ĐỐI THOẠI TÔN GIÁO

Nguyễn Chính Kết

Nhu cầu đối thoại tôn giáo trong thế giới hôm nay

Một đằng thế giới chúng ta càng ngày càng như nhỏ lại vì việc giao thông, liên lạc càng ngày càng tân tiến, hiện đại và dễ dàng. Đàng khác, càng ngày con người càng ý thức được sự đa dạng của vạn vật, sự khác biệt tất yếu giữa vạn vật, nên dễ chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau, cả trong lãnh vực tư tưởng, ý thức hệ, tôn giáo, văn hóa... Vì thế, các dân tộc, các nền văn hóa, các tôn giáo ngày càng có nhu cầu liên lạc, trao đổi, đối thoại, tìm hiểu nhau, để có thể thông cảm và xích lại gần nhau, nhất là hợp tác với nhau xây dựng những thiện ích chung.

Những thế lực phi tôn giáo đã đi bước trước và đã làm gương cho các tôn giáo về mặt này. Thật vậy, trước khi các tôn giáo biết hợp tác với nhau để xây dựng hòa bình và bảo vệ các quyền của con người, thì một số quốc gia đã làm điều đó, lập ra tổ chức Liên Hiệp Quốc năm 1945. Còn nhiều tổ chức đối thoại và hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới khác nữa. Và các tôn giáo phi Ki-tô giáo đã khởi xướng việc đối thoại tôn giáo cũng như việc kêu gọi hợp tác giữa các tôn giáo trước Ki-tô giáo. Thật vậy, Đại Hội Các Tôn giáo trên thế giới lần đầu tiên tổ chức tại Chicago (Mỹ) ngày 11-9-l893 lại không phải là sáng kiến của Kitô giáo hay do Kitô giáo tổ chức. Tuy nhiên hiện nay, Giáo Hội Công giáo đang là tôn giáo có nhiều nỗ lực nhất về mặt này.

Đang khi các quốc gia, các tổ chức quốc tế đã có những giao lưu, đối thoại, hợp tác với nhau về nhiều mặt (văn hóa, nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, thể thao, v.v…), thì việc giao lưu, đối thoại, hợp tác giữa các tôn giáo dường như vẫn còn ở giai đoạn sơ khởi. Các tôn giáo dường như vẫn còn ngăn cách, không hiểu và thông cảm nhau, đôi khi vẫn còn não trạng tìm cách hạ giá nhau, nghi kỵ nhau, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau. Chính vì thế, thế giới vẫn xảy ra những cuộc chiến tranh tôn giáo. Và chiến tranh tôn giáo cũng tàn khốc, dã man và bỉ ổi không kém gì những thứ chiến tranh khác.

Đó cũng là một điều mỉa mai và đáng tiếc, vì mọi tôn giáo đều dạy con người phải đoàn kết yêu thương nhau. Đúng ra các tôn giáo phải đi bước trước và làm gương cho thế giới về đối thoại, tìm hiểu, thông cảm lẫn nhau, yêu thương và hợp tác với nhau xây dựng thiện ích chung và đem lại hòa bình thịnh vượng cho mọi dân tộc. Vì thế, mọi người có tôn giáo cần phải quan tâm đến vấn đề đoàn kết và đối thoại với các tôn giáo.

Ý thức về đối thoại tôn giáo trong Giáo Hội

Giáo Hội Công giáo, với Công Đồng Vatican II và nhất là Thượng Hội Đồng Giám mục Á châu, đã ý thức rất nhiều về vấn đề này:

«Trong thời đại chúng ta, nhân loại càng ngày càng liên kết chặt chẽ với nhau hơn, các mối liên lạc giữa các dân tộc cũng gia tăng, nên Giáo Hội đặc biệt chú tâm đến việc liên lạc với các tôn giáo ngoài Kitô giáo» (NK 1§1).

«Người công giáo phải tìm cách cộng tác với tất cả mọi người thiện chí để cổ động cho bất cứ những gì là chân thật, công bằng, thánh thiện và đáng yêu quí (x. Pl 4,8). Người công giáo hãy đối thoại với họ, hãy đến với họ cách khôn ngoan và tế nhị, hãy tìm cách kiện toàn những cơ cấu xã hội và quốc gia theo tinh thần Phúc Âm» (TĐ 14§2).

«Tiếp xúc, đối thoại và cộng tác với tín đồ các tôn giáo khác chính là một công việc mà Công Đồng Vaticanô II đã giao cho toàn thể Giáo Hội làm như một bổn phận và một thách đố» (GHTCA 31§1).

«Đối thoại… là cung cách sinh hoạt điển hình của đời sống Giáo Hội tại Châu Á» (GHTCA 3§2)

Những sự kiện cụ thể

Trong tinh thần ấy, Giáo Hội đã có những nỗ lực cụ thể về lý thuyết cũng như thực hành để xúc tiến việc đối thoại tôn giáo này.

· Về lý thuyết:

Từ Công Đồng Vatican II về sau, có nhiều văn kiện đề cập nhiều đến vấn đề đối thoại tôn giáo như:

– Sắc lệnh «Hoạt động Truyền giáo» (Ad Gentes) và Tuyên ngôn «Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Ki-tô giáo» (Nostra Aetate) của Công Đồng Vatican II.

– Tông thư «Sứ vụ Đấng Cứu Thế» (Missio Redemptoris) (1990) của Đức Gioan-Phaolô II và Tông huấn «Giáo Hội tại châu Á» (Ecclesia in Asia) của Thượng Hội Đồng Giám mục Á châu (1999).

– Đặc biệt hai tông thư «Đối thoại và truyền giáo» (Dialogue and Mission) (1984) và «Đối thoại và công bố Tin Mừng» (Dialogue and Proclamation) (1991) của Đức Gioan-Phaolô II nói về những thái độ mà Giáo Hội phải có đối với các tín đồ tôn giáo khác.

· Về thực hành:

– Đức Phaolô VI thành lập trong Tòa Thánh «Văn phòng cho những người ngoài Ki-tô giáo» năm 1964, nay đổi là «Hội Đồng Giáo Hoàng về Đối thoại Tôn giáo».

Cuộc gặp gỡ tại Assisi (27-10-1986) giữa Giáo Hội Công Giáo đại biểu các tôn giáo khác trên thế giới để cầu nguyện cho hòa bình thế giới, do Đức Gioan-Phaolô II chủ xướng…

– Ngoài ra hàng năm hoặc nhiều năm một lần, để tiếp nối truyền thống Assisi, trong Giáo Hội vẫn có tổ chức những buổi gặp gỡ giao lưu giữa Công giáo và các tôn giáo bạn ở cấp cao trong một số quốc gia.

Đó mới chỉ là những bước sơ khởi còn rất khiêm nhường so với những gì cần phải làm, hay so với những nỗ lực đối thoại của thế giới.

Những nguyên tắc cho việc đối thoại tôn giáo

Giáo Hội đã đề ra một số nguyên tắc cho việc đối thoại tôn giáo. Xin đặc biệt đề cập đến những nguyên tắc trong hai văn kiện đáng chú ý nhất:

1. Văn kiện Đối thoại và truyền giáo xác định:

a) Đối thoại tôn giáo là một hình thức truyền giáo đặc biệt và quan trọng trong thời đại chúng ta, trong đó, người Ki-tô hữu gặp gỡ các tín đồ tôn giáo khác để cùng đồng hành đi đến chân lý, và cùng cộng tác với nhau trong những dự án thực hiện những quan tâm chung. Như thế, «đối thoại chính là truyền giáo».

b) Đối thoại liên vị (giữa người với người) phải đi đến sự hiệp thông liên vị, nghĩa là phải có sự hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau, và yêu thương nhau, để có thể đi đến đồng hành và cộng tác với nhau.

c) Các thành viên đối thoại phải ý thức được giới hạn của mình và có khả năng vượt lên giới hạn ấy. Đừng ai nghĩ rằng mình nắm được chân lý một cách hoàn toàn và trọn vẹn. Nhưng hãy nghĩ rằng mọi người có thể cùng đồng hành với nhau để đạt đến mục đích ấy.

d) Việc đối thoại tôn giáo có thể làm cho những kinh nghiệm tôn giáo của mỗi thành viên đối thoại được tinh luyện và phong phú hơn.

e) Khi đối thoại với các tín đồ tôn giáo khác, người Ki-tô hữu cần yêu thương và tôn trọng họ, lắng nghe cố gắng thấu hiểu những gì mà họ muốn thông truyền cho mình, coi đó là những món quà Thiên Chúa ban cho để đem lại lợi ích thiêng liêng cho mình.

f) Như Công Đồng Vatican II xác định: trong các tôn giáo khác vẫn có những điều «chân thật và thánh thiện», «thường có ánh sáng của Chân Lý vốn hằng chiếu soi cho hết mọi người» (NK 22), «những hạt giống Lời Chúa đang tiềm ẩn trong họ» (TG 11,2). Người Ki-tô hữu cần khám phá những điều ấy nơi họ để làm phong phú hóa kinh nghiệm và hiểu biết của mình, không chỉ trong những tương đồng, mà cả trong những dị biệt.

g) Những hình thức đối thoại khác nhau:

Đối thoại bằng đời sống: Mọi Ki-tô hữu đều được mời gọi sống tinh thần đối thoại trong đời sống của mình, đem tinh thần Tin Mừng vào trong môi trường sống và làm việc của mình.

Đối thoại bằng việc làm: Cùng hợp tác với người khác cho những mục đích nhân đạo, xã hội, kinh tế, chính trị để giải phóng và phát triển con người.

Đối thoại về lý thuyết (còn gọi là đối thoại giữa các chuyên gia): Để đào sâu và làm phong phú hiểu biết của đôi bên về các tôn giáo được đề cập.

Đối thoại về những kinh nghiệm tôn giáo: Chia sẻ kinh nghiệm về cầu nguyện, chiêm niệm, đức tin, bổn phận, cách diễn tả Tuyệt Đối hay phương cách tìm kiếm Tuyệt Đối, nhất là những cảm nghiệm về Tuyệt Đối. Đây là kiểu đối thoại làm phong phú đời sống tâm linh của nhau, thăng tiến và duy trì những giá trị cao cả nhất và những lý tưởng tâm linh.

2. Tông huấn Giáo Hội tại châu Á cho biết:

Đối thoại cần phải «diễn ra trong sự thật, lương thiện, khiêm tốn và kính trọng» (21§3).

«Phải đối thoại bằng cuộc sống và bằng con tim. Khi gặp gỡ và đối thoại, người môn đệ Đức Kitô phải có con tim dịu dàng và khiêm tốn của Thầy mình, đừng bao giờ tự phụ, cũng đừng bao giờ tỏ vẻ trịnh thượng» (31§3).

«Đứng trên quan điểm Kitô Giáo, đối thoại liên tôn giáo không phải chỉ là một cách để giúp các bên hiểu biết nhau làm giàu cho nhau. Nhưng còn là một phần trong chính sứ mạng phúc âm hóa của Giáo Hội, là một cách biểu hiện sứ mạng “đến với lương dân”» (31§1).

«Khi tham gia đối thoại liên tôn giáo, các Kitô hữu xác tín rằng chỉ có Đức Kitô mới đem lại sự cứu độ trọn vẹn và cộng đoàn Giáo Hội mà họ đang thuộc về là phương thế thông thường (ordinary means) để được ơn cứu độ» (31§1).

Áp dụng thực tế trong đời sống Ki-tô hữu

1) Đối thoại bằng đời sống

– Hãy năng chủ động đến tiếp xúc với họ, nói chuyện, trao đổi, không phải để thuyết phục hầu đưa họ về Ki-tô giáo, mà để biểu lộ tình thương, tình người qua sự quan tâm và giúp đỡ của mình. Chính tình thương đích thực ở nơi ta mới làm ta trở nên gần gũi họ, mới là dấu chứng cụ thể và giá trị nhất có khả năng cảm hóa họ, và chứng tỏ ta là môn đệ đích thực Đức Giê-su, và làm họ cảm nghiệm được Đức Giê-su ở trong ta.

– Chính sự dễ thương, quảng đại, hy sinh, đặt nặng chân lý, công lý và tình thương ở nơi ta, trong cách sống của ta, là lời rao giảng Đức Giê-su hùng hồn nhất, lôi cuốn nhất, và là chứng từ quan trọng nhất ta có thể làm được để chứng minh Ki-tô giáo là tôn giáo chân thực.

– Đối thoại bằng đời sống là cách đối thoại hữu hiệu và lôi cuốn nhất. Cốt yếu của cách đối thoại này là chính bản thân ta sống tinh thần Tin Mừng trong đời sống gia đình mình, trong công ăn việc làm, trong cách xử sự hằng ngày của ta đối với mọi người. Cốt yếu nhất trong việc sống theo Tin Mừng là «công lý, tình thương và sự thành thật» (Mt 23,23). Cứ sống như thế thì đã là truyền giáo đích thực rồi.

2. Đối thoại bằng việc làm

– Hãy chủ động mời gọi họ (hoặc khi được họ mời gọi thì tích cực hưởng ứng) cùng quan tâm và cùng thực hiện những thiện ích chung trong xã hội, để làm cho bộ mặt xã hội tươi đẹp hạnh phúc hơn, giảm bớt tiêu cực, bất công, nghèo khổ…

– Người Ki-tô hữu phải biết quan tâm tới những vấn đề xã hội, những công việc chung, phải tỏ ra có «bụng chung» và tinh thần cộng tác hơn ai hết. Thật đáng xấu hổ và mâu thuẫn khi một đằng ta tuyên xưng Ki-tô giáo là một tôn giáo đúng đắn và tốt đẹp nhất, một đằng người Ki-tô hữu lại tỏ ra mình ít «bụng chung», ít quan tâm đến tha nhân, đến những vấn đề xã hội, ít khả năng làm việc chung hơn các tín đồ tôn giáo khác.

3. Đối thoại về mặt lý thuyết

– Khi dùng hình thức đối thoại này, tuyệt đối không nên tranh cãi hơn thua, không nhắm chứng tỏ tôn giáo của mình là hay nhất, tốt nhất, còn tôn giáo của người ta là kém cỏi hơn.

– Nếu có muốn thuyết phục họ rằng tôn giáo của mình là hay nhất, thì không nên dùng cách đối thoại về lý thuyết này, mà hãy thuyết phục họ bằng hai cách đối thoại trên.

– Nếu có điểm nào về mặt lý thuyết mà họ còn yếu, không có tính thuyết phục, thì mình cứ trình bày rõ ràng quan điểm của tôn giáo mình về điểm ấy, để họ nhận ra tính thuyết phục của đạo mình. Mình có thể nêu ra những câu hỏi mang tính gợi ý, đặt vấn đề khiến họ phải suy nghĩ để nhận ra chân lý.

– Hãy biết chăm chú lắng nghe hiểu thấu những điều người ta nói về tôn giáo họ, để rút ra những điều hay, những tư tưởng cao đẹp, những cách nhìn hay cách diễn tả khác về Tuyệt Đối hay Thiên Chúa.

– Hãy chăm chú nghe họ nói về vị giáo chủ của họ, và nhận ra những đặc tính nổi bật của ngài để ta bắt chước. Nhưng cũng hãy mạnh dạn giới thiệu Đức Giê-su cho họ, và tuyên xưng niềm tin mạnh mẽ của ta nơi Ngài. Đừng phê bình, so sánh vị nào hay hơn vị nào. Hãy để họ tự nhận xét và tự nhận ra điều đó.

– Kinh nghiệm về việc tìm hiểu và đối thoại chân tình với các tôn giáo khác cho tôi thấy: các tôn giáo khác giúp ta hiểu về Thiên Chúa và về Lời Chúa một cách sâu sắc hơn, nhiều khía cạnh hơn, đồng thời giúp ta sống đạo Ki-tô giáo một cách thâm sâu hơn, phong phú hơn.

– Hãy chia sẻ những tư tưởng, những điểm giáo lý, những câu Kinh Thánh nào mình lấy làm tâm đắc nhất, đem lại sức mạnh cho mình nhiều nhất. Hãy cho biết những tư tưởng ấy đã thay đổi hay ảnh hưởng đến đời sống mình như thế nào.

4. Đối thoại về những kinh nghiệm tôn giáo

– Hãy chia sẻ về niềm vui, sự bình an, sức mạnh, niềm hạnh phúc đích thực mình được khi cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, tiếp xúc với Thiên Chúa, hay khi thực hành những điều Chúa truyền dạy. Hãy kể những hồng ân mình nhận được từ Thiên Chúa. Đồng thời cũng hãy lắng nghe những chia sẻ của họ để học hỏi nơi họ.

– Nếu tôn giáo của ta là một tôn giáo đúng nhất, tốt đẹp nhất, thì nó phải đem lại cho ta một niềm hạnh phúc lớn lao, một động lực mạnh mẽ để ta dấn thân phục vụ tha nhân và xã hội. Hãy chia sẻ những hạnh phúc và động lực ấy.

– Mỗi người đều có một quá trình tìm kiếm chân lý và đi tìm hạnh phúc để thỏa mãn những thắc mắc căn bản nhất hoặc những khát vọng sâu xa nhất của mình. Hãy chia sẻ về quá trình tìm kiếm ấy và về kết quả cuộc tìm kiếm ấy, nhất là tôn giáo của mình đã giúp mình thế nào để đạt được kết quả ấy.

Kết luận

Theo Tông huấn Giáo Hội tại châu Á thì đối thoại tôn giáo:

– không những làm cho các thành viên đối thoại (1) hiểu biết nhau, thông cảm nhau, để yêu thương, cộng tác với nhau, đồng thời (2) làm cho nhau phong phú về mặt tâm linh, về sự cảm nghiệm thiêng liêng, về kiến thức tôn giáo.

– mà còn là (3) một cơ hội để người Ki-tô hữu đem Chúa đến với lương dân, giới thiệu Đức Giê-su cho họ như một người có thể làm cho cuộc đời họ có ý nghĩa và hạnh phúc, và xa hơn nữa, đem họ về với Thiên Chúa hay Đức Giê-su.

Để làm việc này một cách hữu hiệu và không gây khó chịu, ta nên thường xuyên sử dụng 3 cách đối thoại: đối thoại bằng đời sống, bằng việc làm, và đối thoại về kinh nghiệm tôn giáo. Nên hạn chế sử dụng đối thoại về mặt lý thuyết. Cách này khó sử dụng vì đòi hỏi phải hiểu biết nhiều về tôn giáo của mình, đồng thời phải rất khéo léo để tránh những cuộc tranh luận vô bổ, có thể gây chia rẽ, ác cảm hay hiểu lầm.

______________________________________________________

Ghi chú: Những chữ viết tắt

NK: Tuyên ngôn «Liên Lạc của Giáo Hội với các Tôn Giáo ngoài Ki-tô giáo» (Nostra Aetate) của Công Đồng Vatican II.

TG: Sắc lệnh «Hoạt động Truyền giáo» (Ad Gentes) của Công Đồng Vatican II.

GHTCA: Tông huấn «<i>Giáo Hội tại châu Á</i>» (Ecclesia in Asia) của Thượng Hội Đồng Giám mục Á châu do Đức Gioan-Phaolô II ban hành năm 1999.


Trở về Trang Mục Lục