BÀI II

“KHÔNG CÒN CÓ SỰ PHÂN BIỆT HY LẠP HAY DO THÁI,

MAN DI MỌI RỢ HAY NGOẠI GIÁO”

 

Đợt sóng loan báo Tin Mừng mạnh mẽ thứ hai sau khi châu Âu bị xâm nhập bởi những sắc dân man di

Trong bài suy niệm này, tôi muốn nói về đợt sóng lớn thứ hai trong nỗ lực loan báo Tin Mừng, đợt sóng, mà trong lịch sử của Giáo Hội, tiếp ngay sau sự sụp đổ của đế quốc Rôma và trong bối cảnh có một tình trạng lẫn lộn giữa các sắc dân được tạo ra bởi cuộc xâm lăng của những người man di, nhằm, lại một lần nữa, cách cụ thể xem xem điều gì mà ngày hôm nay chúng ta có thể học tập được từ đợt sóng loan báo Tin Mừng này. Ý thức rất rõ chiều kích rộng lớn của thời kỳ lịch sử này và giới hạn của một bài suy niệm, vì thế xin hãy coi đây như chỉ là một chuyến tham quan chớp nhoáng mà thôi.

I. Một quyết định ghi dấu lên toàn bộ cả một giai đoạn

Vào thời điểm cách chính thức đế quốc Rôma coi như sụp đổ, năm 476, châu Âu, kể từ đó và lâu dài sau nữa, mang một khuôn mặt mới. Không còn đế quốc nữa, nhưng thay vào đó, cơ man nào là những vương quốc “man di” xuất hiện. Cách chung chung, khởi đi từ phía Bắc, tình hình là như sau: nơi vùng đất thuộc địa cũ của Rôma ở Britania, người ta gặp thấy những sắc dân Angles và Saxons, trong những vùng thuộc địa cũ ở Gaule, người ta gặp thấy những sắc dân Francs, phía Đông sống Rhin, người ta gặp thấy những sắc dân Frisons và Alamans, trong bán đảo Ibérique (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha), người ta gặp thấy những sắc dân Wisigoths, ở Italia, người ta gặp thấy những sắc sân Ostrogoths,  sau đó, còn có những sắc dân Lombards, và ở Bắc Phi, người ta gặp thấy những sắc dân Vandales. Ở phương Đông, đế quốc Byzantin vẫn còn cầm cự được.

Giáo Hội đứng trước một quyết định mà sẽ ghi dấu ấn lên toàn bộ thời kỳ này: trước tình hình mới này, cần phải chọn thái độ nào đây? Để có được một quyết định mà sẽ mở toang Giáo Hội ra với tương lai, không phải là câu chuyện một sớm một chiều và không tạo ra những rạn nứt bên trong nội bộ Giáo Hội. Cũng như đã từng xảy ra trong biến cố Giáo Hội sơ khai khi phải tách ra khỏi quỹ đạo Do Thái giáo để đón nhận anh em lương dân vào với Giáo Hội, ở đây, có một chút gì đó tương tự cũng đang được lặp lại. Sự mất phương hướng chung của các Kitô hữu đã đạt đến tột đỉnh của nó khi thành phố Rôma bị Alaric, vua của những người Goths, cướp phá, năm 410. Người ta cứ nghĩ rằng ngày tận cùng thế giới đã đến, vì người ta đồng hoá thế giới với thế giới Rôma, và thế giới Rôma với Kitô giáo. Tiếng kêu thảng thốt của thánh Jêrôme tiêu biểu cho tình trạng mất phương hướng chung chung này: “Ai mà lại có thể tin được - ngài đã viết vậy - rằng Rôma sẽ sụp đổ, một Rôma mà biết bao chiến thắng hiển hách trên khắp toàn cầu đã xây dựng được những nền móng vững chắc như vậy?”

Về mặt tri thức, người đã có nhiều đóng góp nhất cho việc đưa niềm tin đi vào được trong thế giới mới này, đó là Augustin, với tác phẩm “De civitate Dei” (Thành Đô của Thiên Chúa). Trong nhãn quan của ngài, vốn ghi dấu bước khởi đầu cho một thứ triết học về lịch sử, Thành Đô Thiên Chúa được phân biệt ra khỏi Thành Đô thế tục, mà có lúc (vì quá hăng trong quá trình tư duy) đã được ngài đồng hóa với Thành Đô Satan. Điều mà Augustin hiểu qua khái niệm Thành Đô thế tục đó là tất cả gì liên quan đến lãnh vực chính trị, ở đây phải hiểu luôn cả Thành Đô Rôma. Vì thế, không có ngày cùng tận của thế giới, mà chỉ có ngày cùng tận của một thế giới nào đó mà thôi!

Cách cụ thể, chính Đức Giáo hoàng ở Rôma mới là người đóng vai trò quyết định trong việc mở toang tôn giáo ra với thực tại mới này, và là người điều phối các sáng kiến lại với nhau. Thánh Giáo hoàng Léon Cả vốn ý thức rất rõ rằng Rôma Kitô vẫn sẽ còn tồn tại ngay cả sau khi Rôma ngoại giáo đã bị tiêu diệt, hơn nữa, Rôma Kitô đó “sẽ vươn dài ảnh hưởng tôn giáo thần linh của mình ra còn bao la gấp nhiều lần so với ảnh hưởng mà nó đã tạo ra được do sự thống trị thế tục”.

Dần dần, có một sự thay đổi nơi thái độ của các Kitô hữu đối với các dân tộc man di;  không còn bị coi như những sinh vật hạ đẳng, không có khả năng hấp thụ văn minh, các sắc dân man di, từ nay, được coi như những con người có thể trở thành anh em trong đức tin. Ngày xưa, các dân tộc man di bị coi như một mối đe doạ thường xuyên, nay, dưới con mắt của các Kitô hữu, họ bắt đầu xuất hiện như một cánh đồng truyền giáo mới, mênh mông. Phaolô, cùng với Đức Giêsu Kitô, đã công bố bãi bỏ  các phân biệt về sắc tộc, về tôn giáo, về văn hoá và về giai cấp xã hội khi nói: “Vậy, không còn phải phân biệt Hy Lạp hay Do Thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người” (Cl 3,11); và đã có biết bao nhiêu nỗ lực mới đưa được công cuộc cách mạng này vào trong thực tế của lịch sử! Và, đó không phải chỉ là chuyện ngày xưa!

II. Một nỗ lực Tin Mừng hoá mới cho châu Âu

Đối diện với các sắc dân man di, Giáo Hội trong cùng lúc phải lao vào hai cuộc chiến. Cuộc chiến thứ nhất, nhằm chống lại lạc giáo của Arius. Một số lớn các bộ tộc man di, nhất là những người thuộc sắc dân Goths, trong quá trình đi chinh phục, trước khi xâm nhập được vào trung tâm của đế quốc, đã có những giao tiếp, ở phương Đông, với Kitô giáo vốn đã bị lây nhiễm ít nhiều bởi lạc giáo của Arius, vì thế, ít nhiều gì họ cũng bị lây nhiễm bởi lối nhìn lệch lạc này, mà lúc đó vốn đang thịnh hành, nhất là do công trình của vị giám mục đang ở bên họ, là Wulfila (311-383), người đã dịch Thánh Kinh ra ngôn ngữ gothique. Một khi định cư trong những lãnh thổ phương Tây, những bộ tộc man di này cũng mang theo mình một thứ Kitô giáo lây nhiễm lạc giáo của Arius xưa.

Nhưng, lạc giáo của Arius vốn không có cơ cấu tổ chức trung ương tập quyền, cũng chẳng có một nền văn hoá hay một nền thần học có thể so sánh được với nên thần học của những người Công giáo. Trong suốt thế kỷ VI, lần lượt, các vương quốc man di đã từ bỏ lạc giáo của Arius để gia nhập niềm tin Công giáo, nhờ công trình của một số vị giám mục vĩ đại và những văn sĩ Công giáo, đôi khi cũng do bởi những toan tính chính trị nữa. Công đồng Tolède, năm 589, đã là một thời điểm có tính quyết định. Với sự hậu thuẫn của Léandre de Séville, Công đồng đã xoá sổ khuynh hướng lạc giáo của Arius nơi các sắc dân wisigoth ở Tây Ban Nha và, thực sự là trên toàn bộ phương Tây.

Cuộc chiến chống lại lạc giáo của Arius, tuy vậy, không phải là điều gì mới mẻ. Cuộc chiến này thực ra đã bắt đầu trước đó, từ những năm 325. Tiến trình mới mẻ đích thực mà Giáo Hội đang dấn bước vào cho đến cùng, sau khi đế quốc Rôma thoái trào đó là nỗ lực Tin Mừng hoá anh em lương dân. Nỗ lực Tin Mừng hoá nấy đi theo 2 hướng: tạm gọi, là hướng nội và hướng ngoại,  tức là nơi các dân tộc thuộc đế quốc cũ và nơi các dân tộc vừa mới xuất hiện trên diễn đàn sân khấu châu Âu. Trong những vùng đất của đế quốc cũ, Italia và các tỉnh thành, cho đến lúc này, Giáo Hội hầu như duy nhất chỉ cắm rễ trong các thành phố. Vấn đề bây giờ là làm sao vươn ra  ngoài hiện diện được nơi cả các miền quê và các làng mạc. Hạn từ “lương dân” (“paien”), như người ta biết đấy, xuất phát từ “pagus” có nghĩa là làng quê, và hạn từ đó phải mang cái nghĩa đó như hiện nay là do việc Tin Mừng hoá các vùng quê, nói chung, đã diễn ra khá lâu sau việc Tin Mừng hoá các thành thị.

Đã hẳn, sẽ rất thú vị khi lần theo sợi chỉ đỏ nỗ lực Tin Mừng hoá và ngược dòng trở lại thời khai sinh và phát triển của hệ thống các giáo xứ, như là những phân bố nhỏ ra của giáo phận, thế nhưng, mục đích của tôi ở đây là giới hạn nơi hướng loan báo tin mừng khác, hướng hướng ngoại, tức là việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc man di, vốn đã định cư ổn định ở các đảo và ở trung tâm của châu Âu, nói cách khác, ở Anh, Hà Lan, Pháp và Đức ngày nay.

Biến cố vua Clovis, thuộc dòng dõi mérovingien, tòng giáo và đã được thánh Rémi, giám mục thành Reims ban phép thánh tẩy cho vào đêm Noël, năm 498 hoặc 499, đã tạo ra một khúc quanh lịch sử hết sức quan trọng và có tính quyết định. Theo thông lệ của thời đó, biến cố này, như vậy, quyết định không chỉ tương lai tôn giáo của dân Franc, mà còn cả tương lai của các sắc dân khác mà nhà vua đã chinh phục được, bên này và bên kia sông Rhin. Lúc ban Bí tích Thánh Tẩy cho vua Clovis, Giám mục Rémi đã tuyên bố một câu thời danh: “Mitis depone colla, Sigamber; adora quod incendisti, incende quod adorasti” (“Này hỡi Sicambre, hãy khiêm tôn cúi đầu, thờ lạy cái mà ngươi đã đốt cháy, và đốt cháy đi cái mà người đã thờ lạy!”). Chính ở nơi biến cố này mà nước Pháp đã được gán cho tước hiệu “con gái đầu lòng của Giáo Hội”.

Nỗ lực Kitô giáo hoá lục địa châu Âu chấm dứt vào thế kỷ IX, cùng với việc trở lại của các sắc dân Slaves, nhờ công lao của hai thánh Cyrille và Méthode. Các sắc dân này đã đến xâm chiếm các vùng đất phía Đông châu Âu, mà các đợt sóng di dân trước kia đã vội bỏ qua để tiến nhanh về phía Tây.

Những điều kiện Tin Mừng hoá nơi các sắc dân man di hoàn toàn mang một hình thức khác, khác với những điều kiện mà người ta đã biết nơi thế giới Hy Lạp và Rôma, nơi mà đối tượng Kitô giáo hoá là một thế giới văn minh, có tổ chức hẳn hoi, có những quy tắc, những luật lệ, những thứ ngôn ngữ chung. Có thể nói là đã có cả một nền văn hoá để người ta đối thoại với và chạm trán với. Bây giờ đây, Kitô giáo sẽ phải trong cùng lúc đối mặt với hai công việc: văn minh hoá và Tin Mừng hoá. Phải dạy đọc và dạy viết cho họ, hoàn toàn chỉ với mục đích phục vụ cho việc tiếp thu giáo lý Kitô. Việc hội nhập văn hoá phải được thực hiện theo một cách thức mà trước đây hoàn toàn chưa từng có.

III.  Thiên anh hùng ca của các đan sĩ

Công trình đồ sộ mà ở đây tôi chỉ có thể phác hoạ những đường nét chính yếu mà thôi đã được tiến hành với sự tham gia của tất cả mọi thành viên trong Giáo Hội. Trước tiên, đó là sự tham gia của Đức Giáo hoàng, kẻ mà nhờ sáng kiến trực tiếp của ngài khởi phát nỗ lực Tin Mừng hoá các sắc dân Angles, và là kẻ đã tích cực tham gia vào việc Tin Mừng hoá nước Đức vốn được tiến hành bởi Thánh Boniface, và vào việc Tin Mừng hoá các sắc dân Slaves, được tiến hành bởi hai thánh Cyrille và Méthode; tiếp đến, là sự tham gia của các giám mục, các cha sở, tuỳ theo mức độ các cộng đoàn ngày càng được hình thành rõ nét hơn và trở nên ổn định hơn. Một số phụ nữ cũng đã đóng góp một vai trò tuy âm thầm nhưng mang tính quyết định. Đàng sau những cuộc trở lại quan trọng của các ông vua thuộc sắc tộc man di, thường thấy thấp thoáng bóng dáng ảnh hưởng của các bà vợ của họ: Thánh nữ Clotilde đối với vua Clovis, Thánh nữ Théodolinde đối với ông vua nhà lombard là Autharis, bà vợ công giáo của vua Edwin, người đã du nhập Kitô giáo vào miền Bắc nước Anh.

Nhưng, chính các đan sĩ mới là những diễn viên chính của công cuộc tái Tin Mừng hoá châu Âu, sau khi các sắc dân man di xâm nhập vào châu Âu. Ở phương Tây, phong trào đan viện, vốn đã bắt đâu từ thế kỷ IV, đã nhanh chóng lan rộng, nhưng qua hai thời kỳ và xuất phát từ hai hướng khác nhau. Đợt sóng thứ nhất khởi đi từ miền Nam và miền Trung của Gaule, nhất là từ Lérins (410) và từ Auxerre (418), và, nhờ công lao của Thánh Patrick, vốn đã được đào tạo tại cả hai trung tâm đó, đợt sóng thứ nhất này đã thu về được Irlande, mà tất cả mọi hoa trái đời sống tôn giáo đều sẽ lệ thuộc vào nó. Từ đó, phong trào đan viện vượt qua đến vùng Ecosse, cùng với Thánh Colomba, đấng sáng lập Đan viện Iona (521-597), và cùng với Thánh Cuhbert quê Lindisfarne (635-687), ở miền Bắc nước Anh, nơi mà ngài đã gieo trồng được một thứ Kitô giáo và một thứ phong trào đan viện mang màu sắc đặc thù celtique.

Những khởi đầu của đợt sóng đan viện thứ hai, chủ yếu là dành chiếm lại lợi thế trong cuộc chiến và hiệp nhất được các hình thái khác nhau của khuynh hướng đan viện phương Tây lại với nhau, có lẽ phải tính từ thời thánh Benoît (+ 547) như là khởi điểm. Thuộc về đợt sóng thứ hai này phải kể đan sĩ Augustin và các bạn bè của ông, vốn đã được Thánh Giáo hoàng Grégoire Cả sai đi. Những người này loan báo Tin Mừng cho mạn Nam nước Anh, mang lại cho vùng này một thứ Kitô giáo mẫu mã Rôma, mà cuối cùng sẽ đánh bại thứ Kitô giáo theo kiểu celtique, và từ đó khiến cho Kitô giáo ở đây hài hoà được với phần còn lại của thế giới Kitô giáo, thí dụ như việc thống nhất được thời điểm của Ngày Lễ Phục Sinh.

Từ thế kỷ V đến thế kỷ VIII, châu Âu hoàn toàn bị bao vây bởi các đan viện, mà nhiều trong số đó sẽ đóng một vai trò hàng đầu trong việc hình thành lục địa này, trong việc định hình dung mạo tôn giáo và còn cả nghệ thuật, văn hoá và nông nghiệp. Chính trên cơ sở đó mà Thánh Benoît đã được tuyên phong là Quan Thầy của châu Âu, và mà vì thế Đức Thánh Cha, năm 2005, đã chọn Đan viện Subiaco làm nơi trình bày cách trọng thể về những gốc rễ Kitô giáo của châu Âu.

Hầu như tất cả các đan sĩ loan báo Tin Mừng vĩ đại đều xuất thân từ trào lưu được xếp hàng đầu trong 2 trào lưu đã được kể ra trên đây, tức là trào lưu diễn ra trên lục địa Irlande và nước Anh. Những cái tên tiêu biểu nhất đó là Thánh Colomban (542-651) và Thánh Boniface (672-754). Vị thứ nhất, khởi đi từ Luxeuil, đã loan báo Tin Mừng cho nhiều vùng mạn Bắc Gaule và những bộ tộc miền Nam nước Đức, sang đến tận Bobbio, nước Italia; vị thứ hai, vốn được coi như nhà truyền bá Tin Mừng cho nước Đức, đã trải dài hoạt động truyền giáo của mình đến tận vùng Frise, Hà Lan hiện nay. Ngày 11-3-2009, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã dành riêng một trong những bài giáo lý của ngài trong ngày thứ Tư cho vị thánh này (Boniface), nhằm nhấn mạnh đến những sợi dây liên kết chặt chẽ vẫn kết hợp vị thánh này với Giám mục Rôma và đến hoạt động văn minh hoá mà vị thánh này đã khởi xướng nơi các sắc dân mà ngài đã loan báo Tin Mừng.

Khi đọc lại cuộc đời của hai vị thánh này, người ta có ấn tượng như đang sống lại cuộc phiêu lưu truyền giáo của Tông đồ Phaolô ngày xưa: cũng cùng một niềm đam mê cháy bỏng mang Tin Mừng đến cho từng mỗi thụ tạo, cũng cùng một lòng dũng cảm dám đối diện với tất cả mọi thứ hiểm nguy và vất vả trên đường, cả đối với Thánh Boniface và biết bao người khác nữa, cũng cùng một số phận kết thúc đó là tử vì đạo.

Những lỗ hổng trong nỗ lực loan báo Tin Mừng trên quy mô rộng lớn này vốn được biết đến nhiều, và chính khi so sánh với Thánh Phaolô mà người ta mới có thể thấy rõ được đâu là lỗ hổng chính trong những lỗ hổng này. Vị Tông đồ, trong khi loan báo Tin Mừng, ở đâu ngài cũng canh cánh để thiết lập cho được một Giáo Hội có thể bảo đảm được tính liên tục và sự phát triển đời sống Kitô. Thông thường, vì thiếu phương tiện và vì những khó khăn không thể di chuyển được ngay bên trong một xã hội vẫn còn rối như bòng bong, nên các nhà tiên phong này vẫn chưa tìm ra được cách nào để bảo đảm được tính liên tục của công trình của mình.

Các dân tộc man di có khuynh hướng chỉ áp dụng một phần chương trình mà Thánh Rémi đã vạch ra cho vua Clovis mà thôi: họ thờ lạy cái mà họ đã thiêu huỷ, nhưng lại không thiêu huỷ cái mà họ đã từng thờ lạy. Một phần hành trang thờ cúng ngẫu tượng và ngoại giáo vẫn còn đó, và chờ hễ có dịp lại ngóc đầu lên. Điều đó cũng giống như lối mòn của một số con đường trong rừng: không được bảo dưỡng và ít được đi lại, những con đường này nhanh chóng sẽ bị nuốt mất và xoá hết dấu vết bởi khu rừng rậm xung quanh. Duy chỉ có một công trình tồn tại lâu dài nhất nơi các nhà truyền bá Tin Mừng vĩ đại này đó là việc các ngài đã lập được nền móng cho cả một hệ thống các đan viện và, cùng với Augustin ở Anh và Thánh Boniface ở Đức, thiết lập được những giáo phận và tổ chức được những nghị hội mà sau đó sẽ là một bảo đảm cho nỗ lực tái phục hồi lại một nỗ lực Tin Mừng hoá dài hơi hơn và đi vào chiều sâu hơn.

IV. Sứ vụ và chiêm niệm

Bây giờ đã đến lúc từ cái khung lịch sử này cần rút ra một vài chỉ dẫn cho ngày hôm nay. Điều trước tiên chúng ta cần ghi nhận đó là có một cái gì đó tương tự giữa thời kỳ mà chúng ta vừa mới viếng thăm và hoàn cảnh hiện nay. Vào thời đó, các dân di chuyển từ phía Đông sang phía Tây, còn bây giờ, di chuyển từ Nam lên Bắc. Giáo Hội, với thẩm quyền của mình, trong trường hơp này cũng vậy, đã chọn cho mình phạm vi hành động: cởi mở mình ra với cái mới và đón nhận những sắc dân mới.

Cái khác là ngày hôm nay đó không phải là những sắc dân ngoại giáo hay những Kitô hữu lạc giáo đến châu Âu, mà thường đó lại là những sắc dân đã có một tôn giáo được cơ cấu hẳn hoi và ý thức được mình là ai. Cái mới ở đây, vì thế, là nỗ lực đối thoại không đi ngược lại với việc loan báo Tin Mừng, mà là xác định phong cách của  nỗ lực này. Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Thông điệp “Redemptoris Missio” (“Sứ vụ của Đấng Cứu Chuộc”) nói về giá trị thường hằng của mệnh lệnh truyền giáo, đã trình bày cách rõ ràng như thế này: 

Sự đối thoại liên tôn là một thành phần nằm ngay trong sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Được hiểu như một phương pháp và như phương tiện nhằm có một sự hiểu biết lẫn nhau và làm giàu lẫn cho nhau, sự đối thoại liên tôn không chống lại sứ vụ loan báo Tin Mừng cho muôn dân, trái lại, cách biệt loại, nó liên kết với sứ vụ này và là một cách thế diễn tả sứ vụ đó… Dưới ánh sáng của kế đồ cứu độ, Giáo Hội đánh giá chẳng có gì mâu thuẫn giữa việc loan báo Đức Kitô và sự đối thoại liên tôn, nhưng, Giáo Hội cảm thấy có sự cần thiết là phải làm sao điều phối được cả hai nỗ lực này lại với nhau và đưa được vào trong cái khung của sứ vụ loan báo Tin Mừng cho muôn dân của Giáo Hội. Thật vậy, phải làm sao để cả hai nỗ lực này trong cùng lúc vừa liên kết mật thiết với nhau, vừa tách biệt nhau, và chính vì thế, người ta không được lẫn lộn chúng với nhau, không được lợi dụng nhau, cũng không được đánh đồng coi chúng như là tương đương với nhau, như kiểu chúng có thể thay đổi qua lại được cho nhau”.

Điều đã xảy ra nơi châu Âu sau khi các sắc dân man di xâm nhập vào chứng tỏ cho chúng ta thấy một điều hết sức quan trọng đó là vai trò của đời sống chiêm niệm trong nỗ lực loan báo Tin Mừng. Đây là điều mà sắc lệnh Công đồng “Ad Gentes” (“Đến với Muôn dân”) khi bàn về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội muốn nói với chúng ta:

Những sáng kiến đa dạng nhằm mục đích cắm rễ sâu trong đời sống chiêm niệm quả đáng phải có một lưu ý đặc biệt: một số thiết chế, trong khi vẫn giữ những yếu tố cốt yếu của đời sống đan viện, đang nỗ lực để cấy trồng lại truyền thống rất phong phú của dòng tu của họ; một số khác quay trở lại với những hình thái đơn giản hơn của truyền thống đan viện xưa; tuy nhiên, tất cả đều phải nỗ lực cố gắng để tim cho ra một con đường thích nghi thực sự với những điều kiện nơi địa phương mình đang sống. Đời sống chiêm niệm mà vốn đã từng đóng góp nhiều vào quá trinh phát triển của sự hiện diện của Giáo Hội cách đầy đủ cần phải được tái lập lại khắp nơi trong các Giáo Hội trẻ”.

Lời mời gọi này, mời gọi tìm kiếm những hình thái mới của đời sống đan viện nhằm phục vụ cho nỗ lực loan báo Tin Mừng, vốn được gợi hứng từ khuynh hướng đan viện xưa, không nằm yên trong sách vở, như những thứ chữ chết.

Một trong những hình thái nhằm đáp ứng cho niềm mơ ước này đã được thực hiện bởi “Fraternités monastiques de Jérusalem” (“Các huynh đoàn đan sĩ ở Giêrusalem”), vốn được biết đến như những nam đan sĩ và nữ đan sĩ của các thành thị. Người sáng lập những huynh đoàn này, Cha Pierre-Marie Delfieux, sau khi đã sống 2 năm trong sa mạc Sahara, mà bạn đồng hành chỉ có Thánh Thể và cuốn Thánh Kinh, đã hiểu ra rằng ngày hôm nay các thành phố lớn đã bị tục hoá cũng chính là những sa mạc. Được giới thiệu ở Paris, năm 1975, ngày Lễ Kính Các Thánh Nam Nữ, các huynh đoàn này từ nay hiện diện trong nhiều thành phố lớn của châu Âu, kể cả ở Rôma, nơi mà các huynh đoàn này phụ trách Nhà thờ “La Trinité-des-Monts”. Đặc sủng riêng của họ là loan báo Tin Mừng thông qua cái đẹp của nghệ thuật và của phụng vụ. Tu phục của họ, lối sống của họ, đơn giản và nhặt nhiệm, thời gian mà họ chia ra giữa lao động và kinh nguyện, tất cả đều mang dáng dấp của một đời sống đan viện. Cái mới ở đây, đó là họ định cư ngay giữa trung tâm các thành phố, nói chung, trong những ngôi nhà thờ cổ kính và có giá trị nghệ thuật lớn, và sự cộng tác giữa các sư huynh và các nữ tu trong lĩnh vực phụng vụ chẳng tước đi giữa họ sự độc lập trong vấn đề cư trú và thẩm quyền. Con số những cuộc trở lại và những Kitô hữu trở lại với đức tin, chung quanh những nơi này, không phải là ít.

Và rồi, còn có Đan viện Bose, ở Italia, thuộc loại hoàn toàn khác, nhưng cũng nằm trong bối cảnh trăm hoa đua nở những hình thái đan viện mới. Và, trong lĩnh vực đại kết, chúng ta có Đan viện Taizé, ở Pháp, vốn là một thí dụ điển hình trong nỗ lực đưa đời sống chiêm niệm trực tiếp đi vào trong những nỗ lực loan báo Tin Mừng. 

Ngày 1-11-1982, tại Avila, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, khi tiếp một phái đoàn lớn các đại biểu nữ tu sống đời sống chiêm niệm, đã đề xuất với các nữ tu dòng Kín có thể có một sự dấn thân trực tiếp hơn vào công cuộc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội.

“Các đan viện của các con - Đức Thánh Cha đã nói - là những cộng đoàn cầu nguyện giữa các cộng đoàn Kitô, mà các con hẳn mang lại cho họ sự trợ giúp, lương thực và niềm hy vọng. Đó là những nơi chốn đã được thánh hiến và chúng cũng có thể là những trung tâm Kitô đón nhận các con người, nhất là những người trẻ, mà vốn thường đang tìm kiếm một cuộc sống thực sự giản đơn và trong suốt, ngược lại với những gì mà cuộc sống mà xã hội tiêu thụ đã cung cấp cho họ”.

Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha không phải chỉ là tiếng kêu trong hoang mạc mà đã được đáp ứng lại do bởi những sáng kiến xuất phát từ các nữ tu có đời sống chiêm niệm, sẵn sàng với công việc loan báo Tin Mừng. Một trong những sáng kiến đó đã có dịp được biết đến nhân hội nghị mà Hội đồng Giáo hoàng phụ trách công cuộc Tân Tin Mừng hoá đã tổ chức tại Vatican. Tất cả các hình thái mới này không nhằm thay thế các thực thể đan viện truyền thống xưa, mà nhiều trong số đó vốn là những trung tâm toả sáng những giá trị thuộc linh và loan báo Tin Mừng, mà là nhằm song hành bên nhau và làm phong phú hoá cho nhau.

Sẽ là thiếu sót nếu trong Giáo Hội có tình trạng tách biệt rành rẽ giữa những con người thì tận hiến cho chiêm niệm và những người khác thì tận hiến cho sứ vụ truyền giáo; cần phải tổng hợp 2 điều này lại với nhau nơi đời sống của từng mỗi nhà truyền giáo. Nói cách khác, cầu nguyện “cho” các nhà truyền giáo không đủ, cần phải có lời cầu nguyện “của” các nhà truyền giáo. Những đan sĩ vĩ đại đã tái Tin Mừng hoá châu Âu sau khi các dân man di xâm nhập vào, vốn đã là những con người đã đi ra khỏi sự thinh lặng của đời sống chiêm niệm và quay trở về lại ngay từ khi hoàn cảnh cho phép. Hay đúng hơn, trong trái tim mình, họ không bao giờ hoàn toàn đi ra khỏi đan viện của mình. Họ như vậy là đã áp dụng trước lời khuyên mà Thánh François d’Assise đã đưa ra cho các anh em của mình khi sai họ ra đi trên những nẽo đường thế giới: “Dù chúng ta ở đâu, dù chúng ta đi đâu, chúng ta cũng mang theo mình cái xà lim của chúng ta. Cái xà lim đó chính là người anh em thân thể này, và tâm hồn chúng ta là nhà ẩn sĩ đang cư ngụ trong cái xà lim này để cầu nguyện Thiên Chúa và suy niệm”.

Về điều đó, chúng ta có một thí dụ có thẩm quyền hơn. Một ngày của Đức Giêsu là một chuỗi xen kẽ nhau giữa cầu nguyện và suy niệm. Đức Giêsu không cầu nguyện chỉ trước khi rao giảng, Ngài cầu nguyện để biết điều gì cần phải rao giảng, để kín múc nơi kinh nguyện những điều cần phải loan báo cho thế giới: “Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi” (Ga 12,50b). “Thẩm quyền” mà Ngài có khi nói và mà đã gây ấn tượng đến thế vốn phát xuất từ đó.

Những nỗ lực mới loan báo Tin Mừng sẽ phải đối diện với 2 nguy cơ. Nguy cơ thứ nhất đó là tình trạng án binh bất động, lười biếng, chẳng làm gì cả và hoàn toàn phó thác cho người khác. Nguy cơ thứ hai là cứ vội vàng lao mình vào, lăng xăng, cuống cuồng, rối rít và tâm hồn trống rỗng theo cách loài người, và rồi kết thúc với tình trạng ngày càng ít đi khả năng tiếp xúc được với nguồn suối của lời và tính hiệu quả của nó. Người ta nói: “Nhưng làm thế nào mà cứ ngồi vậy được chứ, cứ lặng thinh cầu nguyện, trong khi có biết bao nhu cầu đang đòi hỏi phải có sự hiện diện của chúng ta, làm thế nào mà không phải chạy nhanh lên khi căn nhà đang cháy chứ?”. Đúng vậy, nhưng chúng ta cứ thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu nhóm lính cứu hoả vội vội vàng vàng chạy đi giập tắt đám cháy, nhưng khi đến nơi, bỗng phát hiện ra rằng chẳng còn một giọt nước nào trong bồn dự trữ cả! Đó cũng là hoàn cảnh chúng ta thường gặp phải, khi chúng ta vội vàng tất bật chạy đi rao giảng Tin Mừng mà lại không cầu nguyện. Kinh nguyện vốn là vấn đề mấu chốt trong nỗ lực loan báo Tin Mừng, bởi vì “mục đích ưu tiên số một của công việc loan báo Kitô không phải là nhằm truyền bá một mớ giáo lý, mà là truyền thông cái cụ thể liên quan đến hiện sinh”. Kẻ cầu nguyện mà không nói thì loan báo Tin Mừng nhiều hơn là kẻ nói mà không cầu nguyện.

V. Mẹ Maria, ngôi sao loan báo Tin Mừng

Chúng ta hãy chấm dứt bài suy niệm này với một tư tưởng mà thời gian phụng vụ của những ngày này và Ngày Lễ kính Đức Maria Vô Nhiễm gợi lên cho chúng ta. Một ngày nọ, trong một cuộc đối thoại đại kết, một người anh em Tin Lành đã hỏi tôi, mục đích không phải có ý tranh cãi, mà chỉ là muốn tìm hiểu thôi: “Tại sao các ngài, những người Công giáo, lại nói rằng Đức Maria là ‘Ngôi Sao loan báo Tin Mừng’? Đức Maria đã làm gì để xứng đáng với tước hiệu đó?” Câu hỏi này đã là một cơ hội để tôi đào sâu vấn đề này, và tôi đã nhanh chóng tìm ra lý do sâu xa của nó. Đức Maria là Ngôi Sao loan báo Tin Mừng, bởi vì Mẹ đã mang trong mình chính Lời, không phải chỉ cho dân tộc này hay dân tộc nọ, mà là cho toàn thể thế giới!

Nhưng, không chỉ vì thế. Mẹ Maria đã mang Lời trong lòng dạ của mình, chứ không phải trên môi miệng. Mẹ, cách thể lý, đã ngập tràn Đức Kitô và đã làm cho Đức Kitô tỏa sáng ra bên ngoài bằng chính sự hiện diện của Ngài nơi mình. Đức Giêsu đã toả sáng ra nơi đôi mắt của Mẹ, nơi khuôn mặt của Mẹ, nơi toàn thể ngôi vị của Mẹ. Khi một ai đó xức dầu thơm, chẳng cần phải nói gì, cứ ở gần bên người đó thôi là cảm nhận được hương thơm, và Mẹ Maria, nhất là trong thời kỳ Mẹ mang Đức Kitô trong lòng dạ của mình, cũng tràn ngập hương thơm là Đức Giêsu Kitô như vậy. Người ta có thể nói rằng Mẹ Maria là khu nội cấm đầu tiên của Giáo Hội. Sau Lễ Ngũ Tuần, Mẹ Maria như nhập vào khu nội cấm. Nhờ các thư của các Tông đồ, chúng ta biết được cơ man nào là các nhân vật, nhưng cũng có từng ấy phụ nữ nơi cộng đoàn Kitô tiên khởi. Ở nơi một thời điểm nào đó, người ta có nói tới một Maria nào đó (x. Rm 16,6), nhưng đó không phải là Mẹ Maria. Về Maria, Mẹ của Đức Giêsu, chẳng thấy nói gì cả. Mẹ đã biến đi mất tăm mất tích vào trong chốn sâu thẳm nhất của cõi lặng thinh. Nhưng, được luôn có Mẹ bên cạnh khi viết sách Tin Mừng, điều này liệu có ý nghĩa gì đối với Tông đồ Gioan, và điều đó liệu cũng có thể có ý nghĩa gì chăng đối với chúng ta khi chúng ta loan báo cũng chính Tin Mừng đó mà luôn có Mẹ kề bên! “Đoá hoa Tin Mừng - Origène viết - đó là Tin Mừng của Gioan, mà ý nghĩa sâu xa của nó chỉ kẻ nào đã từng được tựa đầu vào ngực của Đức Giêsu và đã từng từ Ngài được nhận Đức Maria như là Mẹ của mình, mới có thể nắm bắt được”.

Trong Giáo Hội, Đức Maria đã khai mào tâm hồn hay ơn gọi thứ hai này, tức là tâm hồn ẩn khuất và cầu nguyện, bên cạnh tâm hồn tông đồ hay hoạt động. Bức tranh truyền thống diễn tả biến cố Thăng Thiên, treo trên bức tường phải của ngôi nhà nguyện Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Chuộc) này, là một diễn tả tuyệt vời cho điều đó. Đức Maria đứng, hai tay giang rộng, trong tư thế cầu nguyện. Chung quanh Mẹ, các Tông đồ, tất cả đều trong tư thế một chân và một tay giơ lên, nói cách khác, là đang trong tư thế chuyển dịch, nhằm diễn tả Giáo Hội đang lên đường ra đi làm sứ vụ, nói và hành động. Đức Maria đứng bất động, bên dưới Chúa Giêsu, ngay tại nơi mà Đức Giêsu được dưa lên Trời, như muốn nói để ghi dấu mãi kỷ niệm này và đợi chờ ngày Đức Giêsu trở lại.

Chúng ta hãy kết thúc bài suy niệm này bằng cách nghe lại những lời cuối cùng trong Thông điệp “Evangelii Nuntiandi” (“Tin Mừng cần phải loan báo”) của Đức Thánh Cha Phaolô VI, nơi mà lần đầu tiên trong những tài liệu Giáo hoàng, tên Mẹ Maria được đi kèm theo với tước hiệu “Ngôi Sao loan báo Tin Mừng”: “Vào buổi sáng ngày Lễ Ngũ Tuần, Mẹ Maria đã chủ toạ trong buổi cầu kinh để bắt đầu nỗ lực loan báo Tin Mừng, dưới tác động của Thánh Thần. Ước gì Mẹ là Ngôi Sao của nỗ lực loan báo Tin Mừng, vốn luôn được làm cho mới mẻ, mà Giáo Hội, vâng theo lệnh truyền của Đức Chúa của mình, cần phải động viên cổ vũ và phải hoàn tất, nhất là trong thời buổi khó khăn nhưng cũng tràn đầy hy vọng này!”

---------------------

1-  S. Jérôme, Comm. Sur Ezéchiel, III, 25, préf.; cf. Lettres LX, 18; CXXIII, 15-16; CXXVI, 2.

2-  S. Léon le Grand, Sermon 82.

3-  Grégoire de Tours, Historia Francorum, II, 31.

4-  Jean-Paul II, Redemptoris Missio, 55.

5-  L.G., 18.

6-  Legenda Perugina, 80 (FF, 1636).

7-  Origène, Commentaire sur l’Evangile de Jean, I, 6, 23 (SCh, 120, p. 70).

Raniero Cantalamessa, ofmcap

Lm. Phêrô Nguyễn Thiên Cung dịch

Nguồn: Dịch từ bản Pháp ngữ của Zenit (Isabelle Cousturié)

(emty.org Cập nhật: 03/01/2012 - 20:14:59)

 

Mục Lục Hội Nhập Văn Hoá