4 bài giảng của Cha Raniero Cantalamessa,
OFMCap, cho Giáo triều Vatican Mùa Vọng 2011 về những nỗ lực truyền giáo của
Giáo Hội hôm qua và hôm nay
Với mong muốn đáp ứng phần nào lời mời
gọi của Đức Thánh Cha BÊNÊĐICTÔ XVI về nỗ lực truyền giáo và tái truyền giáo
của Giáo Hội hiện nay, xin trân trọng gửi đến quý vị độc giả bản dịch 4 bài
giảng của Linh mục Raniero Cantalamessa,
ofmcap, cho Giáo triều Vatican trong Mùa Vọng 2011 vừa qua (bản Việt ngữ
của Linh mục Phêrô Nguyễn Thiên Cung, Giáo phận Phan Thiết)
BÀI I
“HÃY ĐI KHẮP CÙNG THẾ GIỚI”
Đợt sóng loan báo Tin Mừng thứ nhất
Nhằm đáp ứng lời mời gọi của Đức Thánh
Cha cần có những nỗ lực mới rao giảng Tin Mừng và chuẩn bị cho Thượng Hội đồng
các Giám mục năm 2012, trong những bài suy niệm Mùa Vọng năm nay, về chủ đề
này, tôi xin mạn phép được tự giới hạn trong 4 đợt sóng loan báo Tin Mừng mới,
hay còn gọi là 4 thời đoạn mà trong lịch sử Giáo Hội vốn được ghi dấu bởi một
sự tăng tốc hay lấy lại đà lực khá ngoạn mục trong nỗ lực dấn thân truyền giáo.
Đây là 4 thời đoạn đó:
1- Ba thế kỷ truyền bá
Kitô giáo đầu tiên, cho đến trước khi sắc lệnh của hoàng đế Constantin được ban
hành: đây là thời kỳ mà các nhân vật then chốt trong nỗ lực này trước tiên đó
là các ngôn sứ, rồi đến các giám mục.
2- Các thế kỷ từ VI đến
IX, sau làn sóng xâm nhập châu Âu của các dân tộc man di: đây là thời kỳ chứng
giám một đợt sóng loan báo Tin Mừng mới, chủ yếu nhờ vào các đan sĩ (moines).
3- Thế kỷ XVI, với việc
khám phá và trở lại Kitô giáo của “tân thế giới” (“nouveau monde”), nhờ vào nỗ
lực của các tu sĩ (religieux).
4- Thời kỳ hiện tại
chứng giám việc Giáo Hội dấn thân vào một nỗ lực loan báo Tin Mừng mới ở phương
Tây đang bị tục hoá, với sự tham gia có tính quyết định của hàng ngũ giáo dân.
Ở nơi mỗi thời kỳ, tôi sẽ cố gắng đưa ra
ánh sáng điều mà chúng ta có thể học hỏi cho Giáo Hội ngày hôm nay: đâu là
những sai lầm cần phải tránh, và đâu là những tấm gương sáng cần học hỏi bắt
chước, và đâu là đóng góp đặc thù mà các đan sĩ, các tu sĩ sống đời sống tông
đồ và các giáo dân đã có thể mang lại cho nỗ lực loan báo Tin Mừng này.
I. Kitô giáo lan truyền, trong 3 thế kỷ
đầu tiên
Chúng tôi sẽ bắt đầu với suy tư về nỗ
lực loan báo Tin Mừng Kitô trong 3 thế kỷ đầu. Nhất là vì giai đoạn này trở
thành như mô mẫu cho tất cả mọi thời. Đó là giai đoạn mà Kitô giáo tự mày mò để
tim ra hướng đi, hoàn toàn chỉ dựa trên sức riêng của mình. Chẳng có “bàn tay
thế tục nào” để mà nương tựa cả; các cuộc trở lại chẳng phải là do có sự hậu
thuẫn nào từ bên ngoài, vật chất hay văn hoá; là Kitô hữu chẳng phải là do thói
quen hay là vì đó là một thứ “mốt thời đại”, mà là một chọn lựa phải lội ngược
dòng, và nguy hiểm đến tính mạng thường luôn rình rập bên mình. Trong một nghĩa
nào đó, đây cũng là thực tế mà một số Kitô hữu trong một số vùng đất nào đó của
thế giới hôm nay vẫn còn đang phải đối diện.
Niềm tin Kitô nảy sinh ra cùng lúc với
việc Giáo Hội cởi mở ra với chiều kích toàn thể. Đức Giêsu đã nói với các môn
đệ của Ngài là “hãy đi khắp cùng thế giới” (Mc 16,15), “hãy thu nạp các môn đệ
từ khắp muôn dân” (Mt 28,19), hãy là những chứng nhân của Ngài “đến tận mút
cùng trái đất” (Cv 1,8), hãy “loan báo cho chư dân vì danh Ngài mà hãy quay trở
về để được thứ tha tội lỗi” (Lc 24,47).
Việc áp dụng nguyên tắc dựa trên tính
phổ quát này đã thấy xuất hiện ngay trong thế hệ các tông đồ, tuy nhiên, không
phải là không có những khó khăn và cả những chia rẽ mất mát. Ngày Lễ Ngũ Tuần,
rào cản đầu tiên được gỡ đi đó là rào cản chủng tộc (3.000 người tòng giáo
thuộc nhiều dân tôc khác nhau, nhưng tất cả đều là những tân tòng mới theo Do
Thái giáo); trong nhà của Corneille và nơi Công đồng được gọi là “Giêrusalem”,
nhất là dưới sức ép của Phaolô, rào cản khó khăn nhất trong tất cả mọi rào cản,
đó là rào cản tôn giáo vốn chia cách giữa những người Do Thái và lương dân, đã được
vượt qua. Kể từ nay, trước mặt Tin Mừng là toàn thể thế giới, ngay như cho dù
trước con mắt hiểu biết của những người đương thời, thế giới này chỉ giới hạn
trong cái lòng chảo của miền Địa Trung Hải, và ranh giới là biên thuỳ của Đế
quốc Rôma.
Vấn đề đi sát theo quá trình bành trướng
của Kitô giáo cách cụ thể hay dựa trên địa lý trong suốt 3 thế kỷ đầu, vốn là
vấn đề phức tạp hơn nhiều, nhưng nói cho cùng, đó không phải là mục đích của
chúng tôi ở đây. Nghiên cứu đầy đủ nhất hiện nay về chủ đề này là của Adolph
von Harnack, “Mission et expansion du Christianisme aux trois premiers siècles”
(Công cuộc truyền giáo và sự bành trướng của Kitô giáo trong 3 thế kỷ đầu).
Trong Giáo Hội, hoạt động truyền giáo thấy được đẩy mạnh dưới thời hoàng đế
Commode (180-192) và rồi trong hạ bán thế kỷ II, tức là ngay trước lúc diễn ra
cơn bách hại lớn dưới triều Dioclétien (302). Không kể một vài cuộc bách hại lẻ
tẻ nào đó mang tính cục bộ địa phương, đây quả là thời kỳ mà Giáo Hội sơ khai
đã có thể tự ổn định về mặt nội bộ bên trong, và đang triển khai một sinh hoạt
truyền giáo mang một dung mạo mới.
Chúng ta sẽ xem xét đâu là cơ sở của đặc
tính mới mẻ này. Trong suốt 2 thế kỷ đầu, việc truyền bá đức tin chủ yếu là
sáng kiến của các cá nhân. Các ngôn sứ lang thang, mà sách Didaché có đề cập
tới, di chuyển từ nơi này đến nơi khác; nhiều cuộc trở lại vốn là kết quả của
những tiếp xúc cá nhân, giữa những người có cùng chung một ngành nghề nào đó,
qua những chuyến hành trình chung và qua những mối quan hệ làm ăn buôn bán, qua
việc cùng nhập ngũ với nhau hay qua những hoàn cảnh sống khác nữa bất kỳ.
Origène cung cấp cho chúng ta một hình ảnh đầy xúc động về lòng nhiệt thành của
những nhà truyền giáo tiên khởi như thế này:
“Các Kitô hữu đã làm hết sức mình tất
cả gì có thể để truyền bá niềm tin trong thế giới. Mốt số người, nhằm mục đích
này, đã chọn lối sống dành cả cuộc đời cho công việc truyền giáo, đi từ thành
này sang thành khác, kể cả từ thị trấn này sang thị trấn khác và từ biệt thự
này sang biệt thự khác, nhằm đưa được càng nhiều tín hữu mới về cho Đức Chúa.
Và, tôi vẫn hy vọng thế, chẳng có ai lại đi nói rằng những người này làm thế là
có ý nhằm mang lại một chút lợi lộc nào đó cho bản thân mình, bởi vì những
người này vẫn khước từ ngay cả những gì cần thiết cho cuộc sống của mình”.
Đã đến lúc, và lúc này đây, tức là trong
hạ bán thế kỷ III, các sáng kiến cá nhân này dần dần ngày càng được điều phối
lại nhằm mục đích chung và một phần được thay thế bởi cộng đoàn địa phương. Vị
giám mục, có lẽ chỉ do bởi phản ứng chống lai những khuynh hướng phá hoại của
lạc giáo ngộ đạo thuyết, đã được đưa đẩy đến chỗ vị trí còn vượt lên trên cả
các thầy, đóng vai trò trung tâm trong đời sống bên trong của cộng đoàn, và như
vậy còn trở thành đầu kéo của hoạt động truyền giáo. Cộng đoàn, kể từ đó, là
chủ thể truyền giáo, đến độ một chuyên viên như Harnack, mà không ai có thể
nghi ngờ thịnh tình của ông ta đối với cơ chế này, đã có thể khẳng định: “Chúng
ta cần phải công nhận rằng việc Kitô giáo được lan truyền như vậy, nhân tố
chính đó là sự hiện hữu và nỗ lực bền bĩ, dẻo dai của từng mỗi cộng đoàn”.
Vào cuối thế kỷ III, niềm tin Kitô trên
thực tế đã xâm nhập được vào trong tất cả các giai tầng xã hội. Niềm tin Kitô,
kể từ nay, có nền văn chương riêng của mình bằng ngôn ngữ Hy Lạp, và một nền văn
chương khác nữa, vừa mới manh nha bắt đầu, bằng tiếng Latinh. Cơ cấu bên trong
của niềm tin đó đã ổn định. Niềm tin Kitô bắt đầu xây dựng được những công
trình ngày càng rộng lớn hơn, đó là dấu chỉ cho thấy con số tín hữu đã ngày
càng gia tăng. Cuộc bách hại đạo lớn dưới thời Dioclétien, ngoài việc có nhiều
nạn nhân, càng chứng tỏ cho thấy kể từ nay niềm tin Kitô đã là một sức mạnh
không thể nào có thể kìm hãm được. Cánh tay sắt vừa mới vung ra đó giữa đế quốc
và Kitô giáo chứng tỏ cho thấy điều đó.
Constantin, thực ra, chỉ làm cái việc
hợp pháp hoá tương quan sức mạnh mới đó mà thôi. Không phải Constantin sẽ áp
đặt Kitô giáo cho quần chúng, mà chính quần chúng sẽ áp đặt Kitô giáo cho
Constantin. Những khẳng định như kiểu của Dan Brown trong cuốn tiểu thuyết của
ông ta: “Da Vinci code” và những kẻ phổ biến khác, theo đó, Constantin, vì
những lý do cá nhân, qua một sắc lệnh ân xá và với Công đồng Nicée, đã biến một
giáo phái gốc Do Thái giáo vốn không mấy ai biết đến trước đó thành tôn giáo
của đế quốc, chứng tỏ đã hoàn toàn không biết gì về điều đã xẫy ra trước những
biến cố này.
II. Những nguyên nhân dẫn đến thành công
Một vấn nạn vẫn luôn làm say mê các sử
gia, đó là những lý do nào đã dẫn Kitô giáo đến chỗ chiến thắng khải hoàn như
vậy. Một sứ điệp đã vang lên trong một xó góc tối tăm và bị khinh rẻ của đế
quốc, giữa những đám dân đen giản đơn, không văn hoá và không quyền lực, mà
trong chưa đầy 3 thế kỷ, đã lan tràn ra đến tận cả nơi thế giới vốn được nhiều
người biết đến thời đó, và cuối cùng thống trị trên cả nền văn hoá đỉnh cao của
những người Hy Lạp và trên cả sức mạnh quyền lực vô địch của đế quốc Rôma! Giữa
những lý do dẫn đến thành công khác nhau, một số người nhấn mạnh trên tình yêu
Kitô và việc tích cực thực thi đức bác ái, đến độ biến công việc thực thi bác
ái này thành “yếu tố chủ đạo mạnh mẽ nhất, có một không hai, dẫn đến thành công
của niềm tin Kitô”, đến độ người ta còn quy kết cho hoàng đế Julien l’Apostat
cái việc sau này vì muốn cạnh tranh với thành công của những người Kitô hữu đã
chủ trương người ngoại giáo cũng cần phải có những công việc bác ái như vậy.
Harnack, về phần mình, gán một tầm quan
trọng lớn cho điều mà ông ta gọi là bản chất “dung nạp” (la nature
“syncrétiste”) của niềm tin Kitô, tức là khả năng hoà hợp nơi mình những khuynh
hướng vốn đối nghịch nhau và những giá trị khác nhau hiện diện trong các tôn
giáo và trong nền văn hoá đương thời. Kitô giáo, đồng thời, trong cùng lúc vừa
hiển hiện ra như tôn giáo của Thần Khí và của sức mạnh, tức là còn được kèm
theo bởi những dấu chỉ siêu nhiên, bởi những đặc sủng và những phép lạ, vừa như
tôn giáo của lý trí và của Ngôi Lời toàn thể (Logos intégral), như là “nền
triết học thực sự” (la vraie philosophie), theo lối nói của Thánh Tử đạo
Justin. Các tác giả Kitô là “những nhà duy lý về cái siêu nhiên”, Harnack khẳng
định khi trích dẫn Phaolô và các lời nói của ngài về niềm tin được diễn tả như
là “sự tôn thờ đích thực” (Rm 12,1).
Theo cách đó, trong một tình trạng quân
bình hoàn hảo, Kitô giáo đã tập hợp lại được trong mình điều mà triết gia
Nietzsche đã định nghĩa như là sự liên kết giữa yếu tố thuộc thần Apolon và yếu
tố thuộc thần rượu của tôn giáo Hy Lạp, giữa Lời (Logos) và Thần Khí (Pneuma),
giữa trật tự và nhiệt tình, giữa chừng mực và thái quá. Đó chính là điều mà các
Giáo phụ, ít nhất là một phần, đã hiểu qua đề tài “cơn say ngất Thần Khí thanh
nhã” (la “sobre ivresse de l’Esprit”).
“Ngay từ đầu - nơi cuối cùng của công
trình nghiên cứu đồ sộ của mình, Harnack viết - tôn giáo Kitô đã để lộ cho thấy
một thứ chiều kích phổ quát, vốn đã cho phép tôn giáo này thu nạp được vào mình
toàn bộ đời sống, cùng với toàn bộ những chức năng, những chiều đi lên và những
chiều sâu, những cung bậc tình cảm, những tư duy và những hành động của nó.
Chính tinh thần phổ quát này đã bảo đảm cho Kitô giáo có được chiến thắng đó.
Đó chính là điều đã dẫn Kitô giáo đến chỗ dám tuyên xưng rằng Đức Giêsu mà nó
đang loan báo là Lời Thiên Chúa… Một tia sáng mới đang rọi soi cho nó, và sức
cuốn hút mạnh mẽ mà đã khiến cho Kitô giáo đạt được đến chỗ hấp thu luôn cả nền
Văn minh Hy Lạp, khiến cho nền văn minh đó luỵ phục mình, để lộ ra cho thấy đó
như là một sự tất yếu. Tất cả gì, cách nào đó, vẫn còn có khả năng mang trong
mình sự sống đều nhập được vào như một yếu tố trong cấu trúc của nó… Làm sao mà
một tôn giáo như thế lại có thể không thành công được chứ?”
Ấn tượng chung mà người ta có khi đọc
tổng hợp này đó là thành công của Kitô giáo vốn tuỳ thuộc vào cả một tổ hợp bao
gồm nhiều nhân tố. Một số người còn đi xa trong nỗ lực tìm kiếm những nguyên
nhân của một thành công như vậy, đến độ đã tìm thấy có đến 20 lý do thuận lơi
cho niềm tin và cũng từng ấy lý do cản trở sự phát triển của niềm tin, như kiểu
lối thoát cuối cùng tuỳ thuộc vào chiến thắng của những yếu tố thuận lợi trên
những yếu tố không thuận lợi.
Ngay bây giờ đây, tôi muốn chứng tỏ cho
thấy hạn chế của một lối tiếp cận dựa trên lịch sử như vậy, mặc dù cung cách
tiếp cận này có được tiến hành bởi những sử gia tín hữu như những người mà tôi
đã nêu lên cho đến lúc này. Giới hạn này, vốn nằm ở nơi chính phương pháp lịch
sử, đó là do người ta đã quá chú trọng đến chủ thể hơn là đối tượng của nỗ lực
truyền giáo, đến những người loan báo Tin Mừng và những điều kiện trong đó nỗ
lực truyền giáo diễn ra hơn là đến chính nội dung của nỗ lực này.
Lý do thúc đẩy tôi phải làm điều này,
bởi vì giới hạn này cũng là giới hạn và nguy cơ mà người ta thường gặp thấy
trong nhiều lối tiếp cận hiện nay và trên các phương tiện truyền thông, khi nói
về nỗ lực mới rao giảng Tin Mừng. Người ta quên một điều hết sức đơn giản: đó
là chính Đức Giêsu đã cho chúng ta biết trước một lối giải thích về việc lan
truyền Tin Mừng của Ngài rồi, và mỗi lần muốn chuẩn bị cho một nỗ lực truyền
giáo mới, chúng ta cần phải lại khởi đi từ đó.
Chúng ta hãy nghe lại 2 dụ ngôn ngắn của
Tin Mừng, dụ ngôn hạt giống được gieo và lớn lên ngay cả trong đêm khuya và dụ
ngôn hạt cải bé tí. “Đức Giêsu nói: ‘Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như
chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay
thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không
biết. Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết, cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng
đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm
hái ra gặt, vì đã đến mùa’” (Mc 4,26-29).
Dụ ngôn này, chỉ mình nó thôi, cũng đã
đủ đế nói với chúng ta rằng lý do thành công chủ yếu của nỗ lực truyền giáo
Kitô không đến từ bên ngoài, mà đến từ bên trong, rằng công cuộc truyền giáo
không phải là công trình của người gieo giống, cũng chẳng phải là của đất đai, mà
là của chính hạt giống được gieo. Hạt giống không thể tự mình gieo xuống lòng
đât, tuy nhiên, hạt giống cách tự động và tự mình nẩy mầm. Sau khi gieo hạt
giống xuống đất, người gieo giống có thể an tâm đi ngủ, sự sống còn của hạt
giống không còn lệ thuộc vào ông ta nữa. Khi hạt giống này là “hạt giống được
gieo vào lòng đất và chết đi”, Đức Giêsu còn nói là chẳng có gì có thể ngăn cản
nó “mang lại nhiều hoa trái”. Về những thứ hoa trái này người ta có thể đưa ra
đủ thứ giải thích mà người ta muốn, những giải thích này dầu vậy vẫn luôn chỉ
nằm ở bề mặt của vấn đề mà thôi, chứ không bao giờ nắm bắt được điều chính yếu.
Tông đồ Phaolô, cách sáng suốt, là người
đã dành ưu tiên hàng đầu cho đối tượng của loan báo so với chủ thể: “Tôi
trồng, Apollo tưới: nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho tăng trưởng”.
Những lời này xem ra bình chú dụ ngôn của Đức Giêsu. Ba công việc này không
phải có cùng mức độ quan trọng như nhau; thật vậy, vị Tông đồ còn thêm: “Vì
thế, kẻ gieo chẳng là gì, người tưới cũng chẳng là chi; duy chỉ có Đấng làm cho
tăng trưởng mới là đáng kể!” (1 Cr 3,6-7). Khoảng cách biệt trên cơ sở phẩm
tính như thế giữa chủ thể và đối tượng của loan báo còn được tìm thấy trong một
lời khác của vị Tông đồ: “Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong
những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ
không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4,7). Tất cả điều đó được diễn dịch ra trong
những tiếng kêu trần tình như đã được định sẵn trước: “Không phải chúng tôi
rao giảng chính mình, mà là rao giảng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng tôi!”; hay còn
nữa: “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá”.
Đức Giêsu còn công bố một dụ ngôn thứ
hai trên cơ sở hình ảnh hạt cải, nhằm giải thích thành quả của công cuộc truyền
giáo Kitô, và vẫn còn đầy ý nghĩa đối với ngày hôm nay, khi mà Giáo Hội đang
đầu tư cho một nỗ lực mênh mông nhằm tái Tin Mừng hoá lại cái thế giới đang bị
tục hoá này.
“Đức Giêsu nói: ‘Chúng ta ví Nước
Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được? Nước Thiên Chúa
giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất.
Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến
nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng’” (Mc 4,30-32).
Giáo huấn mà Đức Giêsu muốn dạy ta qua
dụ ngôn này đó là Tin Mừng của Ngài, chính Ngôi Vị của Ngài, là tất cả gì vốn
rất nhỏ bé trên mặt đất này, vì rằng chẳng còn gì nhỏ bé hơn và yếu ớt hơn là
một cuộc đời chấm dứt với một cái chết nhục nhã trên thập tự giá. Tuy nhiên,
“hạt cải nhỏ bé này” lại đã được định phần để trở nên một cây to lớn, to lớn
bao la đến độ các cành của nó có khả năng đón nhận tất cả mọi giống chim trời
đến trú ngụ. Điều đó có nghĩa là toàn thể thụ tạo, đúng vậy, toàn thể, sẽ đến
trú ẩn trên đó.
Một lối nhìn khác lạ biết bao so với
những tái cấu trúc trình bày qua lăng kính lịch sử như đã được nêu lên trên
đây! Nơi những lối nhìn lịch sử đó, tất cả đều có vẻ không chắc chắn, bấp bênh,
bị treo lơ lửng giữa khả năng thành công và khả năng thất bại; còn ở đây, tất
cả đều đã được quyết định và bảo đảm ngay từ đầu! Trong đoản văn nói về việc
xức dầu ở Béthanie, Đức Giêsu đã kết luận với những từ này: “Thầy bảo thật
anh em: Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì
người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô” (Mt 26,13). Cũng
cùng một ý thức thanh thản đó rằng một ngày nào đó sứ điệp của mình sẽ được lan
toả ra “trên khắp cùng thế giới”. Đã hẳn, đây không phải là một lời tiên tri
“sau khi đã xảy ra sự việc” (“post eventum”), vì rằng ngay thời điểm lời này
được nói ra tất cả cho thấy là tình hình có vẻ đi theo chiều hướng ngược lại.
Cả nơi điều này cũng vậy, giữa tất cả,
Phaolô vẫn là người nắm bắt được cách tốt nhất “mầu nhiệm được giấu kín”. Có
một sự kiện vẫn luôn luôn làm cho tôi cảm kích xúc động: vị Tông đồ đã giảng
đạo tại Quảng trường Tự do ở Athènes và đã phải chịu việc người ta từ chối sứ
điệp của mình, cách khá lịch sự, kèm theo lời hứa là sẽ nghe lại một dịp khác.
Ở Côrintô, nơi mà Phaolô đã đi tới ngay sau đó, ngài đã viết Thư gửi những Tín
hữu Rôma, trong đó ngài khẳng định đã nhận được mênh lệnh phải cố gắng dẫn đưa
“mọi dân nước đến chỗ tuân phục đức tin” (Rm 1,5-6). Thất bại ở Athènes không
mảy may đụng chạm gì đến niềm tín thác mà ngài vẫn có nơi sứ điệp này: “Vâng,
tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để
cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do Thái, sau là người Hy Lạp”
(Rm 1,16).
“Mỗi thứ cây - Đức Giêsu nói - được
nhận ra nhờ nơi quả của nó” (Lc 6,44). Điều đó có giá trị đối với mọi thứ
cây, ngoại trừ cây vốn xuất ra tự Ngài, cây Kitô giáo (và thật vậy, ở đây Ngài
nói về những con người); Kitô giáo là thứ cây duy nhất người ta không nhận ra
được nhờ nơi các quả của nó, mà là nhờ nơi gốc rễ của nó. Trong Kitô giáo, tình
trạng viên toàn không ở nơi cùng tận, như trong biện chứng pháp của Hégel về
cái trở thành (“cái thật là tất cả”), mà đã có ngay tự ban đầu; chăng có trái
trăng nào, thậm chí cả nơi các vị thánh vĩ đại nhất, thêm thắt được gì vào tình
trạng hoàn hảo của mô mẫu. Trong chiều hướng này, quả là có lý kẻ đã khẳng định
rằng “Kitô giáo không phải là cái gì có thể hoàn thiện” (“le christianisme
n’est pas perfectible”).
III. Gieo hạt giống xuống, rồi… đi nằm
ngủ
Điều mà các sử gia về Kitô giáo thời
khai nguyên đã không lưu ý, hoặc đã đánh giá là không mấy quan trọng, đó là
niềm xác tín không thể nào kiểm soát nổi mà các Kitô hữu ngày xưa, chí ít là
những phần tử ưu tú trong bọn họ, đã có đối với cái vẻ tốt đẹp và chiến thắng
cuối cùng của vụ việc của họ. “Các ông có thể giết chết chúng tôi, nhưng
không bao giờ làm hại được chúng tôi”, Thánh Tử đạo Justin đã nói như vậy
với vị quan toà Rôma đã kết án tử cho ngài. Sau cùng, chính niềm xác tín thanh
thản đó đã bảo đảm chiến thắng cho các Kitô hữu sơ khai, đã khiến cho các thẩm
quyền chính trị bị khuất phục để nhận ra được sự vô ích của những nỗ lực của họ
nhằm loại bỏ niềm tin Kitô.
Đó chính là điều mà ngày hôm nay chúng
ta đang cần hơn cả: nơi các Kitô hữu, chí ít nơi những kẻ cho mình có nhiệm vụ
cống hiến đời mình cho công trình loan báo Tin Mừng mới này, hãy đánh thức nơi
họ niềm xác tín thâm sâu về sự thật của điều mà họ đang loan báo. “Giáo Hội
- một ngày kia Đức Thánh Cha PHAOLÔ VI đã nói - có nhu cầu cần phải tìm lại
nỗi thao thức ưu tư, sở thích và niềm xác tín chắc chắn về chân lý của mình”.
Chúng ta phải là những người đầu tiên tin nơi điều mà chúng ta loan báo; nhưng
phải tin thực sự mới được. Chúng ta phải có thể nói cùng với Phaolô: “Vì có
được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi
cũng tin, nên chúng tôi mới nói” (2 Cr 4,13).
Công việc cụ thể mà hai dụ ngôn của Đức
Giêsu trao phó cho chúng ta đó là gieo hạt giống. Gieo không tiếc tay, “lúc
thuận cũng như lúc nghịch” (2 Tm 4,2). Người gieo giống của dụ ngôn ra đi gieo
hạt giống chẳng quan tâm gì đến chuyện một phần của hạt giống sẽ rơi trên đường
đi và một phần khác rơi vào bụi gai, và phải nói rằng người gieo giống này, nằm
ngoài dụ ngôn, chính là Đức Giêsu! Vì chưng, trong trường hợp này, người ta
không thể nào biết trước được đâu là mảnh đất tốt hay rắn cứng như đường rải
nhựa và bóp nghẹt như một bụi gai. Đây chính là chỗ còn tuỳ vào tự do mà con
người vốn không thể nào tiên liệu trước được và chính Thiên Chúa cũng chẳng
muốn thô bạo can thiệp vào. Biết bao lần trong cuộc sống người ta đã chẳng khám
phá ra rằng giữa những người đã nghe bài giảng nào đó hay đã đọc một cuốn sách
nào đó, kẻ thực sự nghiêm túc quan tâm tới nó và nhờ đó đã thay đổi được cuộc
sống của mình lại là kẻ mà người ta ít chờ đợi nhất, là kẻ đã có mặt ở đó có
khi chỉ tình cờ hay có khi chỉ vì miễn cưỡng? Trong đời mình, tôi cũng đã chứng
kiến cả hàng chục trường hợp như vậy.
Vì thế, hãy cứ gieo hạt giống xuống đất,
và rồi sau đó… đi ngủ! Nói cách khác, cứ gieo giống đi và rồi đừng cứ ở mãi đó
để nhìn xem khi nào hạt giống mọc lên, ở đâu nó mọc lên, mỗi ngày nó mọc lên
được bao nhiêu centimét. Việc bén rễ và tăng trưởng ra sao không phải là việc
của chúng ta mà là việc của Thiên Chúa và của kẻ nghe. Một nhà hài hước nổi
tiếng nước Anh thế kỷ XIX, Jerome Klapka Jerome, có nói rằng cách tốt nhất để
làm cho quá trình sôi chín trong một cái xoong chậm lại đó là người ta cứ ở lại
bên trên và thấp thỏm đợi chờ.
Làm ngược lại chỉ tổ gây ra bao lo âu và
mất kiên nhẫn mà thôi: khi còn ở trên trái đất, Đức Giêsu đã không thích như
thế và cũng không bao giờ làm thế. Các sách Tin Mừng cho thấy hình như Đức
Giêsu không bao giờ tỏ ra vội vã. “Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai:
ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34).
Về chuyện này, nhà thơ tín hữu Charles
Péguy đặt vào môi miệng Thiên Chúa những lời mà cũng đáng cho chúng ta suy
ngẫm:
“Người ta nói với Ta rằng có những con người
Lao động thì tốt mà ngủ thì không tốt.
Chúng không ngủ. Ôi! Đó là dấu chỉ chúng không tín thác nơi Ta!
Đó là điều nghiêm trọng, vì thà rằng chúng không lao động mà ngủ
còn hơn, vì tội lười biếng thì nhẹ hơn cái tội bất an…
Ta không nói về, Thiên Chúa phán, những con người
Không lao động mà cũng chẳng ngủ.
Đó là những con người tội lỗi, dĩ nhiên…
Ta nói về những kẻ lao động mà không ngủ…
Ta phàn nàn về chúng. Ta oán giận chúng. Một chút. Chúng đã không
tín thác vào Ta.
…
Ban ngày, chúng điều hành công việc của chúng rất tốt.
Nhưng ban đêm, chúng không muốn phó thác công việc điều hành ấy cho
Ta…
Kẻ nào không ngủ là không trung thành với Đức Cậy…”.
Những suy tư, như đã được trình bày
trong bài suy niệm này, cổ vũ chúng ta, như một kết thúc, hãy lấy Đức Tin và
Đức Cậy mạnh mẽ làm nền tảng cho mọi dấn thân trong nỗ lực loan báo Tin Mừng
mới, hãy gạt bỏ ra khỏi chúng ta mọi thứ cảm giác bất lực và nhẫn nhục cam
chịu. Thật vậy, trước mắt chúng ta là cả một thế giới đang bị tục hoá, đang say
sưa vì những thành quả đạt được trong lĩnh vực kỹ thuật và vì những khả thể mà
khoa học có thể cống hiến cho, trơ lì với loan báo Tin Mừng. Nhưng, thế giới
của những Kitô hữu đầu tiên - thế giới Hy Lạp với kho tàng kiến thức đồ sộ của
nó và Đế quốc Rôma với sức mạnh của nó - cách ngẫu nhiên trùng hợp, lại đã
chẳng kém phần trơ lì với Tin Mừng đó sao?
Nếu có một điều mà chúng ta có thể làm
sau khi “đã gieo hạt giống xuống đất”, thì đó là công việc, bằng kinh nguyện,
“tưới nước” lên hạt giống đã gieo. Vì thế, chúng ta hãy kết thúc bài suy niệm
này bằng kinh nguyện mà phụng vụ đã muốn cho chúng ta đọc trong Thánh lễ “cầu
nguyện cho việc loan báo Tin Mừng cho muôn dân”:
Lạy Thiên Chúa, Chúa vẫn hằng muốn tất cả mọi người đều được cứu độ
và nhận biết được chân lý,
xin Chúa hãy nhìn xem mùa màng bát ngát bao la biết bao nhiêu
và xin hãy sai các thợ gặt đến,
để Tin Mừng được loan báo cho từng mỗi thụ tạo
và để dân của Ngài, được quy tụ lại nhờ lời hằng sống
và được khuôn đúc bởi sức mạnh của các bí tích,
được tiến lên trên con đường cứu độ và tình yêu.
Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Raniero Cantalamessa, ofmcap
Lm. Phêrô Nguyễn Thiên Cung dịch
Nguồn: Dịch từ
bản Pháp ngữ của Zenit (Isabelle Cousturié)
(emty.org Cập nhật: 03/01/2012 - 17:13:31)