BÀI III: “ĐẾN TẬN
MÚT CÙNG TRÁI ĐẤT”
Lục địa châu Mỹ lần đầu tiên được loan báo Tin Mừng
I. Niềm tin Kitô vượt qua đại dương
Cách đây 4 ngày, ngày 12-12, lục địa
châu Mỹ vừa mới long trọng cử hành lễ Đức Bà GUADALUPE, cũng là ngày lễ buộc ở
Mexique. Đây là một sự trùng hợp hết sức may mắn để, trong bài suy niệm này,
nói về đợt sóng lớn thứ ba loan báo Tin Mừng. Trong lịch sử của Giáo Hội, đợt
sóng thứ ba nầy diễn ra tiếp theo ngay sau cuộc khám phá ra tân thế giới.
Chúng ta hãy nhắc lại đây những đường
nét lớn của công cuộc mạo hiểm truyền giáo này. Nhưng, trước hết, là một ghi
nhận. Khi xâm nhập vào lục địa mới này, trong cùng lúc châu Âu Kitô vừa mang
vào đấy niềm tin của mình và cả những chia rẽ của mình. Vào cuối đợt sóng lớn
truyền giáo nầy, lục địa châu Mỹ cho thấy đã có cũng cùng một tình trạng chia
rẽ như nó hiện đang là ở châu Âu lúc đó: một miền
Ở đây, mối quan tâm duy nhất của chúng
tôi là hướng về nỗ lực loan báo Tin Mừng cho châu Mỹ Latinh, chỉ bởi một lý do
là vì nó đã diễn ra trước tiên, ngay sau khi khám phá ra tân thế giới.
Kể từ khi Christophe Colomb, năm 1492,
trở về từ chuyến hành trình của mình và loan tin có những vùng đất mới (mà lúc
đó người ta vẫn cứ tưởng là thuộc Ấn Độ), Tây Ban Nha Công giáo đã đưa ra 2
quyết định: mang niềm tin Kitô đến cho các dân mới này, và mở rộng quyền bính
chính trị của mình trên các sắc dân này.
Để làm được điều đó, Tây Ban Nha cần
phải có được sự chuẩn thuận của Đức Giáo hoàng Alexandre VI thừa nhận các quyền
của họ trên tất cả vùng đất mới này, 100 dặm bên kia Açores (quần đảo thuộc Bồ
Đào Nha), và cho Bồ Đào Nha các vùng đất nằm bên này ranh giới. Làn ranh mà sau
nầy chuyển dịch có lợi cho Bồ Đào Nha, nhằm hợp pháp hoá quyền sở hữu Brésil
cho Bồ Đào Nha. Những đường biên mới của lục địa châu Mỹ Latinh tương lai, cả
về mặt ngôn ngữ, như vậy, kể từ đó, đã bắt đầu được định hình.
Trước cổng vào mỗi làng, quân lính treo
các mệnh lệnh ghi rõ ràng (requerimiento) là các dân cư trong làng phải gia
nhập Kitô giáo và thừa nhận quyền bính tối cao của Tây Ban Nha.
Chỉ một vài đầu óc lớn, đứng đầu là các
tu sĩ dòng Đaminh như Antonio de Montesino và Bartholomée de Las Casas, đã có
can đảm lên tiếng chống lại những lạm dụng của những kẻ xâm lược này, và bênh
vực cho quyền tự trị của các thổ dân ở đây. Sau khoảng gần hơn 50 năm một chút,
vừa vì sức yếu, vừa vì có sự chia rẽ giữa các vương quốc địa phương với nhau,
lục địa này phải cúi mình chịu ách thống trị của Tây Ban Nha và trở thành Kitô,
chí ít là trên danh nghĩa.
So với ngày xưa, các sử gia ngày nay có
khuynh hướng nhìn hành động của các nhà truyền giáo ít đen tối hơn. Trước hết,
người ta lưu ý rằng trái ngược với những gì xảy ra nơi các bộ lạc “dân bản xứ”
(“indiennes”) miền Bắc châu Mỹ, phần lớn các dân tộc bản xứ ở châu Mỹ Latinh,
cho dù có bị tàn sát hàng loạt, vẫn còn sống sót được với ngôn ngữ và với lãnh
thổ riêng của mình, cho đến lúc sau đó lấy lại được và tái khẳng định lại được
căn tính và sự độc lập của mình.
Nhưng cũng còn phải lưu ý đến điều kiện
mà trong đó các nhà truyền giáo này đã phải khom mình lụy phục, đó là nền tảng
thần học mà họ đã được đào tạo trước đó. Theo sát mặt chữ và theo một cách hiểu
cứng nhắc, châm ngôn “Extra Ecclesiam nulla salus” (“Bên ngoài Giáo Hội, không
có ơn cứu độ”), những nhà truyền giáo này vốn đã xác tín rằng, để bảo đảm ơn
cứu độ, cần phải rửa tội cho các sắc dân bản xứ này các nhiều bao nhiêu có thể
và trong một thời gian càng ngắn bao nhiêu có thể.
Châm ngôn nầy vốn như một cái ách đè
nặng lên trên nỗ lực loan báo Tin Mừng và, vì thế, đáng để chúng ta dành cho nó
một khoảng thời gian tìm hiểu. Đây là một câu châm ngôn đã được định thức từ
thế kỷ III bởi Origène, nhưng nhất là bởi Thánh Cyprien. Lúc đầu, không can dự
gì tới sự cứu độ những người ngoài Kitô, mà chỉ liên quan đến những Kitô hữu mà
thôi. Thật vậy, châm ngôn này hoàn toàn chỉ nhắm tới những người lạc giáo và
những kẻ ly giáo trong thời đó mà thôi, nhằm nhắc nhỡ họ là một khi tách lìa
khỏi Giáo Hội, họ đã phạm phải một lỗi rất nặng nề, khiến họ tự loại trừ mình
ra khỏi ơn cứu độ. Vì thế, điều đó nhằm chống lại những ai tự mình tách ra khỏi
Giáo Hội, chứ không phải chống lại những ai từ chối gia nhập vào.
Chỉ trong giai đoạn hai, khi Kitô giáo
đã trở thành quốc giáo, châm ngôn này mới bắt đầu được đem áp dụng cho những
người ngoại giáo, và cả những người Do Thái, trên cơ sở xác tín chung lúc bấy
giờ (cho dẫu khách quan mà nói đó là sai) rằng sứ điệp kể từ đây kể như ai cũng
biết cả rồi, và rằng vì thế từ chối sứ điệp đó có nghĩa tự chuốc vào mình thân
phận kẻ có tội và đáng phải bị kết án.
Chính sau khi khám phá ra tân thế giới
mà các giới hạn địa lý cũ này, đúng vậy, mới bị phá đổ cách không thương tiếc.
Việc khám phá ra toàn thể các sắc dân sống bên ngoài mọi tiếp xúc với Giáo Hội
buộc phải nhìn lại lối giải thích câu châm ngôn cách quá cứng ngắc này. Các nhà
thần học dòng Đaminh ở Salamanque và, sau đó, các tu sĩ dòng Tên, bắt đầu chọn
lựa cho mình một lập trường phê phán, khi thừa nhận rằng người ta có thể ở bên
ngoài Giáo Hội mà chẳng nhất thiết là có lỗi và vì thế phải bị loại ra ngoài
khỏi ơn cứu độ. Còn nữa, đối diện với cách thức và những phương pháp không thể
nào chấp nhận được mà Tin Mừng đôi khi đã được loan báo cho các thổ dân, lần
đầu tiên, có người đã đặt vấn đề là cần tra cứu thử xem liệu có đúng hay không
khi đi coi là có lỗi tất cả những ai, hoàn toàn biết đến việc loan báo Tin
Mừng, nhưng vẫn không gia nhập đạo.
II. Các tu sĩ, những diễn viên chính
Đã hẳn, đây không phải là nơi thích hợp
để đem ra một phê phán lịch sử về công cuộc loan báo Tin Mừng đầu tiên cho châu
Mỹ Latinh. Trong dịp kỷ niệm ngũ bách chu niên, tháng 5-1992, vấn đề này đã là
đối tượng của một hội nghị chuyên đề của các sử gia, ngay tại Rôma đây. Trong
diễn từ ngõ với các tham dự viên, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Trong
công cuộc loan báo Tin Mừng này, cũng như trong bất cứ công trình nào của con
người, đã hẳn, có những thành công và những sai lầm, có những bóng tối và những
ánh sáng; nhưng, ánh sáng thì nhiều hơn bóng tối, khi xét đến những thành quả
mà chúng ta thấy được sau 500 năm: đó là cả một Giáo Hội sống động và năng động
mà ngày nay đang tiêu biểu cho một phần quan trọng của Giáo Hội toàn cầu”.
Một đàng, có một số người, nhân dịp kỷ
niệm ngũ bách chu niên này, nói về nhu cầu cần phải có một nỗ lực “bóc gỡ đi
tầng lớp văn hoá” (“déculturation”) và “giải thể đi hậu quả của nỗ lực Tin Mừng
hoá” (“dé-évangélisation”), cho người ta có ấn tượng như vậy là so với điều đã
từng xảy ra theo cái cách thức như đã từng được biết, người ta sẽ thích hơn nếu
như nỗ lực Tin Mừng hoá lục địa này đã không xảy ra. Với tất cả niềm kính trọng
đòi phải có đối với tình yêu mà các tác giả này đã từng có đối với các dân tộc
châu Mỹ Latinh này, dầu vậy, tôi tin rằng một quan niệm như thế, cách mạnh mẽ,
cần phải được loại bỏ.
Thay vì một thế giới vắng bóng tội lỗi
nhưng không có Đức Giêsu Kitô, thần học đã chứng tỏ cho thấy rằng thà có một
thế giới với tội lỗi nhưng có Đức Giêsu Kitô vẫn hơn. ‘Ôi! Tội hồng phúc! Tội
mà đã mang lại cho chúng ta một Đấng Cứu Chuộc vĩ đại như vậy!’, phụng vụ đêm
Phục Sinh đã thốt lên như vậy. Chúng ta lại chẳng phải cũng có thể nói lên cũng
cùng một điều tương tự về nỗ lực loan báo Tin Mừng cho hai vùng Bắc Mỹ và Nam
Mỹ hay sao? Ai lại chẳng thích hơn một lục địa với những bóng tối, nhưng lại có
Đức Kitô, so với một lục địa không có “bóng tối và sai lầm”, những điều vẫn
luôn có thể đi kèm theo sau những nỗ lực loan báo Tin Mừng, nhưng lại không có
Đức Kitô kia chứ? Người Kitô hữu nào, thuộc cánh hữu hay cánh tả (nhất là nếu
đó lại là linh mục hay tu sĩ) lại có thể nói điều ngược lại, mà không áy náy
như vậy là mình đang thiếu đức tin hay sao?
Tôi đã đọc được ở đâu đó xác quyết này
và tôi hoàn toàn đồng tình với nó: “Điều vĩ đại nhất đã xẫy ra năm 1492, không
phải là chuyện Christophe Colomb đã khám phá ra châu Mỹ, mà là châu Mỹ đã khám
phá ra được Đức Giêsu Kitô”. Quả thật, đó không phải Đức Kitô trọn vẹn của Tin
Mừng, Đấng mà đối với Ngài tự do mới chính là điều kiện của niềm tin, nhưng ai
là kẻ có thể tự hào mình đang mang một Đức Kitô hoàn toàn không vướng víu gì
đến bụi trần của lịch sử? Những kẻ đang đề xuất một Đức Kitô cách mạng, chống
lại những cơ cấu, chính họ cũng vậy, lại chẳng đang quên một điều gì đó của Đức
Kitô, thí dụ như khẳng định của Ngài: “Nước Ta không thuộc về thế gian này”
chẳng hạn?
Nếu trong đợt sóng loan báo Tin Mừng đầu
tiên, những diễn viên chính là các giám mục và trong đợt sóng thứ hai là các
đan sĩ, thì trong đợt sóng thứ ba này, các diễn viên chính mà không ai có thể
tranh cãi đó là các anh em, hoặc là các tu sĩ thuộc các dòng khất thực, trước
tiên là anh em dòng Thánh Phanxicô Assisi, các anh em dòng Thánh Đaminh, các
anh em dòng Thánh Augustin, rồi trong thời kỳ thứ hai, các anh em dòng Tên. Các
sử gia của Giáo Hội vẫn thừa nhận rằng ở châu Mỹ Latinh “các thành phần thuộc
các dòng tu đã đóng một vai trò có tính quyết định trong lịch sử truyền giáo và
Giáo Hội”.
Đánh giá của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II – “ánh sáng thì nhiều hơn là bóng tối” - mà chúng tôi đã có nói tới, có giá
trị nhất là đối với các tu sĩ này. Sẽ không lương thiện nếu coi thường sự hy
sinh xả kỷ và tính chất anh hùng của biết bao người trong số những nhà truyền
giáo nầy. Những kẻ đi xâm lược thì được kích thích bởi tinh thần mạo hiểm và
nỗi thèm khát chiến thắng, nhưng còn những vị tu sĩ này? Họ có thể chờ đợi gì,
khi từ bỏ quê hương và các nhà dòng của họ?
Họ không ra đi để mà chiếm đoạt, mà là
để cho đi; họ muốn chinh phục các linh hồn về cho Đức Kitô, chứ không phải
những tôi tớ về cho vua Tây Ban Nha, ngay như không phủ nhận là họ cũng có bị
ảnh hưởng đôi chút tâm tình ái quốc nào đó của thời đại mình đang sống.
Khi đọc lại các lịch sử liên quan đến nỗ
lực loan báo Tin Mừng nơi một vùng đất, người ta thấy quả thật là bất công và
xa rời thực tế biết bao những đánh giá chung chung của một số tác giả. Điều đó
đã đến với chính bản thân tôi, khi tôi được đọc, ngay tại chỗ, biên niên sử ghi
lại buổi đầu của công cuộc truyền giáo ở
Trong những ghi chú viết tay, được thêm
vào nơi tài liệu cuối cùng, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết: “Điều đã được nói
đến trong tài liệu về các tu sĩ liệu đã đủ chưa? Liệu chẳng phải nên thêm vào
đó một từ về đặc tính tự nguyện, dám nghĩ dám làm, đại độ trong nỗ lực loan báo
Tin Mừng của các tu sĩ nam và nữ hay chăng? Đã đành việc loan báo Tin Mừng của
họ phải tuỳ thuộc vào thẩm quyền nhà dòng và phải làm sao phối hợp nhịp nhàng
được với thẩm quyền đó, nhưng cần ca ngợi họ về tính chất độc đáo, thiên tài,
lòng tận tuỵ, vì họ thường phải nằm trong đám quân tiền phong đầu sóng đầu gió
và luôn hứng hết mọi gian nguy, thậm chí cả hy sinh tính mạng”.
Các tu sĩ đã loan báo tin mừng cho châu
Mỹ Latinh hoàn toàn xứng đáng với sự thừa nhận này. Cũng đã đủ, khi nghĩ đến
một số trong những điều mà các tu sĩ này đã thực hiện được ở đây, như “những
khu tự trị nhỏ” (“réductions”) nổi tiếng của các anh em dòng Tên ở Paraguay, đó
là những ngôi làng mà trong đó các anh em “Thổ dân” Kitô trốn tránh khỏi sự lạm
dụng của quyền bính dân sự, có thể tìm hiểu đức tin và khai thác những tài năng
của mình, như là những con người.
III. Các vấn đề hiện nay
Bây giờ, như thường lệ, chúng ta hãy cố
gắng quay trở về lại với thời hiện tại, và xem xem lịch sử đó nói với chúng ta
điều gì, khởi đi từ kinh nghiệm truyền giáo của Giáo Hội mà cách đại thể chúng
ta vừa mới phác hoạ lại. Những điều kiện xã hội và tôn giáo của lục địa này đã
thay đổi cách sâu xa, đến nỗi có lẽ tốt hơn thay vì nhấn mạnh đến điều chúng ta
có thể học được hay không nên học từ thời kỳ này, thì nên suy tư về công việc
loan báo Tin Mừng hiện nay trên lục địa châu Mỹ Latinh này.
Về vấn đề này, đã có và hiện vẫn luôn có
vô vàn vô số những suy tư và những tài liệu đến từ Toà Thánh, từ CELAM và từ
từng mỗi Giáo Hội địa phương, đến nỗi tôi sẽ trở thành kẻ huênh hoang, nếu như
nghĩ mình có thể thêm thắt được vào đó một cái gì đó mới mẻ. Tuy nhiên, tôi
nghĩ mình cũng có thể đóng góp được một chút gì đó vào một vài suy tư đã có, từ
chính kinh nghiệm của bản thân mình trong lĩnh vực này, nhờ đã có dịp thuyết
giảng trong các kỳ tĩnh tâm của các hội đồng giám mục, của hàng giáo sĩ và của
dân chúng trong hầu hết các nước thuộc châu Mỹ Latinh, mà trong đó có một số
nước tôi đã thuyết giảng nhiều lần. Ở châu Mỹ Latinh, trong lĩnh vực này, những
vấn đề càng được đặt ra nhiều bao nhiêu thì cũng chẳng khác gì mấy nơi phần còn
lại của Giáo Hội.
Một suy tư cần có về nhu cầu cần phải
vượt qua một tình trạng cực đoan phải chọn lựa “hoặc cái này hoặc cái kia”, vốn
đang hiện diện khắp nơi trong Giáo Hội, nhưng, đặc biệt gay gắt ở châu Mỹ
Latinh, nhất là trong những năm vừa qua: sự phân cực cực đoan giữa tâm hồn hành
động và tâm hồn chiêm niệm, giữa Giáo Hội dân thân trong lĩnh vực xã hội vì
những người nghèo và Giáo Hội loan báo niềm tin. Trước tình trạng phân cực đó,
theo bản năng, chúng ta thường hay bị cám dỗ chọn cho mình một chiến tuyến, ca
ngợi bên này và mạ lị bên kia. Giáo lý về các đặc sủng không cho phép chúng ta
tạo ra một cuộc đối đầu như vậy. Ân huệ của Giáo hội Công giáo, đúng vậy, là
Công giáo, hay nói cách khác, là cởi mở ra với những ân huệ phong phú đa dạng
khác nữa, vì vốn xuất phát từ cũng cùng một Thần Khí mà thôi.
Lịch sử các dòng tu, đã dấn thân trên
những nẻo đường khác nhau, và đôi khi trái ngược nhau, chứng tỏ cho thấy điều
đó: hội nhập vào trong thế gian hay trốn tránh thế gian, làm việc tông đồ giữa
những người trí thức, như các anh em dòng Tên, và làm việc tông đồ giữa đám
quần chúng, như các anh em dòng capucins. Luôn có chỗ cho tất cả mọi người, cả
loại hình này, cả loại hình kia. Còn nữa, tất cả chúng ta đều cần lẫn nhau, bởi
vì chẳng có ai có khả năng một mình mà có thể thực hiện được tin mừng cách trọn
vẹn và có thể biểu hiện được Đức Kitô và cuộc sống của Ngài, dưới tất cả mọi
hình thái mà Ngài đã biểu lộ. Vì thế, mỗi người phải vui mừng vì anh em khác đã
làm được điều mà chính mình không thể nào làm được: kẻ đang vun trồng đời sống
thuộc linh và loan báo Lời hãy biết rằng còn có những anh em khác đang dâng hiến
đời mình để bảo vệ công lý và thăng tiến xã hội, và ngược lại. Lời cảnh báo của
Tông đồ Phaolô vẫn còn nguyên giá trị của nó: “Một lần thay cho tất cả, chúng
ta hãy thôi đi đừng phê phán lẫn nhau!” (x. Rm 14,13).
Một ghi nhận thứ hai liên quan đến vấn
đề những người công giáo tử bỏ Giáo Hội để đi đến với các truyên xưng Kitô
khác. Trước tiên, chúng ta cần nhớ rằng người ta không được đánh đồng coi tất
cả mọi tuyên xưng của các “giáo phái” đều như nhau. Với một vài trong số các
tuyên xưng đó, ở đây phải kể các anh em “ngũ tuần”, Giáo Hội công giáo bao năm
qua vẫn giữ một cuộc đối thoại đại kết chính thức với họ, và điều này chứng tỏ
Giáo Hội không coi những tuyên xưng đó như những giáo phái tầm thường.
Sự cổ vũ đối thoại này, cả ở quy mô địa
phương nữa, vốn có cái lợi là giải độc cho bầu khí được lành mạnh hơn, cô lập
hoá được những giáo phái hiếu chiến nhất và làm nản lòng những nỗ lực muốn lôi
kéo. Cách đây vài năm, ở Buenos Aires, đã diễn ra một buổi gặp gỡ đại kết, cùng
nhau cầu nguyện và cùng nhau chia sẻ Lời Chúa, trong đó có sự tham gia của Đức
Tổng Giám mục Công giáo và các vị lãnh đạo của các Giáo hội khác, cùng với sự
hiện diện của 7.000 người. Người ta thấy rõ ràng khả năng có thể có một tương
quan mới giữa các Kitô hữu, mang tính xây dựng hơn có lợi cho niềm tin và nỗ
lực loan báo Tin Mừng.
Trong một trong những tài liệu của mình,
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định rằng việc lan tràn các giáo phái
bắt buộc người ta phải tự hỏi tại sao lại thế, cái gì đã thiếu sót trong công
tác mục vụ của chúng ta. Trên cơ sở kinh nghiệm của mình - và không chỉ ở châu
Mỹ Latinh - tôi xác tín rằng: điều lôi kéo người ta ra khỏi Giáo Hội chắc hẳn
không phải là những hình thức đạo đức bình dân có thể xoay chiều bất cứ hướng
nào mà phần lớn các Giáo Hội khác và các giáo phái, trái lại, vẫn tìm cách tống
khứ và đánh bại. Cho dù phiến diện, nhưng lại mang tính dứt khoát, đó vẫn là
một loan báo về ân sủng của Thiên Chúa, có thể sống Đức Giêsu như Đức Chúa và
như Đấng Cứu Thế, mang hình hài một nhân vị hẳn hoi, có thể tham gia vào một
nhóm quan tâm đến những nhu cầu riêng tư của bạn, cầu nguyện cho bạn trong cơn
bệnh hoạn, khi mà y học đã đành chịu bó tay.
Nếu, một đàng, người ta có thể vui mừng
vì những người nầy đã gặp gỡ được Đức Kitô và sám hối quay trở lại, đàng khác,
điều đáng buồn là để làm điều đó những người này đã cảm thấy nhu cầu cần phải
từ bỏ Giáo Hội của mình. Trong phần lớn các Giáo Hội mà những anh em này đến,
tất cả đều xoay quanh cuộc trở lại thứ nhất và việc đón nhận Đức Giêsu như là
Đức Chúa. Trong Giáo hội Công giáo, nhờ các bí tích, nhờ thẩm quyền Giáo Hội,
nhờ một nền linh đạo rất phong phú, đó là điều thuận lợi để người ta không phải
chỉ dừng lại nơi giai đoạn sơ khởi ban đầu, mà còn phải đạt tới sự sống Kitô
viên mãn và hoàn hảo. Các vị thánh là những chứng cứ cho thấy điều đó. Nhưng,
điều cần thiết là khởi đầu này phải thực sự phát xuất từ một hành vi có ý thức
và từ nguyện vọng riêng tư của đương sự và, nơi điều đó, thách đố của các cộng
đoàn tin mừng và ngũ tuần đối với chúng ta như vậy lại là liều thuốc kích thích
cho chúng ta.
Nơi điều đó, hơn bao giờ hết, nói theo
ngôn ngữ của Đức Thánh Cha Phaolô VI, Phong trào Canh tân nhờ đặc sủng chứng tỏ
cho thấy “là một cơ may cho Giáo Hội”. Ở châu Mỹ Latinh, các vị mục tử của Giáo
Hội đang bắt đầu hiểu rằng Phong trào Canh tân nhờ Đặc sủng không phải (như một
số người tin là thế lúc ban đầu) là “một phần của vấn đề” khiến những người
công giáo ra khỏi Giáo Hội, mà đúng hơn là một phần giúp giải quyết vấn đề. Các
thống kê chưa bao giờ để lộ cho thấy có bao nhiêu người vẫn trung thành với
Giáo Hội, nhờ nhận thấy trong Phong trào Canh tân nhờ đặc sủng điều mà những
người khác lại đi tìm kiếm ở nơi khác. Có nhiều cộng đoàn, vốn xuất thân từ
Phong trào Canh tân nhờ Đặc sủng, mặc dầu vẫn còn một vài hạn chế nào đó và
thậm chí đôi khi còn một vài lệch lạc nào đó nữa, là những đạo quân tiên phong
trong nỗ lực phục vụ Giáo Hội và loan báo Tin Mừng.
IV. Vai trò của các tu sĩ trong nỗ lực
tân Tin Mừng hoá
Tôi đã nói rằng tôi không muốn dừng lại
nơi nỗ lực loan báo tin mừng đầu tiên trên lục địa nầy. Tuy nhiên, có một điều
đáng cho chúng ta quan tâm: đó là tầm quan trọng của các dòng tu truyền thống
trong nỗ lực loan báo Tin Mừng. Chính là dành cho họ mà Chân phước Giáo hoàng
Gioan Phaolô II, nhân dịp kỷ niệm 500 năm biến cố loan báo Tin Mừng lần đầu
tiên cho lục địa này, đã viết bức Tông thư, với tựa đề nguyên gốc của nó là “Los
caminos del Evangelio”. “Các tu sĩ – ngài viết – mà vốn đã là những sứ giả loan
báo Tin Mừng đầu tiên và mà, cách hiển nhiên, đã đóng góp nhiều trong việc làm
cho đức tin sống được trên lục địa này, hẳn không thể vắng mặt trong lời hiệu
triệu này của Giáo Hội, nhằm tham gia vào một nỗ lực loan báo Tin Mừng mới.
Những đặc sủng khác nhau của đời sống tận hiến sẽ giữ gìn cho sứ điệp của Đức Giêsu
luôn hiện diện và hiện hành mọi thời và mọi nơi”.
Chính đời sống cộng đoàn, nhờ có một sự
điều hành tập trung và những trung tâm đào tạo trình độ cao, mà ngày xưa đã cho
phép các dòng tu lăn xã được vào trong một công việc truyền giáo bao la như
vậy. Nhưng, ngày nay, liệu có còn được sức mạnh đó chăng? Trong tư cách một
người trong cuộc, vốn thuộc về một trong những hội dòng xưa cũ này, tôi có thể
dám trình bày cách thoải mái hơn. Việc giảm sút ơn gọi cách nhanh chóng trong
các xứ sở phương Tây đã tạo ra một tình thế nguy hiểm: đó là việc người ta dành
gần như toàn bộ sức lực của mình để làm sao thoả mãn được những nhu cầu nội bộ
bên trong của gia đình dòng tu của mình (đào tạo giới trẻ, tìm cách bảo tồn các
cơ cấu và các công trình), mà chẳng có mấy quan tâm và sức lực dành cho nỗ lực
hoà mình vào trong quỹ đạo rộng lớn hơn của Giáo Hội. Vì thế, có tình trạng
người ta chỉ co cụm lại với chính mình mà thôi. Ở châu Âu, các dòng tu truyền
thống bị bắt buộc phải hợp nhất nhiều tỉnh dòng lại làm một và, đau đớn thay cả
việc cứ liên tục đóng cửa hết nhà này sang nhà nọ.
Đã hẳn, sự tục hoá là một trong những
nguyên nhân của tình trạng giảm sút ơn gọi này, nhưng đó không phải là nguyên
nhân duy nhất. Vẫn có những cộng đoàn dòng tu mới đang cuốn hút cả một đám đông
các bạn trẻ. Trong bức Tông thư mà tôi vừa mới nhắc tới, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II khuyên các nam nữ tu sĩ châu Mỹ Latinh hãy “loan báo Tin Mừng khởi đi
từ chính kinh nghiệm sâu xa của mình về Thiên Chúa”. Đó mới chính là điểm trọng
yếu: “Một kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa”. Chính cái đó mới hấp dẫn để có
được những ơn gọi và tạo ra được những hoa trái đầu mùa cho một đợt sóng loan
báo Tin Mừng mới có hiệu quả. Trong lĩnh vực này, câu ngạn ngữ “nemo dat quod
non habet”, không ai có thể cho điều mà mình không có, tỏ ra có giá trị hơn bao
giờ hết.
Bề trên giám tỉnh của các anh em dòng
Capucins des Marches, vốn cũng là bề trên của tôi, nhân dịp Mùa Vọng này, đã
viết một Bức Thư gửi tất cả anh em trong dòng. Ngài đã đưa ra một thách thức mà
tôi tin là tất cả mọi cộng đoàn dòng tu truyền thống đều có thể lắng nghe được:
“Bạn, người đang đọc những dòng này, bạn
phải tưởng tượng rằng ‘bạn là Thánh Thần’ (“tu es l’Esprit Saint”). Phải, chắc
bạn hiểu rõ điều đó: rằng bạn không chỉ tràn ngập Thánh Thần, mà bạn còn là
chính Thánh Thần, Ngôi Ba của Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Và, dưới hình thức
này, bạn hãy nghĩ rằng bạn có quyền mời gọi và sai một người trẻ đi vào con
đường vốn sẽ giúp cho anh ta đạt được tình trạng hoàn hảo của Đức Ái, sống được
đời sống dòng tu, nếu muốn nói cách nôm na. Liệu bạn có có can đảm để gửi anh
bạn trẻ đó vào trong huynh đoàn của bạn, với niềm xác tín bảo đảm là huynh đoàn
của bạn có thể là nơi chốn cách nghiêm túc sẽ giúp cho anh bạn trẻ này thực sự
đạt đến được tình trạng hoàn hảo của Đức Ái trong mọi ngày của đời sống? Nói
cách khác, nếu như một người trẻ nào đó đến sống vài ngày hay vài tháng trong
huynh đoàn của bạn, chia sẻ kinh nguyện, đời sống huynh đệ, công việc tông đồ…
liệu anh ta có mê say được đời sống của chúng ta chăng?”
Khi các dòng khất thực, Đaminh và
Phanxicô xuất hiện, vào đầu thế kỷ XIII, các dòng đan sĩ cũng đã được hưởng lợi
không ít, đó là các đan sĩ được mời gọi để sống đời sống khó nghèo và có tính
Tin Mừng hơn, trong khi mỗi bên vẫn hoàn toàn giữ được đặc sủng của riêng mình.
Liệu chúng ta, các dòng tu truyền thống, ngày hôm nay, trong tương quan với các
hình thức mới mẻ sống đời sống tận hiến đang được khêu gợi lên trong Giáo Hội,
lại chẳng làm được như vậy hay sao?
Ân sủng tạo ra các thực tại mới mẻ này
thì nhiều và đa dạng, nhưng tất cả đều có một mẫu số chung, đó là Thánh Thần, “Lễ
Ngũ Tuần mới”. Sau Công đồng, hầu như tất cả các dòng tu đã tồn tại trước đó
đều đã rà soát lại và canh tân các bản hiến chương của mình, nhưng ngay từ năm
1981, ĐGH Gioan Phaolô II đã cảnh báo: “Mọi công việc canh tân đổi mới Giáo Hội
mà Công đồng Vatican II, nhờ ơn quan phòng của Thiên Chúa, đã đề xướng và đã
khởi đầu… chỉ có thể thực hiện được trong Thánh Thần, tức là với sự trợ giúp
của ánh sáng của Ngài và quyền năng của Ngài mà thôi”.
“Thánh Thần – Thánh Bonaventure đã nói –
đi đến nơi “mà Ngài được yêu mến, nơi mà Ngài được mời, nơi mà Ngài được chờ
đợi”. Chúng ta cần phải mở toang các cộng đoàn của chúng ta ra cho hơi thở của
Thần Khí, Đấng sẽ đổi mới kinh nguyện, đời sống huynh đệ, tình yêu đối với Đức
Kitô, và cùng với Ngài nhiệt tình truyền giáo. Nhìn lui lại đàng sau, những cội
nguồn riêng của chúng ta, Đấng sáng lập riêng của chúng ta, đã hẳn, nhưng còn
phải nhìn vế phía trước nữa.
Khi nhìn vào hoàn cảnh hiện nay của các
dòng tu trong thế giới phương Tây, câu hỏi mà Ngôn sứ Ezékiel đã nghe vang vọng
lên bên trên thung lũng các bộ xương khô, cách tự nhiên lại đến với tâm trí
chúng ta: “Những bộ xương khô này liệu có thể sống lại chăng?” Những bộ xương
cứng cỏi mà người ta nói đến trong bản văn không phải là của những người chết
mà là của những người sống; chính dân
Chúng ta hẳn biết câu trả lời, tràn đầy
niềm hy vọng, mà Thiên Chúa đã tỏ bày: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta trong các
ngươi, và các ngươi sẽ được sống; Ta sẽ định cư các ngươi trên mãnh đất của các
ngươi, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa: Ta nói và Ta sẽ làm”, đó là
lời của Đức Chúa. Chúng ta cần phải tin và hy vọng rằng cũng sẽ xảy ra cho
chúng ta, và cho toàn thể Giáo Hội, điều mà lời ngôn sứ đã nói: “Thần Khí đã xâm
nhập vào họ; họ khôi phục lại được sự sống, và đứng vững được với đôi chân của
mình: đó là một đạo quân đông vố số kể” (x. Ed 37,1-14).
Cách đây 4 ngày, như tôi đã nói ngay từ
đầu, châu Mỹ Latinh đã cử hành Lễ Đức Bà Guadalupe. Người ta đã tranh luận nhiều
về tính chất lịch sử của những sự kiện vốn nằm ở nơi cội nguồn của việc sùng
kính này. Chúng ta cần phải thống nhất với nhau về điều mà người ta hiểu là sự
kiện lịch sử. Có nhiều sự kiện thực sự đã xảy ra, nhưng không tạo nên lịch sử,
bởi vì điều “tạo nên lịch sử”, theo ý nghĩa đặc thù của nó, không phải là tất
cả gì đã xảy ra, mà duy chỉ có điều mà, còn hơn cả đã được xảy ra, đã có một
tầm ảnh hưởng lên trên đời sống của một dân tộc, đã tạo ra được một sự gì đó
mới mẻ, đã để lại được một dấu vết nào đó bên trong lịch sử. Và dấu vết mà Đức
Nữ Trinh Guadalupe đã để lại trong lịch sử của dân tộc Mexique và cả châu Mỹ
Latinh quả thực sâu sắc biết bao, làm sao có thể hình dung ra được đây!
Sự kiện hình ảnh Đức Maria, ngay từ khi
lục địa châu Mỹ mới bắt đầu được loan báo Tin Mừng, năm 1531, thấy được in ấn
trên chiếc áo choàng (tilma) của Thánh Diego, dưới những đường nét của một cô
gái trẻ pha trộn da màu, đúng như cái tên của ngài là “Morenita”, trên đồi
Tepeyac, mạn Bắc Mexico, vốn mang một ý nghĩa tượng trưng rất cao. Người ta
không thể có được cách nói nào đầy gợi ý hơn thế, rằng Giáo Hội, ở châu Mỹ
Latinh, như vậy là được mời gọi - và Giáo Hội ở đây vẫn muốn làm như thế - để
làm người bản xứ với những người bản xứ, để làm người da trắng lai với những người
da trắng lai, là tất cả cho tất cả mọi người.
Raniero Cantalamessa, ofmcap
Lm. Phêrô Nguyễn Thiên Cung dịch
Nguồn: Dịch
từ bản Pháp ngữ của Zenit (Isabelle Cousturié)
(emty.org Cập nhật: 06/01/2012 -
23:06:29)