ảnh hưởng đến việc rao giảng, cử hành và tác vụ, nghĩa là các lĩnh vực cơ bản
của việc chăm sóc mục vụ thông thường. Sự khôn ngoan phổ thông nói rằng “để
dưỡng dục một đứa bé, cần cả một làng”: nguyên tắc này cũng có giá trị ngày nay
cho tất cả mọi lĩnh vực chăm sóc mục vụ.
132. Việc hiện thực hoá có hiệu quả của một cộng đồng đa diện
cũng ảnh hưởng đến việc hội nhập vào lãnh thổ, việc mở ra cho kết cấu xã hội và
trong cuộc gặp gỡ với các cơ cấu dân sự. Chỉ có một cộng đồng hợp nhất và đa
dạng mới biết làm sao đề nghị một cách cởi mở và mang ánh sáng Tin Mừng đến cho
các môi trường của đời sống xã hội là những môi trường ngày nay tạo thành một
thách đố đối với chúng ta: vấn đề sinh môi, công ăn việc làm, nâng đỡ gia đình,
những người sống ngoài lề xã hội, đổi mới chính trị, sự đa nguyên về văn hóa và
tôn giáo, con đường dẫn đến công lý và hòa bình, thế giới kỹ thuật số. Điều này
đã được thực hiện trong các hội đoàn và các phong trào Hội Thánh. Những người
trẻ yêu cầu chúng ta không được một mình đối diện với các thách đố này và đối
thoại với tất cả mọi người, không phải để có được quyền lực, mà để đóng góp cho
công ích.
133. Việc công bố Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu chết và sống
lại, Đấng đã mặc khải Chúa Cha và ban Chúa Thánh Thần, là ơn gọi căn bản của
cộng đồng Kitô hữu. Việc mời gọi những người trẻ nhận ra các dấu chỉ của tình
yêu Thiên Chúa trong đời sống các em và khám phá ra cộng đồng như một nơi để
gặp gỡ Đức Kitô phải là một phần của việc công bố này. Công bố này cấu thành
nền tảng, luôn luôn được canh tân, của việc dạy giáo lý cho người trẻ và cung
cho nó một chất lượng của lời công bố ban đầu (kerygma) (x. Phanxicô, Evangelii
Gaudium, số 164). Phải luôn giữ vững việc quyết tâm cung cấp các lộ
trình liên tục và có hệ thống có thể được kết hợp với nhau: một hiểu biết sống
động về Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người, khả năng đọc kinh nghiệm của
chính các em và các biến cố lịch sử theo con mắt đức tin, một sự đồng hành
trong việc cầu nguyện và cử hành phụng vụ, việc giới thiệu về Lectio
divina và nâng đỡ việc làm nhân chứng cho đức ái và cổ võ công
lý, qua việc đề ra một linh đạo giới trẻ đích thực.
Các lộ trình dạy giáo lý cho thấy sự liên kết mật thiết
giữa đức tin và kinh nghiệm cụ thể hằng ngày, với thế giới của cảm xúc và các
mối liên hệ, với các niềm vui và các nỗi thất vọng mà chúng ta cảm nghiệm được
trong việc học hành (nghiên cứu) và làm việc; các lộ trình này biết cách hòa
nhập vào học thuyết xã hội của Hội Thánh; chúng được mở ra cho các ngôn ngữ của
thẩm mỹ, âm nhạc và các cách diễn tả nghệ thuật khác nhau, và các hình thức
truyền thông thuật số. Các bình diện thể lý, cảm xúc và phái tính phải được kể
đến, bởi vì có một sự đan kết chặt chẽ giữa việc giáo dục đức tin và giáo dục
về tình yêu. Tóm lại, đức tin phải được hiểu như một thực hành, nghĩa là, như
một hình thức sống trong thế gian.
Điều cấp bách là trong việc dạy giáo lý cho giới trẻ,
quyết tâm canh tân về ngôn ngữ và phương pháp không bao giờ được phép bỏ qua
một điều thiết yếu, là cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, đó chính là con tim của việc
dạy giáo lý. Các em đã đánh giá cao Youcat, DoCat và
các công cụ tương tự, chưa kể đến sách giáo lý xuất bản bởi các Hội đồng Giám
Mục khác nhau. Một cam kết mới cũng cần thiết cho các giáo lý viên, những người
thường còn trẻ trong việc phục vụ những người trẻ khác, gần như đồng bạn của
các em. Điều quan trọng là phải chăm lo một cách thích đáng việc đào luyện họ
và để đảm bảo rằng việc mục vụ của họ được công nhận nhiều hơn bởi cộng đồng.
134. Việc cử hành Thánh Lễ liên kết đời sống cộng đồng với tính
hội đồng của Hội Thánh. Đó là nơi truyền thụ đức tin và đào luyện cho sứ vụ, ở
đó chứng tỏ rõ ràng là cộng đồng sống nhờ ân sủng chứ không nhờ công việc của
tay mình. Chúng ta có thể khẳng định, bằng cách lặp lại những lời của truyền
thống Đông phương, mà phụng vụ là cuộc gặp gỡ với Người Tôi Tớ Chúa, Đấng chăm
sóc vết thương của chúng ta và chuẩn bị cho chúng ta bữa tiệc Vượt Qua, sai
chúng ta ra đi và làm như vậy cho anh chị em của mình. Vì thế, chúng ta phải
tái khẳng định rằng nghĩa vụ cử hành, với sự đơn giản cao quý và với việc tham
gia của các thừa tác vụ giáo dân khác nhau, là một thời điểm thiết yếu trong
việc hoán cải để truyền giáo của Hội Thánh. Những người trẻ đã cho thấy rằng
các em đánh giá cao và sống cách mãnh liệt những cuộc cử hành đích thực ở đó vẻ
đẹp của các dấu chỉ, sự chú ý đến bài giảng và sự tham gia tích cực của cộng
đồng thực sự nói về Thiên Chúa. Do đó, cần phải khuyến khích sự tham gia tích
cực này của những người trẻ, trong khi vẫn giữ được sự kinh ngạc trước Mầu Nhiệm;
để tìm cách tiếp cận những nhạy cảm về âm nhạc và nghệ thuật của các em, nhưng
cũng để giúp các em hiểu rằng phụng vụ không hoàn toàn là một cách diễn tả
chính mình, mà là một hành động của Đức Kitô và Hội Thánh. Điều cũng quan trọng
là đồng hành với những người trẻ để khám phá giá trị của việc chầu Thánh Thể
như là một phần mở rộng của cuộc cử hành, và như một nơi âm thầm chiêm niệm và
cầu nguyện.
135. Việc thực hành bí tích Hòa Giải cũng có tầm quan trọng rất
lớn trong các cuộc hành trình đức tin. Các bạn trẻ cần cảm thấy được yêu
thương, tha thứ, hòa giải và có một nỗi nhớ nhung thầm kín về vòng tay thương
xót của Chúa Cha. Đó là lý do tại sao điều cần thiết là các linh mục phải cực
kỳ sẵn sàng cho việc cử hành Bí Tích này. Các nghi thức sám hối cộng đồng giúp
những người trẻ đến gần hơn với việc xưng tội cá nhân và làm cho chiều kích Hội
Thánh của Bí Tích trở nên rõ ràng hơn.
136. Trong nhiều môi trường, việc đạo đức phổ thông đóng một
vai trò quan trọng trong việc giúp người trẻ tiếp cận với đời sống đức tin một
cách thiết thực, nhạy cảm và tức thì. Bằng cách khai triển ngôn ngữ của thân
thể và sự tham gia cách tình cảm, việc đạo đức phổ thông mang trong nó ước mong
được tiếp xúc với Thiên Chúa là Đấng cứu độ, thường qua trung gian của Mẹ Thiên
Chúa và các thánh.
Cuộc hành hương dành cho những người trẻ một kinh nghiệm
hành trình, là điều trở thành một phép ẩn dụ cho đời sống và Hội Thánh: chiêm
ngưỡng vẻ đẹp của thụ tạo và nghệ thuật, sống tình huynh đệ và kết hợp với Chúa
trong cầu nguyện tạo điều kiện tốt nhất cho việc phân định.
137. Những người trẻ có thể góp phần vào việc đổi mới phong
cách của các cộng đồng giáo xứ và xây dựng một cộng đồng huynh đệ gần gũi với
những người nghèo. Những người nghèo, những người trẻ bị loại trừ, những người
đau khổ nhất, có thể là nguồn gốc của một cuộc canh tân cộng đồng. Trong mọi
trường hợp, họ phải được công nhận là đối tượng của việc Phúc Âm hóa và giúp
chúng ta giải thoát mình khỏi thế giới tâm linh. Những người trẻ thường nhạy cảm
với chiều kích diakonia, phục vụ. Nhiều người trẻ đang
tích cực tham gia việc tình nguyện và tìm một con đường để gặp Chúa trong việc
phục vụ. Cho nên, sự cống hiến cho những em nhỏ nhất thực sự trở thành một việc
thực hành đức tin, ở đó người ta học được rằng tình yêu dành cho “những người
lạc mất” là cốt lõi của Tin Mừng và là nền tảng của toàn thể đời sống Kitô hữu.
Những người nghèo nàn, bé nhỏ, bệnh tật, già cả là thịt của Đức Kitô chịu đau
khổ: đó là lý do tại sao phục vụ họ là một cách để gặp Chúa, đồng thời, là nơi
đặc quyền để phân định ơn gọi cá nhân của Người. Trong một số bối cảnh, bắt
buộc phải có sự cởi mở đặc biệt với những người di cư và tị nạn. Với họ, chúng
ta phải nỗ lực đón tiếp, bảo vệ, khuyến khích và hòa nhập. Sự hòa nhập xã hội
của người nghèo thiết lập và cho thấy Hội Thánh như ngôi nhà bác ái.
138. Chỉ có một mục vụ có thể được đổi mới từ việc chú tâm cách
riêng đến các mối liên hệ và chất lượng của cộng đồng Kitô hữu, sẽ có ý nghĩa
và hấp dẫn đối với giới trẻ. Hội Thánh cũng sẽ có thể tự giới thiệu với các em
như một ngôi nhà chào đón, đặc trưng bởi bầu không khí gia đình, sự tin tưởng
và thân mật. Khát khao mãnh liệt về tình huynh đệ, đã xuất hiện rất nhiều lần
từ việc lắng nghe những người trẻ ở Thượng Hội Đồng, yêu cầu Hội Thánh trở
thành “mẹ của mọi người và là nhà của nhiều người” (Phanxicô, Evangelii
Gaudium, số 288): Nhiệm vụ mục vụ là nhận ra trong lịch sử tình mẫu
tử phổ quát của Hội Thánh, qua những cử chỉ cụ thể và tiên tri về việc đón chào
vui vẻ và hàng ngày làm cho nó trở thành ngôi nhà cho những người trẻ.
139. Ơn gọi là một điểm tựa mà quanh nó tất cả các chiều kích
của con người được hợp lại. Nguyên tắc này không những chỉ liên quan đến cá
nhân tín hữu, mà còn cả việc mục vụ nói chung. Do đó, điều rất quan trọng là
phải làm rõ rằng chỉ trong khía cạnh ơn gọi, tất cả việc mục vụ có thể tìm thấy
một nguyên tắc thống nhất, bởi vì đó là cả nguồn gốc lẫn sự hoàn thành của nó.
Do đó, trong các hành trình hoán cải thật sự về mục vụ hiện nay, vấn đề không
phải là tăng cường việc chăm sóc mục vụ của các ơn gọi như một khu vực riêng
biệt và độc lập, mà là thực hiện tất cả sự chăm sóc mục vụ của Hội Thánh bằng
cách trình bày một cách hiệu qủa sự đa dạng của ơn gọi. Thực ra, mục tiêu của
việc chăm sóc mục vụ là giúp mỗi người, qua một con đường phân định, đạt đến
“tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4: 13).
140. Ngay từ đầu cuộc hành trình của Thượng Hội Đồng, nhu cầu
mục vụ giới trẻ có đủ khả năng theo ơn gọi được đặt ra.[6] Theo
cách này, hai yếu tố thiết yếu của việc chăm sóc mục vụ cho các thế hệ trẻ xuất
hiện: đó phải là một mục vụ “của những người trẻ” bởi vì những người nhận nó ở
tuổi này là giới trẻ; và nó phải “thuộc về ơn gọi” vì tuổi trẻ là mùa đặc quyền
của sự lựa chọn cho đời sống và đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. “Bản chất ơn
gọi” của mục vụ giới trẻ không nên hiểu theo một cách độc quyền, mà một cách
sâu sắc. Chúa gọi mọi lứa tuổi của cuộc đời, từ khi còn trong bụng mẹ đến tuổi
già, nhưng tuổi trẻ là thời điểm đặc quyền của việc lắng nghe, sẵn sàng và chấp
nhận Thánh Ý Thiên Chúa.
Thượng Hội Đồng đưa ra đề nghị rằng mỗi Hội Đồng Giám Mục
Quốc gia thiết lập một “Hướng Dẫn Mục Vụ Giới Trẻ”, từ nhãn quan ơn gọi, để
giúp những vị có trách nhiệm trong giáo phận và các người phụ trách mục vụ địa
phương phát triển việc đào tạo của họ và hành động của họ với và cho giới trẻ .
141. Trong khi nhận ra sự cần thiết phải lập chương trình theo
nghành mục vụ để tránh việc làm theo hứng, các Nghị Phụ đã bày tỏ nỗi băn khoăn
của các ngài trong một số trường hợp vì sự rời rạc của việc chăm sóc mục vụ của
Hội Thánh. Cụ thể là các ngài đề cập đến các hoạt động mục vụ khác nhau liên
quan đến giới trẻ: chăm sóc mục vụ của giới trẻ, gia đình, ơn gọi, trường học
và đại học, xã hội, văn hóa, từ thiện, thời gian rảnh rỗi, v.v. Sự gia tăng của
các lĩnh vực rất chuyên môn, nhưng đôi khi là bị đóng khung, ngăn chặn những đề
nghị về Kitô giáo có ý nghĩa hơn. Trong một thế giới rời rạc tạo ra sự phân tán
và việc gia tăng của những nhóm liên kết, những người trẻ cần được giúp đỡ để
hợp nhất cuộc sống của các em, bằng cách đào sâu những kinh nghiệm hàng ngày và
phân định chúng. Nếu đây là ưu tiên, thì cần phải có sự phối hợp và hội nhập
nhiều hơn nữa giữa các lĩnh vực khác nhau, bằng cách chuyển từ công việc theo
“nghành” sang công việc theo “kế hoạch”.
142. Trong Thượng Hội Đồng, đã có nhiều dịp nói về về Ngày Giới
trẻ Thế giới và nhiều biến cố khác được diễn ra ở cấp lục địa, quốc gia và giáo
phận, cùng với các biến cố được tổ chức bởi các hội đoàn, các phong trào, các
dòng tu và các chủ thể khác thuộc về Hội Thánh. Những giây phút gặp gỡ và chia
sẻ này được đánh giá cao ở hầu hết mọi nơi, bởi vì chúng mang lại cơ hội để
bước đi trong sự năng động của một cuộc hành hương, để cảm nghiệm tình huynh đệ
với mọi người, để cùng nhau hạnh phúc sống đức tin và lớn lên trong việc thuộc
về Hội Thánh. Đối với nhiều người trẻ, chúng tạo thành một kinh nghiệm về việc
biến hình, trong đó các em được thu hút bởi vẻ đẹp của Dung Nhan Chúa và đưa ra
những lựa chọn quan trọng trong cuộc đời. Những hoa quả tốt nhất của những kinh
nghiệm này được thu thập trong cuộc sống hàng ngày. Vì thế, việc phóng dự và
nhận ra những buổi triệu tập này như những bước quan trọng trong một tiến trình
nhân đức lớn lao hơn trở nên rất quan trọng.
143. Không gian cụ thể dành riêng cho giới trẻ của cộng đồng
Kitô hữu, như nững sự bảo trợ, trung tâm thanh thiếu niên và các cơ cấu tương
tự khác, diễn tả sự say mê về giáo dục của Hội Thánh. Chúng đến bằng nhiều
cách, nhưng chúng vẫn là những môi trường đặc quyền mà ở đó Hội Thánh trở thành
một ngôi nhà đầy yêu thương đối với các thiếu niên và thanh niên, là những
người có thể khám phá ra tài năng của mình và cung cấp chúng cho tha nhân trong
việc phục vụ. Chúng truyền tải một di sản giáo dục phong phú, được chia sẻ trên
quy mô lớn, để nâng đỡ các gia đình và chính xã hội dân sự.
Tuy nhiên, trong sự năng động của một “Hội Thánh đi ra”,
cần phải nghĩ đến một cuộc đổi mới sáng tạo và linh hoạt về những thực tại này,
bằng cách chuyển từ ý tưởng về các trung tâm cố định, ở đó những người trẻ có
thể đến, sang ý tưởng về các chủ thể mục vụ đang chuyển động hướng vể giới trẻ,
nghĩa là những chủ thể có khả năng gặp gỡ các em ở những nơi bình thường của
đời sống, như trường học, môi trường kỹ thuật số, những vùng ngoại vi của đời
sống, thế giới nông thôn và việc làm, diễn tả về âm nhạc và nghệ thuật, vv, do
đó tạo ra một loại việc tông đồ mới năng động và tích cực hơn.
144. Phương pháp hội đồng là phương pháp mà nhờ nó Hội Thánh có
thể đối diện với những thách đố cũ và mới, bằng cách thu thập và chia sẻ những
hồng ân của tất cả các phần tử của mình, bắt đầu từ những người trẻ. Nhờ công
việc của Thượng Hội Đồng, trong phần thứ nhất của Tài Liệu này,
chúng tôi đã đề cập đến một số môi trường, trong đó có việc phải khẩn cấp khởi
động hoặc canh tân động lực của Hội Thánh để hoàn thành sứ vụ mà Đức Kitô đã
trao phó, và ở đây chúng tôi tìm cách đối diện với chúng một cách cụ thể hơn.
145. Môi trường kỹ thuật số là một thách đố đối với Hội Thánh ở
nhiều mức độ; do đó, điều không thể thiếu được là đào sâu sự hiểu biết về những
động lực của nó và phạm vi của nó theo quan điểm nhân học và đạo đức. Nó đòi
hỏi không những chỉ sống trong đó và phát huy các tiềm năng của nó để giao tiếp
theo nhãn quan rao giảng về Kitô giáo, mà còn để thấm nhuần các nền văn hóa và
các động lực của nó đối với Tin Mừng. Một số thí nghiệm theo hướng này đã được
tiến hành và cần được khuyến khích, đào sâu và chia sẻ. Ưu tiên mà nhiều người
gán cho hình ảnh như một phương tiện giao tiếp sẽ không thể không làm cho
người ta thắc mắc về phương thức truyền thụ đức tin dựa trên việc lắng nghe
Lời Chúa và đọc Thánh Kinh. Các Kitô hữu trẻ, được sinh ra trong môi trường kỹ
thuật số này cũng như những người trẻ cùng trang lứa của các em, tìm thấy ở đây
một sứ vụ đích thực, mà một số em đã tham gia vào. Chính những người trẻ cũng
yêu cầu được đồng hành trong một sự phân định các phương thức mang lại sự sống,
trong một môi trường được thuật số hóa cao hiện nay, để giúp các em nắm bắt các
cơ hội trong khi cách tránh xa các rủi ro.
146. Thượng Hội Đồng hy vọng rằng các văn phòng và các tổ chức
về văn hóa và Phúc Âm hoá kỹ thuật số sẽ được thiết lập trong Hội Thánh, ở các
cấp độ thích hợp, với sự đóng góp không thể thiếu được của những người trẻ,
khuyến khích hành động và suy tư của Hội Thánh trong môi trường này. Trong số
các chức năng của chúng, ngoài việc thúc đẩy trao đổi và phổ biến các thực hành
tốt ở cấp độ cá nhân và cộng đồng, cùng phát triển những công cụ phù hợp cho
giáo dục kỹ thuật số và Phúc Âm hoá, chúng cũng có thể điều hành các hệ thống
chứng thực các trang web Công giáo, để hạn chế sự lan truyền những tin tức giả liên
quan đến Hội Thánh, hoặc tìm cách thuyết phục các cơ quan công quyền cổ võ các
chính sách và công cụ đặc biệt hơn để bảo vệ các trẻ vị thành niên trên mạng
Internet.
147. Nhiều người di cư là những người trẻ. Việc lan rộng cách
phổ quát của Hội Thánh mang lại một cơ hội lớn lao để đối thoại giữa các cộng
đồng nơi mà họ bỏ đi và các cộng đồng nơi mà họ đến, bằng cách giúp vượt qua
những sợ hãi cùng ngờ vực và củng cố những mối dây liên kết mà việc di dân có
thể làm đứt. “Đón nhận, bảo vệ, thăng tiến và hòa nhập”, bốn động từ mà Đức
Giáo Hoàng Phanxicô tóm tắt các cách hành động có lợi cho người di cư là các
động từ của Thượng Hội Đồng. Để đưa chúng ra thực hành đòi hỏi phải có hành
động của Hội Thánh, ở tất cả các cấp, và liên quan đến tất cả các phần tử của
cộng đồng Kitô hữu. Về phần họ, những người di cư, được đồng hành cách thích
hợp, sẽ có thể cung cấp các nguồn lực tinh thần, mục vụ và truyền giáo cho các
cộng đồng đón nhận họ. Cam kết văn hóa và chính trị cũng đặc biệt quan trọng;
nó phải được thực hiện qua các cấu trúc thích hợp để chống lại sự lan tràn của
việc bài ngoại, kỳ thị chủng tộc và từ chối người di cư. Các nguồn lực của Hội
Thánh Công Giáo là một yếu tố quan trọng trong cuộc chiến chống lại nạn buôn
người, vì sự cam kết dấn thân cùng hành động của nhiều nữ tu được nhấn mạnh rõ
ràng. Vai trò của Nhóm Santa Marta, liên kết các nhà lãnh
đạo tôn giáo và cơ quan bảo vệ trật tự công cộng (law enforcement), là nhóm rất
quan trọng và đại diện cho một thực hành tốt có sức gợi hứng. Đừng quên các nỗ
lực được thực hiện để đảm bảo quyền được ở lại đất nước của những người không
muốn di cư nhưng bị bắt buộc phải làm như vậy, hoặc hỗ trợ cho các cộng đồng
Kitô hữu mà việc di dân đe dọa sự sống còn của chúng.
148. Một Hội Thánh tìm cách sống theo kiểu hội đồng sẽ không
thể không suy nghĩ về tình trạng và vai trò của phụ nữ trong đó cũng như trong
xã hội. Các thanh niên nam nữ đang đòi hỏi điều ấy. Những suy tư được phát
triển cần phải được đem ra thực hành qua một việc hoán cải về văn hóa cách can
đảm và thay đổi trong việc thực hành mục vụ hàng ngày. Một lĩnh vực đặc biệt
quan trọng trong vấn đề này là sự hiện diện của các phụ nữ trong các cơ quan
Hội Thánh ở tất cả các cấp, đặc biệt là về chức năng trách nhiệm và sự tham gia
của phụ nữ trong việc đưa ra quyết định của Hội Thánh, trong khi tôn trọng vai
trò của thừa tác vụ có chức thánh. Đó là một nghĩa vụ của công lý, được gợi
hứng từ cách Chúa Giêsu nói đến những người nam nữ thời ấy, và tầm quan trọng
của vai trò của một số nhân vật phụ nữ trong Thánh Kinh, trong lịch sử cứu độ
và trong đời sống của Hội Thánh.
149. Trong bối cảnh văn hóa hiện nay, Hội Thánh đang đấu tranh
để truyền lại vẻ đẹp của cái nhìn Kitô giáo về thân xác và phái tính, như được
phản ánh trong Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền của những Giáo Hoàng gần
đây. Như vậy, việc tìm kiếm các phương tiện phù hợp hơn có vẻ là điều khẩn cấp
trong việc cụ thể hóa sự phát triển của các con đường đào luyện mới. Chúng ta
phải cung cấp cho những người trẻ một nhân học về ảnh hưởng và phái tính cũng
có khả năng mang lại giá trị đích thực cho đức trong sạch, bằng cách cho thấy
rằng, với sự khôn ngoan cách sư phạm, ý nghĩa chân thực nhất của nó với sự phát
triển của con người trong tất cả các tình trạng sống. Đó là vấn đề tập trung
vào việc thông cảm lắng nghe, đồng hành và phân định, trong giới hạn được chỉ
định bởi Huấn Quyền gần đây. Với điều này, cần phải cẩn thận đào tạo các tác
nhân mục vụ, là những người đáng tin cậy, bắt đầu từ sự trưởng thành về các
chiều kích tình cảm và tình dục của chính họ.
150. Có những câu hỏi về thân xác, tình cảm và tình dục cần một
nghiên cứu tỷ mỉ về nhân học rất sâu xa, về một chương trình thần học và mục
vụ, phải được thực hiện theo các phương thức đầy đủ và ở mức độ thích hợp nhất
(từ địa phương đến hoàn vũ). Trong số này, có sự khác biệt và hài hòa giữa căn
tính nam giới và nữ giới và sự khác biệt giữa các khuynh hướng tình dục. Về vấn
đề này, Thượng Hội Đồng khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương mọi người và Hội
Thánh cũng làm như vậy, qua việc canh tân cam kết chống lại mọi sự kỳ thị và
bạo lực liên quan đến khuynh hướng tình dục. Hội Thánh cũng tái khẳng định tầm
quan trọng quyết định về nhân học của sự khác biệt và tương hỗ giữa phái nam và
phái nữ, và coi sự khác biệt này như bị giảm bớt khi xác định căn tính con
ngưởi chỉ theo “khuynh hướng tính dục” của họ. (Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Thư gửi các
Giám Mục của Hội Thánh Công Giáo về việc chăm sóc mục vụ của người đồng tính,
ngày 1 tháng 10 năm 1986, số 16).
Trong nhiều cộng đồng Kitô hữu, đã có những con đường đồng
hành trong đức tin của những người đồng tính: Thượng Hội Đồng khuyên nhủ nên
khuyến khích những con đường này. Trên những con đường ấy, mọi người được giúp
đọc lại lịch sử của họ, gắn bó với ơn gọi rửa tội của họ với tinh thần tự do
và trách nhiệm, nhận ra ước muốn thuộc về và đóng góp cho đời sống cộng đồng,
hầu nhận ra những hình thức tốt nhất cho cuộc đời để hiện thực nó. Theo cách
này, cần phải cho phép mỗi người trẻ, không trừ ai, kết hợp càng ngày càng
nhiều hơn chiều kích tính dục vào nhân cách của các em, bằng cách phát triển về
chất lượng các mối liên hệ và hướng tới món quà tự hiến.
151. Hội Thánh cam kết thúc đẩy một đời sống xã hội, kinh tế và
chính trị dưới biểu hiện công lý, đoàn kết và hòa bình, như những người trẻ
mạnh mẽ đòi hỏi. Điều ấy cần có sự can đảm để trở thành tiếng nói của những
người không có tiếng nói giữa các nhà lãnh đạo thế giới, tố cáo tham nhũng,
chiến tranh, buôn bán vũ khí, buôn bán ma túy và khai thác bừa bãi tài nguyên
thiên nhiên, và mời những người có trách nhiệm về chúng hoán cải. Từ cái nhìn
tổng thể, điều này không thể tách rời khỏi cam kết bao gồm những người dễ bị
tổn thương nhất, qua những con đường cho phép họ, không những chỉ tìm ra câu
trả lời cho các nhu cầu của họ, mà còn góp phần vào việc xây dựng xã hội.
152. Nhận thức rằng “công việc là một chiều kích cơ bản của đời
sống con người trên trái đất” (Th. Gioan Phalô II, Laborem
exercens, số 4) và việc thất nghiệp là điều nhục nhã đối với nhiều
người trẻ, Thượng Hội Đồng khuyến nghị rằng các Hội Thánh địa phương thúc đẩy
và hỗ trợ việc hội nhập của những người trẻ trên thế giới này, đặc biệt bằng
cách nâng đỡ các sáng kiến chuyên
nghiệp cho những người trẻ. Kinh nghiệm về vấn đề này có sẵn cách rộng rãi
trong nhiều Hội Thánh địa phương và cần được nâng đỡ và củng cố.
153. Việc cổ võ công lý cũng liên quan đến việc quản lý tài sản
của Hội Thánh. Những người trẻ cảm thấy thoải mái trong một Hội Thánh mà ở đó
việc kinh tế và tài chính được thực thi trong sự minh bạch và chặt chẽ. Những
lựa chọn can đảm theo quan điểm phát triển vững bền, như được đề cập bởi Thông
Điệp Laudato si’, là điều cần thiết, vì sự thiếu tôn trọng môi
trường tạo ra các hình thức nghèo khổ mới, trong đó những người trẻ là những
nạn nhân đầu tiên. Các hệ thống cũng có thể được thay đổi bằng cách vạch ra
rằng chúng ta có thể sống một cách khác về mặt kinh tế và tài chính. Những
người trẻ đang thúc đẩy Hội Thánh trở nên ngôn sứ trong lĩnh vực này, bằng lời
nói nhưng trên hết qua các lựa chọn cho thấy một nền kinh tế thân thiện với con
người và môi trường là khả thi. Với các em, chúng ta có thể làm điều ấy.
154. Liên quan đến các vấn đề sinh môi, điều quan trọng là đưa
ra các hướng dẫn cho các ứng dụng thực tế của Thông Điệp Laudato si’ trong
các thực tại của Hội Thánh. Nhiều can thiệp nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
việc cung cấp cho những người trẻ môt đào tạo về tham gia chính trị xã hội và
học thuyết xã hội của Hội Thánh, là đại diện cho một nguồn lực tuyệt vời trong
vấn đề này. Những người trẻ tham gia chính trị phải được nâng đỡ và khuyến
khích làm việc nhằm thay đổi thực sự những cấu trúc bất công của xã hội.
155. Đa nguyên văn hóa và tôn giáo là một thực tại đang phát
triển trong đời sống xã hội của những người trẻ. Các Kitô hữu trẻ cung cấp một
bằng chứng đẹp về Tin Mừng, khi các em sống đức tin theo cách biến đổi cuộc sống
và hành động hàng ngày của các em. Các em được mời gọi mở lòng ra với những
người trẻ từ các truyền thống tôn giáo và tâm linh khác, và duy trì những mối
liên hệ đích thực với họ, là những mối liên hệ thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau
và hàn gắn những định kiến và
thành kiến. Do đó, các em là những người tiên phong của một hình thức đối thoại
liên tôn và liên văn hóa mới, giúp giải phóng xã hội của chúng ta khỏi sự loại
trừ, chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa cơ bản và thao túng tôn giáo cho các mục
đích giáo phái hoặc dân túy. Các nhân chứng của Tin Mừng, những người trẻ này,
trở thành, cùng với những người trẻ cùng lứa tuổi của các em, những người tạo
ra một quyền công dân bao gồm sự đa dạng và một cam kết tôn giáo có trách nhiệm
xã hội và thăng tiến các mối liên hệ xã hội và hòa bình.
Gần đây, theo đề nghị của những người trẻ, các sáng kiến đã được đưa ra hầu tạo cơ hội trải nghiệm sự chung sống
giữa những người thuộc các tôn giáo và nền văn hóa khác nhau, để mọi người,
trong một bầu không khí vui vẻ và tôn trọng các niềm tin của những người khác,
thành những diễn viên của một cam kết chung và chia sẻ trong xã hội.
156. Liên quan đến con đường hòa giải giữa tất cả các Kitô hữu,
Thượng Hội Đồng rất biết ơn ước mong phát triển sự hiệp nhất giữa các cộng đồng
Kitô hữu đã bị phân chia của nhiều người trẻ. Qua việc tham gia vào lĩnh vực
này, rất thường những người trẻ đào sâu nguồn gốc đức tin của các em và cảm
nghiệm một sự cởi mở thực sự với những gì người khác có thể cống hiến. Các em
hiểu rằng Đức Kitô liên kết chúng ta với nhau, ngay cả khi vẫn còn một số khác
biệt. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khẳng định nhân dịp viếng thăm Thượng Phụ
Giáo Chủ Barthôlômêô năm 2014, chính những người trẻ “ngày nay đang yêu cầu
chúng ta thực hiện các bước để tiến đến hiệp thông trọn vẹn. Và điều này không
phải vì các em bỏ qua tầm quan trọng của các khác biệt, là những gì tách biệt
chúng ta, mà bởi vì các em biết nhìn xa hơn, các em có thể đón nhận những điều
thiết yếu đã kết hợp chúng ta “(Phanxicô, Bài Giảng dịp Phụng Vụ Thánh,
Nhà thờ chánh toà Thượng Phụ Thánh George, Istanbul, ngày 30 tháng
11 năm 2014).
157. Điều kiện hiện tại được đặc trưng bởi sự phức tạp càng
ngày càng gia tăng của các hiện tượng xã hội và kinh nghiệm cá nhân. Trong cuộc
sống cụ thể, những thay đổi trong hành động ảnh hưởng lẫn nhau và không thể
được đối đầu với một cái nhìn chọn lọc. Trong thế giới thật sự, mọi sự đều liên
kết với nhau: đời sống gia đình và cam kết nghề nghiệp, việc sử dụng các kỹ
thuật và cách thử nghiệm cộng đồng, bảo vệ phôi thai và của người di cư. Sự cụ
thể của cuộc đời nói với chúng ta về một cái nhìn nhân học về con người như
toàn bộ và về một cách nhận biết không tách rời nhưng nắm bắt các mối dây liên
hệ, học từ kinh nghiệm bằng cách đọc lại nó dưới ánh sáng Lời Chúa, được cảm
hứng bởi những chứng từ gương mẫu hơn là những mô hình trừu tượng. Điều này đòi
hỏi một cách tiếp cận đào tạo mới có chiều hướng tổng hợp các quan điểm, giúp
hiểu rõ các vấn đề đan kết với nhau và biết cách hợp nhất những chiều kích khác
nhau của con người. Tiếp cận này rất hòa hợp với cái nhìn Kitô giáo, là cái
nhìn chiêm niệm trong việc Nhập Thể của Chúa Con, cuộc gặp gỡ bất khả phân ly
của Thiên Chúa và nhân loại, đất và trời.
158. Trong Thượng Hội Đồng, các Nghị Phụ đặc biệt chú trọng
đến nhiệm vụ quyết định và không thể thay thế được của các trường dạy nghề,
trường học và đại học, đặc biệt bởi vì đó là những nơi mà hầu hết người trẻ
dành nhiều thì giờ của các em. Ở một số nơi trên thế giới, việc giáo dục căn
bản là vấn đề trước hết và quan trọng nhất mà giới trẻ trình bày cho Hội Thánh.
Vì thế, đối với cộng đồng Kitô hữu, cần phải bày tỏ sự hiện diện hùng hồn trong
những môi trường này, với các nhà giáo có khả năng, các nhà uyên uý quan trọng
và một cam kết dấn thân văn hóa trọn vẹn.
Các học viện giáo dục Công giáo xứng đáng được đặc biệt
xét đến bởi vì chúng diễn đạt mối quan tâm của Hội Thánh đối với việc đào luyện
không thể thiếu được của giới trẻ. Đây là những không gian quý giá cho cuộc gặp
gỡ của Tin Mừng với nền văn hóa của một dân tộc và cho sự phát triển của việc
nghiên cứu. Chúng được mời gọi đề ra một mô hình đào luyện có khả năng
đối thoại giữa đức tin với các vấn đề của thế giới đương thời, với những quan
điểm nhân học khác nhau, với những thách đố của khoa học và kỹ thuật, với những
thay đổi của các tục lệ xã hội và với cam kết dấn thân cho công lý.
Trong những môi trường này, phải đặc biệt khuyến khích sự
sáng tạo của những người trẻ trong các lĩnh vực khoa học và nghệ thuật, thi ca
và văn học, âm nhạc và thể thao, kỹ thuật số và các phương tiện truyền thông,
vv. Bằng cách này, những người trẻ sẽ khám phá ra các tài năng của mình và
chuẩn bị các tài năng ấy đề cống hiến cho xã hội vì lợi ích của tất cả mọi
người.
159. Tông Hiến Veritatis gaudium gần đây về các
trường đại học và các phân khoa về Hội Thánh đã đề ra một số tiêu chuẩn cơ bản
cho một dự án đào tạo phù hợp với những thách đố hiện nay: việc suy niệm về tâm
linh, trí tuệ và hiện hữu của Lời Công Bố ban đầu (kerygma), cuộc đối thoại rất
rộng rãi và rất cởi mở, tính xuyên bộ môn được thực thi với sự khôn ngoan và
sáng tạo và nhu cầu cấp thiết để “kết thành mạng lưới” (x. Veritatis
gaudium, số 4, d). Những nguyên tắc này có thể gợi hứng cho tất cả
các môi trường giáo dục và đào tạo; việc chấp nhận và thực hiện chúng sẽ đặc
biệt có ích cho việc đào tạo các nhà giáo dục mới, giúp họ mở ra một cái nhìn
toàn diện, có khả năng kết hợp kinh nghiệm với chân lý. Các Giáo Hoàng Học Viện
và các trung tâm nghiên cứu đóng một vai trò cơ bản ở các cấp độ toàn cầu, lục
địa và quốc gia. Việc kiểm chứng định kỳ, đòi hỏi trình độ và sự liên tục canh
tân của các tổ chức này thể hiện một sự đầu tư chiến lược lớn vì lợi ích của
giới trẻ và toàn thể Hội Thánh.
160. Con đường của Thượng Hội Đồng đã nhấn mạnh đến ước muốn
càng ngày càng gia tăng để hình thành và nhường chỗ cho vai trò của những người
trẻ. Hiển nhiên là việc tông đồ của những người trẻ cho những người trẻ khác
không thể tuỳ hứng, nhưng phải là kết quả của một lộ trình đào luyện nghiêm
chỉnh và phù hợp: làm sao để đi theo tiến trình này? Làm sao để cung cấp các
công cụ tốt hơn cho những người trẻ để các em trở thành những chứng nhân đích
thực của Tin Mừng? Những câu hỏi này cũng trùng hợp với ước muốn hiểu biết đức
tin của mình hơn của nhiều người trẻ: khám phá nguồn gốc Thánh Kinh của nó,
hiểu sự phát triển lịch sử của các giáo thuyết, ý nghĩa của các tín điều và sự
phong phú của phụng vụ. Điều này cho phép những người trẻ suy nghĩ về các vấn
đề hiện tại trong đó đức tin bị thử thách, để biết cách đưa ra lý do cho niềm
hy vọng trong các em (1 Pr 3:15).
Đó là lý do tại sao Thượng Hội Đồng đề nghị nâng cao kinh
nghiệm truyền giáo của giới trẻ qua việc thành lập các trung tâm đào tạo truyền
giáo cho giới trẻ và các cặp vợ chồng trẻ, qua việc áp dụng một kinh nghiệm
toàn bộ sẽ kết thúc bằng việc sai đi làm sứ vụ. Đã có những sáng kiến thuộc loại này ở các lãnh thổ khác nhau, nhưng mỗi Hội
Đồng Giám Mục được yêu cầu nghiên cứu khả năng đưa chúng vào hoàn cảnh tương
ứng.
161. Rất thường xuyên, trong phòng họp của Thượng Hội Đồng, một
lời kêu gọi khẩn cấp đã được đưa ra về việc đầu tư một cách quảng đại, đồng
thời, say mê về giáo dục, một thời gian dài và nguồn tài nguyên kinh tế. Bằng
cách tập hợp các can thiệp và mong muốn khác nhau xuất hiện trong các cuộc bàn
luận của Thượng Hội Đồng, ngoài việc lắng nghe những kinh nghiệm của những
người có khả năng đã được thực hiện, Thượng Hội Đồng đề nghị với niềm xác tín
cùng tất cả các Hội Thánh, các dòng tu, các phong trào, các hội đoàn và các tác
nhân khác của Hội Thánh, là cung cấp cho những người trẻ một kinh nghiệm về
đồng hành trong cái nhìn phân định. Kinh nghiệm này, mà thời lượng phải được
xác định theo hoàn cảnh và cơ hội, có thể được mô tả như thời gian
dành cho sự trưởng thành của đời sống Kitô hữu trưởng thành. Nó
phải cung cấp một sự cách biệt dài tách xa các mối liên hệ và môi trường thông
thường và được xây dựng quanh ít nhất ba trụ cột thiết yếu: một kinh nghiệm về
đời sống huynh đệ được chia sẻ với các nhà giáo dục trưởng thành là điều chính,
điều độ và tôn trọng ngôi nhà chung; một đề nghị tông đồ mãnh liệt và có ý nghĩa
để cùng nhau chung sống; một cống hiến tinh thần bắt nguồn từ đời sống cầu
nguyện và bí tích. Theo cách này, chúng tôi tìm thấy tất cả các yếu tố cần
thiết để Hội Thánh có thể cung cấp cho những người trẻ muốn nó một kinh nghiệm
sâu xa về việc phân định ơn gọi.
162. Tầm quan trọng của việc đồng hành với các cặp trong hành
trình chuẩn bị hôn nhân của họ phải được nhắc lại, trong khi ghi nhớ rằng có
nhiều cách khác nhau để tổ chức các khóa học này. Như được xác nhận trong Amoris
laetitia số 207: “Không phải là vấn đề giải thích toàn bộ Giáo
lý cho họ hay bão hòa họ với quá nhiều chủ đề. […] Đó là một loại “khai tâm”
cho Bí Tích Hôn Phối mang lại cho họ những yếu tố cần thiết để có thể lãnh Nhận
Bí Tích này trong điều kiện tốt nhất và bắt đầu cuộc sống gia đình với một
quyết tâm vững chắc.” Điều quan trọng là tiếp tục đồng hành với các gia đình
trẻ, nhất là trong những năm đầu của cuộc sống hôn nhân, bằng cách giúp họ trở
thành một phần tích cực của cộng đồng Kitô hữu.
163. Nhiệm vụ cụ thể của việc đào tạo cách toàn diện các ứng
viên cho thừa tác vụ có chức thánh và đời sống thánh hiến cả nam lẫn nữ vẫn là
một thách đố quan trọng đối với Hội Thánh. Phải nhắc lại rằng tầm quan trọng của
một đào tạo về văn hóa và thần học vững chắc cho những người được thánh hiến
cũng quan trọng tương tự. Với các chủng viện, nhiệm vụ đầu tiên rõ ràng là
việc áp dụng và triển khai cụ thể tài liệu Ratio fundamentalis
institutionis sacerdotalis (Đại cương cơ bản cho việc huấn luyện linh
mục) mới. Trong Thượng Hội Đồng, một số khía cạnh quan trọng
đã xuất hiện và đây là những điều đáng nhắc đến.
Trước hết, việc chọn các nhà đào luyện: việc họ được đào
tạo tốt về văn hoá thì chưa đủ, nhưng họ cũng phải có khả năng liên hệ huynh
đệ, lắng nghe cách cảm thông và một tự do nội tâm sâu xa. Thứ hai, để đồng hành
đúng cách, cần phải có công việc nghiêm túc và có năng lực, trong các nhóm giáo
dục khác biệt bao gồm các nhân vật nữ. Việc thiết lập các nhóm đào luyện
này, trong đó các ơn gọi khác nhau tương tác, là một hình thức hội đồng nhỏ
nhưng có giá trị, ảnh hưởng đến tâm lý của những người trẻ trong việc đào tạo
ban đầu. Thứ ba, việc đào tạo phải nhằm mục đích phát triển, trong các mục tử
tương lai và những người được thánh hiến, khả năng thực thi vai trò hướng dẫn
của họ một cách có trình độ và không độc đoán, bằng cách giáo dục các ứng viên
trẻ biết tự hiến cho cộng đồng. Cần chú ý đặc biệt đến các tiêu chuẩn đào tạo
nhất định như: vượt trên khuynh hướng giáo sĩ trị, khả năng làm việc theo nhóm,
chú ý đến những người nghèo, sống trong sáng, sẵn sàng để được đồng hành. Thứ
tư, sự nghiêm túc của việc phân định ban đầu là điều quyết định, bởi vì rất
thường là những người trẻ đến các chủng viện hoặc nơi đào tạo đều được đón nhận
mà không biết chính xác hoặc đọc lại cẩn thận lịch sử của họ. Câu hỏi trở nên
đặc biệt tế nhị trong trường hợp “các chủng sinh lang thang”: sự bất ổn về quan
hệ và tình cảm và thiếu bén rễ trong Hội Thánh là những dấu chỉ nguy hiểm. Coi
thường các tiêu chuẩn của Hội Thánh về vấn đề này là hành vi vô trách nhiệm, có
thể gây hậu quả rất nghiêm trọng cho cộng đồng Kitô hữu. Điểm thứ năm liên quan
đến tầm quan trọng của các cộng đồng đào tạo: trong các cộng đồng quá lớn, có
nguy cơ không thể cá nhân hóa chương trình giảng dạy và kiến thức không phù hợp của những người trẻ trên cuộc hành
trình, trong khi các cộng đồng có quá ít có nguy cơ bị nghẹt thở và lệ thuộc
vào các luận lý của sự phụ thuộc; trong những trường hợp này, giải pháp tốt
nhất là thành lập các chủng viện liên giáo phận hoặc nơi đào luyện cho một vài
tỉnh dòng, với các dự án đào tạo rõ ràng và trách nhiệm được xác định tỏ tưởng.
164. Thượng Hội Đồng công thức hoá ba đề nghị để thúc đẩy việc
canh tân.
Đề nghị thứ nhất liên quan đến việc đào tạo chung của giáo
dân, những người được thánh hiến và các linh mục. Điều quan trọng đối với những
người trẻ nam nữ đang được đào tạo là giữ liên lạc thường xuyên với cuộc sống
hàng ngày của các gia đình và cộng đồng, đặc biệt chú ý đến sự hiện diện của các
nhân vật nữ và các cặp vợ chồng Kitô giáo, và đảm bảo rằng việc đào tạo phải
bén rễ sâu trong tình trạng cụ thể của cuộc đời và được đặc trưng bằng một
chiều kích quan hệ có khả năng tương tác với hoàn cảnh văn hóa xã hội.
Đề nghị thứ hai liên quan đến việc đưa vào chương trình
giảng dạy chuẩn bị cho thừa tác vụ có chức thánh và đời sống thánh hiến các yếu
tố cụ thể liên quan đến mục vụ giới trẻ, qua các khóa đào tạo có mục tiêu và
kinh nghiệm sống về hoạt động tông đồ và Phúc Âm hoá.
Đề nghị thứ ba đòi hỏi rằng việc lượng giá trong phạm vi
phân định thật sự về con người và hoàn cảnh theo nhãn quan và tinh thần
của Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis, khả năng xác
minh con đường đào tạo dựa trên kinh nghiệm và kế hoạch của cộng đồng. Điều này
đặc biệt đúng cho giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình, bao gồm việc từ từ
được đưa vào trách nhiệm mục vụ. Các công thức và phương thức có thể được chỉ
định bởi các Hội Đồng Giám Mục của mỗi quốc gia, qua Ratio
nationalis của họ.
165. Cuối cùng, tất cả sự đa dạng về ơn gọi được kết hợp trong
một lời mời gọi nên thánh duy nhất và phổ quát, không có gì khác có thể làm
tròn lời mời gọi đến niềm vui của tình yêu đang vang lên trong trái tim của mọi
người trẻ này. Thật vậy, chỉ từ ơn gọi nên thánh duy nhất này, mà các hình
thức sống khác nhau mới có thể ăn khớp với nhau, biết rằng Chúa “muốn chúng ta
thành những vị thánh chứ không phải chỉ hài lòng với một cuộc sống tẻ nhạt và
tầm thường, không kiên định” (Phanxicô, Gaudete et exsultate, số 1). Sự thánh
thiện tìm thấy nguồn vô tận của nó nơi Chúa Cha, Đấng nhờ Thánh Thần của Ngài,
sai Chúa Giêsu, “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1, 24), đến giữa chúng ta để
làm cho chúng ta nên thánh qua tình bằng hữu với Người, Đấng mang đến niềm vui
và bình an trong cuộc đời của chúng ta. Việc tìm lại, trong suốt các chăm sóc
mục vụ bình thường của Hội Thánh, sự tiếp xúc sống động với đời sống hạnh phúc
của Chúa Giêsu là điều kiện cơ bản của mọi canh tân.
166. Chúng ta phải là thánh để mời những người trẻ trở nên như
vậy. Những người trẻ đã kiên quyết đòi hỏi một Hội Thánh đích thực, rạng ngời,
trong sáng và vui tươi: chỉ có một Hội Thánh của các thánh mới có thể sống theo
những đòi hỏi này! Nhiều người trong số các em đã từ bỏ Hội Thánh vì các em
không tìm thấy sự thánh thiện, mà lại tìm thấy sự tầm thường, vọng tưởng, chia
rẽ và thối nát trong ấy. Đáng tiếc thay, thế giới bị xúc phạm trắng trợn hơn
bởi sự lạm dụng của một số người trong Hội Thánh hơn là sự thánh thiện của các
phần tử của mình: đó là lý do tại sao toàn thể Hội Thánh phải hoàn thành một
thay đổi quan điểm vững chắc, tức thời và triệt để! Những người trẻ cần các vị
thánh là những người tạo ra các vị thánh khác, như thế chứng tỏ rằng “sự thánh
thiện là khuôn mặt đẹp nhất của Hội Thánh” (Phanxicô, Gaudete et
exsultate, số 9). Có một ngôn ngữ mà tất cả mọi người nam nữ ở mọi
thời đại, mọi nơi và mọi nền văn hóa đều có thể hiểu được, bởi vì nó tức thời
và rạng ngời: đó là ngôn ngữ của sự thánh thiện.
167. Chúng tôi thấy rõ ngay từ đầu cuộc hành trình của Thượng
Hội Đồng rằng những người trẻ là một phần không thể thiếu được của Hội Thánh.
Sự thánh thiện của em cũng như thế, và trong những thập kỷ gần đây, sự thánh
thiện ấy đã tạo ra một mùa hoa nở rộ đa diện ở khắp nơi trên thế giới: việc
chiêm ngắm và suy niệm trong Thượng Hội Đồng lòng can đảm của nhiều người trẻ
đã từ bỏ cuộc sống để trung thành với Tin Mừng đã khiến chúng tôi cảm động;
lắng nghe các chứng từ của những người trẻ có mặt tại Thượng Hội Đồng, giữa
những cuộc bách hại, đã chọn chia sẻ Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, đã được tái
sinh. Nhờ sự thánh thiện của những người trẻ, Hội Thánh có thể làm hồi sinh
lòng hăng say tinh thần và sức sống tông đồ của mình. Hương thơm của sự thánh
thiện phát sinh từ sự tốt lành của cuộc sống của rất nhiều người trẻ như thế có
thể chữa lành các vết thương của Hội Thánh và thế giới, đưa chúng ta trở lại
với tình yêu trọn vẹn mà chúng ta luôn luôn được mời gọi: các vị thánh trẻ đẩy
chúng ta trở lại tình yêu ban đầu của mình (x. Kh 2, 4).
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
[1] Chú thích của người dịch: “chủ nghĩa hữu thần đạo
đức trị liệu” tiếng Pháp là “théisme éthique et thérapeutique” và tiếng Anh là
“moralistic therapeutic deism (MTD)”. Đây là một chủ nghĩa không mấy mới lạ,
nhưng rất thịnh hành trong giới trẻ. Theo chủ nghĩa này thì Thiên Chúa dựng nên
chúng ta và muốn chúng ta ăn ngay ở lành nghĩa là đối xử tốt với nhau là
đủ. Ngoài ra Ngài không can thiệp vảo đời sống chúng ta. Còn chúng
ta thì chỉ cần đến Thiên Chúa khi gặp khó khăn mà thôi.
[2] Chú thích của người dịch: “Thuyết định mệnh” là
thuyết chủ trương rằng mọi sự đã được định đoạt từ trước. Những người Tin Lành
theo Calvin tin vào thuyết này. Calvin dạy về “Thuyết Tiền Định Kép (Double
Predestination)”, cho rằng Thiên Chúa đã định cho một người hoặc lên Thiên Đàng
hoặc xuống Hoả Ngục ngay từ thủa đời đời, không ai có thể làm bất cứ điều gì để
thay đồi số phận của mình cả.
[3] Chú thích của người dịch: “Thuyết ngoại tại” là
thuyết được Lutherô sáng chế ra. Ông cho rằng sau khi Nguyên Tổ phạm tội, bản
tính con người hoàn toàn bị sa hoá, không thế cứu chữa được. Chúa Giêsu xuống
thế để làm cho con người được nên công chính bằng cách đền tội thay cho con
người. Nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu thì tất cả những ai tin Người và chấp
nhận Người là cứu Chúa đều được Thiên Chúa nhìn nhận là công chính. Đây là sự
công chính hoá “ngoại tại”, nó không thay đổi nội tâm con người. Còn Hội Thánh
thì dạy rằng, con người muốn được cứu rỗi thì phải hợp tác với ân sủng để biến
đổi mình càng ngày càng trở nên giống Đức Kitô hơn, chứ tin không thì chưa đủ.
[4] Cũng có thể dịch là việc làm nội tâm
[5] Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Thượng Hội
Đồng trong đời sống và sứ vụ Hội Thánh, ngày 2 tháng 3 năm 2018, số
9. Ngoài ra, tài liệu này minh họa bản chất của tính hội đồng bằng lời này:
“Chiều kích hội đồng của Hội Thánh diễn tả tính cách tích cực của tất cả những
người được Rửa Tội, đồng thời, vai trò cụ thể của tác vụ Giám Mục trong sự hiệp
thông Giám Mục Đoàn và phẩm trật với Giám Mục Rôma. Nhãn quan Hội Thánh này mời
gọi để thúc đẩy việc triển khai sự hiệp thông cách hội đồng giữa “mọi người”,
“một số người” và “một người”. Ở các cấp độ khác nhau và dưới các hình thức
khác nhau, về các Hội Thánh địa phương, các nhóm của họ ở cấp độ khu vực và của
Hội Thánh toàn cầu, tính hội đồng ám chỉ việc thực thi sensus
fidei (cảm thức đức tin) của universitas fidelium (toàn thể
tín hữu), thừa tác vụ hướng dẫn của Giám Mục Đoàn, mỗi vị với linh
mục đoàn (một số người) và tác vụ hiệp nhất của các Giám Mục và Giáo Hoàng (một
người). Do đó, trong động lực của tính hội đồng, có khía cạnh cộng đồng bao gồm
toàn thể Dân Chúa, chiều kích (giám mục hay linh mục) đoàn liên quan đến việc
thi hành tác vụ Giám Mục và tác vụ tối cao của Giám Mục Rôma. Mối tương quan này
khuyến khích singularis conspiratio (sự nhất trí duy nhất) giữa các
tín hữu và các Mục Tử, đó là hình ảnh của conspiratio (sự nhất
trí) vĩnh cửu đang sống trong Chúa Ba Ngôi” (số 64).
[6] Câu này được dịch theo bản tiếng Ý hay vì tiếng Pháp
vì bản tiến Ý rõ ràng hơn.