Thánh Phanxicô
gặp gỡ người Islam – Một khởi đầu ý nghĩa cho đối thoại liên tôn
6/25/2014 7:54:17 PM – Nét mới của
PHANXICÔ không phải là
truyền giáo cho lương dân, nhưng là tìm
cách đem Chúa Kitô và Phúc Âm đến với người Islam, là nhóm người đang bị thế giới phương Tây nhìn bằng một cái nhìn thù nghịch.
Dẫn
Nhập
Trong lịch sử Giáo hội,
Luật Dòng Anh em hèn mọn là bản Luật Dòng tu đầu tiên chứa đựng những quy định
về việc các tu sĩ đi rao gỉảng Tin Mừng cho lương dân. Điều đáng chú ý là Thánh
Phanxicô (1181-1226) nhắc tới “người Islam và những dân ngoại khác” (x. Lksd 16,1-21; L 12,1-2) [1]. Như vậy, Ngài quan
tâm ưu tiên tới người Islam. Nêu lên sự kiện này,
không có nghĩa muốn nói rằng Dòng Anh Em Hèn Mọn là Hội Dòng đầu tiên gửi tu sĩ
đi truyền giáo cho lương dân. Các Hội Dòng khác, như Dòng Thuyết giáo của
Thánh Đaminh, đồng thời với Thánh Phanxicô, đã đóng góp rất nhiều trong việc
truyền bá đức tin cho dân ngọai. Và trước thời hai vị thánh tổ phụ của hai Hội
Dòng “hành khất” lớn nhất của Giáo Hội thời Trung Cổ, thì chính các đan sĩ Dòng
Biển Đức (từ thế kỷ VI) đã là những nhà thừa sai, truyền giáo cho các dân ngọai
của châu Âu, nhất là Bắc Âu. Vì thế, vào năm 1964, ĐGH Phaolô VI tôn phong
Thánh Biển Đức là “Quan Thầy” của Châu Âu, vì thánh nhân đã mang đến cho châu lục
này sự tiến bộ Kitô giáo bằng “Thập giá, quyển sách và lưỡi cày” [2], với châm
ngôn “Ora et Labora”, “Cầu nguyện và Lao động”, trong đó cầu nguyện và đời sống
tu trì được biểu trưng bởi “Thập Giá”, còn “quyển sách và lưỡi cày” là biểu tượng
của lao động trí óc và lao động chân tay. Nét mới của PHANXICÔ không phải là
truyền giáo cho lương dân, nhưng là tìm cách đem Chúa Kitô và Phúc Âm đến với
người Islam, là nhóm người đang bị thế giới phương Tây nhìn bằng một cái nhìn
thù nghịch. Để thấy rõ hơn nét mới ấy, chúng ta nên nhìn
PHANXICÔ trong bối cảnh tôn giáo, chính trị và xã hội của thời đại ngài.
Phần
I. Làn sóng Islam
1. Vào năm 313 Constantinô Đại đế ký chỉ
dụ Milanô chấm dứt ba thế kỷ Kitô giáo bị đế chế La mã bách hại, và công nhận
Kitô giáo là quốc giáo.
Già một thế kỷ sau đó, khi Thánh
Augustinô thành Hippôn qua đời (354- 430), Kitô giáo đã lan
tràn khắp nơi chung quanh bờ Địa Trung Hải, và chỉ riêng vùng Bắc Phi đã có tới
600 Giáo phận Công giáo. Thế rồi xuất hiện Mahômét (570?- 632), người sáng lập
đạo Hồi vào năm 622, tạo ra một làn sóng mang tính chất tôn giáo, chính trị và
quân sự, đã nhanh chóng làm thay đổi bản đồ tôn giáo của châu Phi, châu Âu và
châu Á. Bằng phương tiện “thánh chiến” (jihad),
làn sóng Islam bành trướng như vũ bão và sau non một thế kỷ, đã làm chủ từ Tây
Bắc châu Phi đến miền Bắc Ấn Độ. Giêrusalem và Palestina bị chiếm rất sớm, vào
năm 637. Bành trướng tới đâu, thì các lực lượng chinh phục thiết lập các định
chế Islam tới đó, dẫn đến sự hủy diệt toàn bộ Kitô giáo tại chỗ, bằng chứng là
tất cả 600 tòa Giám mục Công giáo đã biến mất khỏi Bắc Phi, quê hương của Thánh
Augustinô. Châu Âu bị tấn công từ hai phía: tại Constantinople bên Đông và tại
mõm
2. Cuộc đời thánh PHANXICÔ nằm gọn trong
thời đại “Thập tự chinh” (Croisades, Crusades).
2.1. Thập tự chinh là một phản ứng tự vệ
của thế giới Kitô giáo, một hiện tượng lịch sử kéo dài 195 năm (từ 1096 đến
1291), ngót hai thế kỷ. Phía các Kitô hữu phương Tây luôn tạo
thành một khối liên minh giữa hàng quý tộc lãnh đạo của những nước lớn như
Pháp, Anh, Đức,
2.2. Khi PHANXICÔ chào đời năm 1181
(hoặc 1182), Giáo Hội Công giáo phương Tây đã tiến hành hai cuộc Thập tự
chinh lớn và sẽ thực hiện thêm ba cuộc Thập tự chinh lớn khác nữa trong đời
PHANXICÔ, trên tổng số tám cuộc Thập tự chinh diễn ra trong vòng hai thế kỷ.
2.2.1. Cuộc Thập tự chinh thứ nhất
vào năm 1096-1099, đã giải phóng đuợc Giêrusalem, tái chiếm Ngôi Mộ Chúa vào
năm 1099 và thành lập Vương quốc Pha Lang (Royaume
franc, mà người Đại Việt thế kỷ XVII phát âm thành Hoa lang), cũng gọi
là Vương quốc La tinh (Royaume latin) tại
Giêrusalem (1099-1291). Song song với cuộc Thập tự chinh bằng quân lực, cũng diễn
ra một cuộc Thập tự chinh bình dân gồm những giáo dân đạo đức, nhiệt thành,
hăng say đi chiến đấu vì muốn hưởng ơn toàn xá và cả ơn tử vì đạo nữa, nhưng đã
kết thúc một cách thảm hại.
2.2.2. Cuộc Thập tự chinh thứ hai
(1147-1149) do Thánh Bênađô (1090-1153) vận động vào tháng 3/1146 bằng những
bài giảng hùng hồn và nảy lửa tại Vézelay (khoảng
150 km về phía Đông Nam Paris), cuối cùng gặp thất bại hoàn toàn.
2.2.3. Cuộc Thập tự chinh thứ ba
(1189-1192) diễn ra khi PHANXICÔ bắt đầu có tuổi khôn (7 đến 10 tuổi), hiểu biết phần nào chuyện thời
cuộc, nhất là khi lắng nghe một cách thích thú các bài ca, do những “ca sĩ hát
rong” (troubadours) xướng lên
để ca ngợi tinh thần dũng cảm của những hiệp sĩ Thập tự chinh, như vua nước Anh
Richard Coeur-de-Lion (vua Richard Hùng
Tâm Dũng Chí bất khuất như sư tử), bên cạnh những bài ca kinh điển ca ngợi
thành tích của Vua Arthur và các Hiệp Sĩ Bàn Tròn. Cuộc chiến
thứ ba này chỉ tái chiếm được hải cảng Saint-Jean d’Acre ở
2.2.4. Đối với cuộc Thập tự chinh
thứ tư (1202-1204) do ĐGH Innocentê III chủ xướng và các lãnh chúa của nước
Pháp liên minh với vị Thống lĩnh Cộng hòa Venise thực hiên, chắc chắn chàng
trai PHANXICÔ ở tuổi 21- 23 đã quan tâm theo dõi một cách háo hức. Cuộc Thập tự
chinh này là một thảm họa khủng khiếp, không những bôi đen uy tín của vị Giáo
hoàng vĩ đại, mà nhất là đã tạo ra một vết thương lớn cho Giáo Hội Chính thống
Đông phương và làm cho hố ngăn cách giữa hai Giáo hội Đông Tây, vốn đã ra vạ
tuyệt thông lẫn nhau vào năm 1054, nay càng tỏ ra không thể hàn gắn nổi. Đạo
quân phương Tây, thay vì trực chỉ Giêrusalem để giải phóng Mồ Chúa, đã dừng lại
ở Constantinople, vây hãm và tàn phá nó thê thảm, bằng chém giết, cướp bóc, hãm
hiếp, hôi của và xúc phạm những thánh điện của các Kitô hữu Chính thống. Một đế chế Latinh được thành lập tại
Phần
II. Kinh nghiệm Thập tự chinh của PHANXICÔ
Trong những bước đầu tiên đánh dấu cuộc
hóan cải của PHANXICÔ, giấc chiêm bao về một lâu đài đầy binh khí và cuộc đối
thoại với tiếng nói huyền bí, mang một ý nghĩa và tấm quan trọng đặc biệt, nên
cần được phân tích kỹ lưỡng.
1. Trước tiên các truyện ký đều ghi nhận
rằng PHANXICÔ là một chàng thanh niên con nhà giàu, háo danh.
1.1. Khi bị cầm tù tại Pêrugia
năm 1202 trong cuộc chiến tranh giữa thành phố này với Assisi, PHANXICÔ đã từng
tuyên bố với các bạn tù: “Các bạn nghĩ gì về tôi hả? – sau này cả thế gian
thiên hạ sẽ kính nể tôi” (x. Khuyết danh
Pêrugia = kdp 4; 2 Cel 4). Sau giấc chiêm bao về lâu
đài chứa đầy vũ khí, PHANXICÔ tràn ngập niềm phấn khởi, lên đường hướng về
Pulia để lập thành tích và được phong hiệp sĩ. Chàng đã trả lời những
người ngỡ ngàng trước niềm vui khác thường của chàng: “Tôi biết, tôi sẽ trở
thành một ông hoàng lớn” (x. 3NB, 5; Kdp
5d; 2 Cel 6).
1.2. Vì vậy, tư thế con nhà giàu là
một bàn đạp vững chắc cho chàng trai PHANXICÔ háo danh nhảy lên vũ đài
vinh quang của giới hiệp sĩ. Điều này đã có một quá trình lịch sử: Vào năm
1198, thừa cơ lúc quân lính của đế quốc Đức rút khỏi pháo đài La Rocca, giai cấp
“bình dân” (minores homines) của
Assisi, trong thực tế đó là giai cấp “trung lưu” gồm giới thương gia đang vươn
lên và các giới thủ công nghiệp (không
bao hàm giới nông dân sống bên ngoài thành phố và những người nô lệ!),
kéo lên đập phá pháo đài, biểu tượng của đế chế ngọai bang, lấy đá xây tường
thành, và thành lập chế độ “Công Xã”, có Nghị Viện do giai cấp “trung lưu” được
giới thương gia lãnh đạo, bầu lên. Giới “thượng lưu” (boni homines hoặc majores, có thể hiểu như là “những
thiện nhân hoặc đại nhân, quân tử”, trong đó có gia đình của Clara) bị
chống đối, nên lần lượt di tản sang Pêrugia, cách Assisi khoảng 15km, để tính kế
phục thù và hồi hương [5]. Vì giới thượng lưu, vườn ươm của các hiệp sĩ, đã phải
rời Assisi, nên không còn ai là hiệp sĩ để chu toàn các nghĩa vụ của hệ thống
phong kiến (ví dụ để tòng quân tham chiến
nhằm ủng hộ Đức Giáo hoàng chống lại đế chế Đức), thế nên Nghị Viện
thành phố quyết định kêu gọi những quý tử của các gia đình giàu có tình nguyện
nhập ngũ với triển vọng được phong hiệp sĩ, nếu gia đình có đủ tiền sắm cho con
mình chiếc áo giáp, một chiến mã và khí giới kỵ binh [6]. PHANXICÔ thuộc nhóm “ứng
viên hiệp sĩ hãnh tiến” này và ông bố Pietro Bernadone rất hãnh diện về cậu con
trai trưởng của mình, vừa bặt thiệp trong nghề buôn bán, vừa hào hoa phong nhã
trong giao tế. Ông tạo điều kiện tối ưu cho con mình thăng tiến, và qua đó
thăng tiến chính gia đình ông. Vào năm 1205, hòa ước được ký kết giữa Pêrugia
và Assisi, theo đó các tù binh thuộc giới trung lưu của Assisi được trả tự
do (riêng PHANXICÔ đã được bố bỏ tiền ra chuộc
về trước đó một năm rồi, vì cậu ấm ngã bệnh), và Nghị Viện Assisi phải
chấp nhận cho các gia đình thượng lưu đã di tản được hồi hương và nhận lại tài
sản của minh, còn giới trung lưu Assisi thì được quyền có tiếng nói về các vấn
đề liên quan tới đời sống thành phố qua các đại biểu do họ bầu chọn [7]. Hòa ước
này chỉ củng cố thêm cho kế hoạch của hai bố con PHANXICÔ.
2. Từ ước mơ làm hiệp sĩ quân sự đến ơn
gọi làm hiệp sĩ tâm linh
Cho đến mùa xuân năm 1205, PHANXICÔ thực
sự là một chàng thanh niên con nhà giàu, háo danh, đã đáp lại lời kêu gọi của
ĐGH Innocentê III, tình nguyện tòng quân dưới quyền tư lệnh của Gauthier de
Brienne, một Bá Tước người Pháp [8], với tham vọng được phong hiệp sĩ, thậm chí
trở thành một “ông hoàng lớn”. PHANXICÔ hiểu rất rõ chiến dịch chàng tham gia
là một cuộc Thập tự chinh nội địa, song song với cuộc Thập tự chinh hải ngọai,
mà có lẽ các tin tức về kết cục đáng xấu hổ của nó chưa thấu tai PHANXICÔ và
người đồng hương vào đầu năm 1205, nhưng trước sau gì rồi mọi người tại châu Âu
cũng phải biết. Vậy điều gì đã xảy ra với PHANXICÔ tại
Spoleto vào một đêm mùa xuân năm ấy?
2.1 Chúng tôi dựa trên 5 nguồn, nghĩa
là 5 truyện ký kỳ cựu về cuộc đời Thánh PHANXICÔ xếp theo thứ tự thời
gian (có ghi luôn quy chiếu chính xác cho
đề tài đang bàn), đó là: Hạnh Thánh PHANXICÔ quyển thứ nhất do Celanô viết (1 Cel 5); Khuyết danh Pêrugia (Kdp 5-6); Ba Người Bạn (3NB 5- 6); Hạnh Thánh PHANXICÔ quyển thứ hai
do Celanô (2 Cel 6); và Đại Truyện
của Thánh Bonaventura (ĐT 1,3) [9].
2.1.1 Cả năm tư liệu nguồn vừa nêu
đều kể lại cuộc chiêm bao của PHANXICÔ thấy một lâu đài đầy ắp khí giới của các
hiệp sĩ, và nghe một lời hứa sẽ ban khí giới ấy cho PHANXICÔ và các hiệp
sĩ (hoặc các chiến sĩ) của
chàng. Riêng 1 Cel, được viết ra sớm nhất, vào năm 1228, không kể lại cuộc đối
thọai với tiếng nói huyền bí tiếp theo sau giấc chiêm bao (nên phân biệt tiếng nói huyền bí: “Ai có thể giúp
anh nhiều hơn, Đấng làm chủ hay kẻ làm tôi?” với lời hứa trong giấc chiêm bao về
lâu đài!), vì lúc đó Celanô suy nghĩ rằng PHANXICÔ tự cảm thấy mình
không còn bị cuốn hút bởi mộng công danh này như trước nữa, nên đã tự quyết định
bỏ cuộc, không đi Pulia nữa, mà trở về Assisi ngay. Tác giả
J.H. Smith [10] xem ra hài lòng với cách trình bày của 1 Cel và coi việc các
tài liệu được viết ra sau đó kể lại cuộc đối thọai giữa PHANXICÔ với tiếng nói
huyền bí là không cần thiết. Thực ra khi Anh Tôma Celanô viết quyển hạnh
thứ nhất (1 Cel) thì anh chưa
có đầy đủ trong tay chứng từ của những Anh em đầu tiên đã sống sát cánh với
Thánh PHANXICÔ như được ghi lại trong Kdp và 3NB, thành ra truyện ký của anh
còn nhiều thiếu sót, mà anh sẽ cố gắng lấp đầy khi viết hạnh thứ hai (2 Cel) vào năm 1247. Trong
2 Cel 6, chúng ta tìm thấy hai câu chuyện về lâu đài đầy vũ khí và về cuộc đối
thọai của PHANXICÔ với tiếng nói huyền bí được kể lại đầy đủ như trong Kdp 5- 6
và 3NB 5- 6. Ông Smith có những suy nghĩ riêng của ông, khi dựa vào 1
Cel 5 để lọai bỏ tiếng nói huyền bí tại Spoleto; và dựa vào 1 Cel 8 (và cả Kdp 7b- c- d nữa) để lọai bỏ tiếng
nói của Chúa Kitô Chịu Đóng Đinh tại San Damiano [11].
Nhưng chúng tôi theo quan điểm truyền thống,
dựa trên chính quan điểm của Celanô, dùng Hạnh thứ hai (2 Cel) bổ sung cho Hạnh thứ nhất (1 Cel), và làm như thế là trân trọng tất cả
các tư liệu nguồn. Và theo cả 5 tư liệu ấy, kể cả 1 Cel, thì PHANXICÔ đã trải
qua một sự chuyển biến nội tâm, đi từ tham vọng rất trần tục muốn trở thành một
hiệp sĩ quân sự vẻ vang, giàu có, đến quyết định, do ơn Chúa thúc đẩy, trở nên
một hiệp sĩ tâm linh, thực hiện một cuộc Thập tự chinh tâm linh. Thật vậy, theo
1 Cel 5, vào lúc đó, PHANXICÔ “vẫn hòan tòan chưa hiểu trọng trách từ trời ban
xuống cho mình…”, nhưng “linh kiến về vũ khí xảy ra vào ngay lúc khởi đầu sự
nghiệp, quả là một điềm báo tuyệt diệu: việc trao khí giới rất thích hợp với một
trang dũng sĩ (miles có thể hiểu đồng
nghĩa với “hiệp sĩ”) sắp phải giao chiến với kẻ mạnh hơn và vũ
trang đầy đủ (x. Lc 11,21). Như một
Đavít mới, nhân danh Chúa, Thần các đạo binh (x.
1 Sm 17,45), ngài sẽ giải thoát
2.1.2 Chúng tôi rất tâm đắc với
cách ông Smith diễn đạt ý nghĩa của việc PHANXICÔ thấy trong mộng vũ khí hiệp
sĩ và nghe trong mộng tiếng nói của Chúa tại Spoleto bảo chàng hãy trở về
Assisi, theo cách hiểu của Thánh Bonaventura, là để từ quê hương mình “thực hiện
một cuộc Thập tự chinh tâm linh” [12].
- Thánh Bonaventura viết nguyên văn như
sau: “Hãy trở về quê hương, vì linh kiến con đã thấy, phác thảo trước một kết cục
tâm linh. Nó sẽ trở thành hiện thực không phải do nỗ lực của con người, nhưng
do sự an bài của Thiên Chúa”(ĐT 1,3).
- Trước đó, Celano viết trong Hạnh thứ
hai: “PHANXICÔ đổi vũ khí thể xác thành vũ khí tinh thần và được phong tước bởi
trời thay vì vinh quang binh nghiệp” (2
Cel 6).
- Trước đó nữa, Khuyết danh Pêrugia viết:
“PHANXICÔ có cảm tưởng như ơn Chúa đột nhiên biến đổi chàng thành một con người
khác” (Kdp 6).
- Còn Ba Người Bạn thì chỉ viết đơn giản:
“Hãy trở về quê hương, rồi sẽ cho con biết phải làm gì. Linh kiến con đã thấy,
con phải hiểu theo nghĩa khác”— theo nghĩa tâm
linh (x. 3NB6).
2.1.3 Khi về lại quê hương Assisi,
cuộc Thập tự chinh đầu tiên PHANXICÔ thực hiện, là chiến đấu với chính mình, chống
lại cái tôi háo danh, luôn tìm cách giật nổi hơn người; chống lại cái tôi thích
tìm kiếm sự ngọt ngào của cuộc sống, và từng bước tập chịu đựng sự đắng đót, và
biến cái đắng đót thể xác thành cái ngọt ngào tâm linh (x. 3NB 11a).
- Lần tập dượt đầu tiên về cuộc chiến đấu
này là cuộc gặp gỡ người cùi: cảm nghiệm thứ nhất này được chính PHANXICÔ nhắc
lại một cách rõ ràng trong Di Chúc (x. 1
Cel 17; 3NB 11b-c-d; 2 Cel 9; ĐT 1,5; DC 1-3), qua đó PHANXICÔ lần đầu
tiên thắng được con người tự nhiên của mình vốn luôn cảm thấy đắng đót, tởm lợm
khi nhìn thấy người cùi, nhưng lần này nhờ ơn Chúa tác động, chàng đã ôm hôn một
người cùi và tức khắc nếm cảm được một sự ngọt ngào trong tâm hồn cũng như
ngòai thể xác, nghĩa là có được một cảm nghiệm tâm-thể-lý (psychosomatique) sâu sắc và tòan diện (x. DC 1-3). Theo Thánh Bonaventura, PHANXICÔ
đã tự nhủ mình: “trước hết phải chiến thắng bản thân nếu muốn trở thành một hiệp
sĩ của Chúa Kitô”(miles Christi: ĐT 1,5). Lý
tưởng hiệp sĩ, được thăng hoa, vẫn là động lực thúc đẩy PHANXICÔ hành động.
- Cảm nghiệm thứ hai, theo tường thuật của
một mình Thánh Bonaventura mà thôi, là cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô-Chịu-Đóng-Đinh-Vào-Thập-Giá,
Đấng hiện ra với PHANXICÔ đang chìm sâu trong sự suy gẫm và cầu nguyện nơi một
hang động thanh vắng gần Assisi. “Lòng PHANXICÔ tan chảy ra khi thấy cảnh tượng
ấy, và ký ức cuộc khổ nạn của Đức Kitô được in vào nơi thâm sâu nhất của trái
tim ngài” (ĐT 1,5).
- Cảm nghiệm thứ ba, PHANXICÔ nghe được
lời Chúa Kitô phán dạy từ trên tượng Thánh Giá Đamianô: “Hỡi PHANXICÔ, con
không thấy nhà Ta đang đổ nát đó sao? Hãy đi sửa lại cho Ta”.
Ngỡ ngàng và sợ hãi, chàng thưa:”Lạy Chúa, con xin sẵn lòng” (x. 3NB 13; 2 Cel 10; ĐT 2,1).
PHANXICÔ thi hành ngay lệnh của Chúa: ngài bắt tay sửa lại ngôi nhà nguyện bằng
đá, và sau này ngài mới hiểu thêm rằng Chúa muốn ngài tu sửa Hội Thánh mà Chúa
đã mua bằng máu của mình (x. 2 Cel 10 và
ĐT 2,1). Theo cả ba nguồn sử liệu vừa nêu (3NB, 2 Cel và ĐT), việc làm này đả đẩy
PHANXICÔ vào cuộc xung khắc với bố ruột, bởi lẽ, để có tiền tu sửa nhà nguyện,
PHANXICÔ đã lấy vải của bố đi bán, và bán luôn cả con ngựa (x. 3NB 16; 2 Cel 11; ĐT 2,1- 2). PHANXICÔ tu
sửa nhà Chúa, đặt mình dưới sự che chở của vị linh mục quản nhiệm nhà Chúa, điều
đó có nghĩa là, một cách nào đó, PHANXICÔ thuộc về “Nhà Đức Chúa Trời” rồi,
không còn thuộc về thế gian nữa. Ông bố phản ứng đầy phẫn nộ, không phải chỉ vì
tiếc của, nhưng còn vì thấy rằng đứa con trai mà ông đặt nhiều kỳ vọng đang vuột
khỏi bàn tay điều khiển của ông. Về
phần mình, PHANXICÔ tự hiểu rằng từ khi thi hành lệnh của Chúa, là đã thuộc về
Chúa rồi. Chắc hẳn đó là lúc ngài “ra khỏi thế gian”
như ngài nói trong Di Chúc (x. DC 4).
Chính vì thế, khi ông bố muốn đưa vụ việc ra công lý, thì
PHANXICÔ không chấp nhận để cho tòa đời xét xử, mà chỉ chấp nhận sự xét xử của
tòa đạo mà thôi (x. 3NB 19).
Chắc hẳn cũng vì hiểu như thế, nên Thánh Bonaventura coi cảm nghiệm thứ ba này
của PHANXICÔ như sự kiện đánh dấu “cuộc hoán cải hoàn hảo của ngài” (“De perfecta conversione ejus ad Deum et de
reparatione trium ecclesiarum: Về cuộc hoán cải hoàn hảo của PHANXICÔ về với
Thiên Chúa và việc ngài trùng tu ba ngôi thánh đường”: ĐT, đầu đề chương Hai).
Nghĩa là cảm nghiệm về người cùi, cũng như cảm nghiệm Spoletô
trước đó, chỉ mới là khởi đầu của cuộc hoán cải nơi PHANXICÔ (x. DC 1).
Hai cuộc gặp gỡ rất đặc biệt với Đức
Kitô-Chịu-Đóng-Đinh (cảm nghiệm hai và
ba) quả thực đã biến đổi PHANXICÔ thành một hiệp sĩ tâm linh của Đức
Kitô, sẵn sàng vác Thập giá đi theo Chúa và làm theo lời Người dạy để đạt tới sự
trọn lành cho bản thân và góp phần trùng tu Nhà Chúa theo cả nghĩa đen lẫn
nghĩa bóng.
- Cảm nghiệm thứ tư: cuộc chia tay với bố
ruột tại tòa Giám mục
3. Từ Thập tự chinh quân sự chống Islam
đến Thập tự chinh truyền giáo cho người Islam và các dân ngoại khác
Nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa trong
quá trình hoán cải, PHANXICÔ đã từng bước được biến đổi thành một hiệp sĩ tâm
linh, để thực hiện một cuộc Thập tự chinh tâm linh
trong đời sống bản thân và đời sống Giáo Hội tại quê nhà. Vào giữa tháng 4/1208
PHANXICÔ được Chúa ban cho có những anh em đầu tiên và mặc khải cho biết phải sống
theo thể thức Thánh Phúc Âm trong Giáo Hội (x. DC 14-15).
Từ đó, PHANXICÔ từng bước có những suy nghĩ mới về cuộc Thập tự chinh quân sự
do các Đức Giáo hoàng chủ xướng. Các năm 1212, 1213 và 1219 là những mốc điểm
có ý nghĩa to lớn đối với quan niệm mới mẻ này của PHANXICÔ về Thập tự chinh
truyền giáo cho người Islam.
3.1 Chuyến đi bất thành sang
Vào năm 1212,
số Anh em đã tăng lên nhanh và đã ổn định chỗ ở tại Portiuncula. Từ thứ Hai Thuần Thánh (19/3) đến đầu tháng 5/1212 PHANXICÔ đã lần
lượt trao áo Dòng nâu cho hai chị em Clara-Agnès và ổn định chỗ ở cho nhóm các
Bà Nghèo đầu tiên tại đan viện Đamianô. Rồi vào mùa hè năm ấy, PHANXICÔ
cùng với một anh em trẩy đi
Cũng trong năm 1212 này đã xảy ra một biến
cố vô tiền khoáng hậu: đó là cuộc Thập tự chinh của các thiếu niên, với khoảng
30.000 em đến từ Pháp do một anh chăn cừu ở Vendôme tập hợp, và 20.000 từ vùng
sông Ranh bên Đức phấn khởi hưởng ứng sáng kiến đạo đức ấy. Không bị ai can ngăn, nhưng cũng chẳng được ai huấn luyện. Dĩ nhiên là thất bại nặng nề ngay khi mới khởi hành, vì không có
khí giới, không có kinh nghiệm trận mạc, không có tổ chức, không tiền bạc,
không lương thực. Rất ít em trở về được với gia đình.
Không em nào tới được Giêrusalem, trừ phi là với tư cách nô lệ.
Một phần chết thê thảm vì đói khát và bệnh tật. Phần
còn lại bị các lái buôn nô lệ bắt và bán sang vùng Ban-căng [16]. Phải chăng
PHANXICÔ cũng đã có cách hành động như trẻ con, lên đường với lòng đầy nhiệt
huyết, nhưng với hai bàn tay trắng? Cuộc Thập tự chinh
truyền giáo đầu tiên của PHANXICÔ cho Islam có nét cơ bản giống như thế, đó là:
khâu tổ chức hết sức tồi tệ, và dĩ nhiên là không mang theo
khí giới. Và cũng dĩ nhiên là không phải để chém giết người Islam, đúng hơn là
để được tử vì đạo, nhưng trước khi bị họ giết, thì vẫn hy vọng có cơ hội dùng lời
nói và gương lành thuyết phục họ tin theo Chúa Kitô [17]. Cuộc lên đường của
PHANXICÔ giống như đám trẻ đi Thập tự chinh, nhưng may thay, kết cục không thê
thảm như chúng.
Celanô (1 Cel 55) và Thánh Bonaventura
(ĐT 9,5) đã kể lại nhiều tình tiết lý thú của chuyến
đi truyền giáo bất thành này. Khi thuyền gặp gió ngược trên biển, buộc phải cập
bến tại Đalmatia (tức Slovania, Nam Tư ngày nay), thì không có tàu thuyền nào
khác đi tiếp sang Syria, do đó PHANXICÔ phải tìm cách trở về Ý. Vì không có tiền
trả lộ phí, PHANXICÔ và bạn đồng hành bèn nghĩ kế lẻn xuống một chiếc tàu, đi lậu
vé. Nhưng may mắn, một vị khách lạ cùng lên tàu, trao cho một thủy thủ có lòng
đạo đức quản lý giùm một ít lương thực để cung cấp cho hai vị tu sĩ nghèo khó
đang ẩn trốn dưới tàu. Gặp gió bão, tàu trôi lênh đênh trên
biển nhiều ngày. Lương thực cạn kiệt. May, Chúa Quan Phòng nhậm lời cầu nguyện của PHANXICÔ làm cho bánh
hóa ra nhiều, cho mọi người sống qua ngày. Câu chuyện PHANXICÔ đi lậu vé
kết thúc một cách thánh thiện khi tàu cập bến tại
3.2 Chuyến đi Marốc bất thành năm 1213
Ý tưởng Thập
tự chinh truyền giáo vẫn không buông tha PHANXICÔ, vì đã trở thành một chọn lựa
chín chắn và xác tín. Sang năm sau, ngài đem theo Anh
Bênađô Quintavalle đi Marốc để rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô cho vua Islam
Miramôlinô. Khi đến Tây Ban Nha, một đất nước công giáo mà một số vùng vẫn đang
bị người Maures Islam đô hộ, ngài ngã bệnh nặng, buộc phải trở vế Ý (x. 1 Cel
56; ĐT 9,6). Chính ngài mở đường và nêu gương cho một số anh em hèn mọn đi truyền
giáo tại Marốc qua ngả Tây Ban Nha, nhờ đó Dòng sẽ có được năm vị Thánh Tử vì đạo
đầu tiên vào ngày 16.1.1220, mà ngài sẽ gọi là “năm anh em hèn mọn đích thực”
[18].
3.3 Con số 3 kỳ diệu của PHANXICÔ
Khi Chúa ban cho PHANXICÔ hai anh em
tiên khởi là Bênađô Quintavallê và Phêrô Cattani, thì cả ba đưa nhau đến Nhà Thờ
Thánh Nicôla tại quê hương Assisi vào một ngày đẹp trời của tháng 4 năm 1208, để
cầu nguyện và tìm ánh sáng của Chúa, bằng cách giở sách Phúc Âm ba lần vì lòng
kính mến Thiên Chúa Ba Ngôi (x. 3NB 28-29; Kdp 10-11a; 2 Cel 15; ĐT 3,3). Qua đó PHANXICÔ đón nhận được sự “mặc khải của Chúa về
lối sống theo thể thức Thánh Phúc Âm” (x. DC 14-15).
Vào năm 1219, sau hai lần đi truyền giáo cho anh em Islam bị thất bại, PHANXICÔ
thử vận may lần thứ ba, và lần này thì thành công. Thánh Bonaventura viết: “Nhiệt
tình của lòng mến vẫn thúc giục tinh thần ngài đi tìm kiếm phúc tử vì đạo, nên
ngài lại lên đường lần thứ ba để đi đến với những người ngoại giáo, hy vọng được
đổ máu để cho lòng tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi lan rộng” (ĐT 9,7).
3.3.1 Năm 1219, một cao điểm trong
cuộc đời PHANXICÔ
Đối với PHANXICÔ, năm 1219 được đánh dấu
bởi những sự kiện mang nhiều ý nghĩa, mà ý nghĩa lớn lao nhất chính là sự quan
tâm đặc biệt của ngài tới phần rỗi của Anh em Islam. Sau Tu
nghị Lễ Hiện Xuống (tháng 5), ngài chúc lành cho nhóm anh em tình nguyện đi
truyền giáo tại Marôc qua ngã Tây Ban Nha [19]. Như đã nói trên kia, đó là nhóm ứng viên Tử vì đạo đầu tiên của Dòng đấy!
Ngài cất vào túi đồ của mình bản sao đỏan sắc Cum
dilecti do ĐGH Hônoriô III ký ngày 11/6/1219, gửi gắm PHANXICÔ và Dòng Anh em
hèn mọn cho sự quan tâm của các Đức Giám mục và các Giám chức khắp nơi. Roài
PHANXICÔ cùng với 12 anh em (trong đó có anh Phêrô Cattani, anh Xêdariô thành
Speyer và anh Illuminatô) đi theo tàu của Thập tự quân rời Ý ngày 24/06 sang Ai
Cập [20], nơi đang diễn ra cuộc Thập tự chinh thứ năm, do ĐGH Innocentê III
(1198-1216) công bố tại Công Đồng Latêranô IV vào năm 1215 và ĐGH Honôriô III
(1216-1227) khởi binh vào năm 1217. Một tháng sau, đòan thừa
sai đến hải cảng
3.3.2 Cuộc gặp gỡ lịch sử giữa
Phanxicô và Sultan el-Melek el-Kamel
Trước khi ghi
lại diễn tiến cuộc gặp gỡ, thiết tưởng nên giới thiệu hai nhân vật. Về PHANXICÔ, chúng ta đã biết khá rõ, nên chỉ cần tìm hiểu thêm về
đối tác của ngài.
A. Sultan el-Melek el-Kamel
(1180-1238)
Ông là cháu gọi
Sultan Salađin bằng bác ruột. Salađin (tên thật là Salâh-el-Din,
1138-1193) là một nhân vật lừng danh của lịch sử Islam, vì đã lập ra vương tộc
Ayoubite, đã sát nhập Syria và Lưỡng hà địa vào Ai Cập và biến Ai Cập thành
vương quốc mạnh nhất của phương Đông Islam, có khả năng đương đầu với phương
Tây Kitô giáo. Ông trị vì từ 1171 đến 1193. Ông đã lập được chiến công lẫy lừng là đánh thắng vương quốc Latinh
của Thập tự quân và chiếm Giêrusalem vào năm 1187. Sau Salađin, đến lượt
Melek-el-Adil, em ruột của ông, cai trị Ai Cập.
El-Melek el-Kamel, con trai của Sultan thứ hai này lên ngôi năm 1218, sẽ là người
tiếp đón PHANXICÔ vaøo năm 1219.
El-Melek el-Kamel có hai niềm đam mê:
yêu khoa học tự nhiên và thích khoa thần bí của trường phái Sufi (Sufisme). Bên cạnh ông luôn có một vài nhà thông thái để đàm đạo với ông về
khoa học, và một vài nhà hiền triết và thần bí hiểu biết chuyên sâu về kinh
Koran để giúp ông sống đạo. Một số chứng từ lịch sử
còn cho thấy ông là một người giàu lòng nhân ái. Ví dụ: kinh sĩ Olivier
thành Cologne, từng là tù binh của Sultan này trong năm 1219, sau khi được
phóng thích, đã viết cho vị ân nhân của mình một lá thư cám ơn vào tháng 9/1221
với lời lẽ rất chân thành: “Tôi đây, tù binh được ngài phóng thích, đầy tớ của
ngài được Thánh Giá cứu chuộc, tôi sẽ không bao giờ quên ơn ngài. Chưa bao giờ có ai trưng ra một ví dụ về lòng tốt như thế đối với
những tù binh thù địch. Khi Chúa để cho chúng tôi rơi vào tay ngài, thưa
Đức Vua, thì chúng tôi đã không có cảm tưởng mình đang ở dưới quyền một bạo
chúa hay một ông chủ, nhưng là ở dưới quyền một người cha, một người cha đã ban
đầy ân huệ cho chúng tôi, đã cứu giúp chúng tôi trong cảnh khốn cùng, đã thăm
viếng chúng tôi trong cơn thử thách, và đến cả chịu đựng những lời càm ràm của
chúng tôi nữa…Ngài đã chăm sóc bệnh nhân của chúng tôi, đã nghiêm trị những người
nhạo báng chúng tôi…Thật đúng như tên gọi của ngài, “Kamel” có nghĩa là “hoàn hảo”,
bởi lẽ ngài cai trị một cách khôn ngoan, và với đức độ của ngài, ngài vượt xa mọi
vua chúa…”. Chính ĐHY Jacques de Vitry cũng làm chứng rằng: ngài Sultan đã chứng
tỏ lòng nhân ái lớn lao đối với các tù binh Kitô hữu.
Sau khi ký kết thỏa thuận đình chiến, ngài trả tự do cho tất cả những ai thờ
phượng Chúa Giêsu-Kitô bị xiềng xích trong các nhà tù của ngài. Số người này lên đến 30.000. Ngài để cho họ chọn: hoặc trở về
với gia đình, hoặc ở lại chiến đấu dưới ngọn cờ của ngài. Ngài ra lệnh cho thuộc
hạ cung cấp đủ lương thực cần thiết cho những người được phóng thích: ai có tiền
thì trả, ai nghèo khó thì cho không [21].
B. Diến tiến cuộc gặp gỡ
B.1 Sự kiện lịch sử này được kể lại
trong 3 tư liệu nguồn do những tu sĩ Dòng AEHM soạn ra: 1 Cel 57; ĐT 9,7-8 ; và
Ký sự của Anh Giocđanô ( = ksGio 10), cộng thêm một dạng tiểu thuyết bình dân mệnh
danh “Những Bông Hoa Nhỏ” ít mang tính chất lịch sử đáng tin cậy (Fioretti,
Nbhn 24); và cũng được một số nhân vật bên ngòai Dòng AEHM sống cùng thời với
PHANXICÔ nhắc tới: Đó là ĐHY Jacques de Vitry (trong lá thư viết cho ĐGH
Hônôriô III năm 1220, ký hiệu: Vitry A; và trong quyển “Lịch sử Phương Tây:
Historia Occidentalis”, ký hiệu: Vitry B); Ernoul (tác giả Ký sự cuộc Thập tự
chinh thứ năm, ký hiệu: Ernoul); Bênađô Người Giữ Kho Bạc (Bernard le
trésorier, tác giả quyển sách về cuộc chinh phục Thánh Địa, ký hiệu: Kho bạc),
và một tác giả khuyết danh (viết lịch sử vua Eraclès và cuộc chinh phục đất đai
ở hải ngoại, ký hiệu: Eraclès) [22] . Cuộc gặp gỡ này cũng được
một tác giả Ả rập thế kỷ XV, Ibn al-Zayyât, kể lại [23].
B.2 Và sau đây là bảng tổng hợp các
sự kiện liên quan tới sáng kiến của PHANXICÔ chủ động đi gặp Sultan el-Melek
el-Kamel tại tổng hành dinh của Đức Vua ở làng Fariskur gần Đamietta, dựa
trên những sử liệu đáng tin cậy:
B.2.1 Việc đầu
tiên của PHANXICÔ là xin ĐHY Sứ Thần Tòa Thánh Pêlagiô Galvao cho phép mình và
Anh Illuminatô đến gặp Vua Islam. ĐHY hết sức ngạc nhiên và dĩ nhiên
không cho phép vì sợ hai người sẽ bị giết (x. Ernoul 1,a).
B.2.2
PHANXICÔ được biết Thập tự quân, dù đã hai lần thất bại khi tấn công trại binh
Islam, vẫn lăm le tấn công tiếp. Ngài được ơn Chúa soi sáng cho biết: nếu
Thập tự quân tấn công lần thứ ba thì vẫn sẽ thất bại nữa. Ngài tâm sự với anh
Illuminatô: “Nếu tôi nói ra, người ta sẽ cho tôi điên. Nếu
thinh lặng, tôi sẽ cảm thấy một lỗi đè nặng trên lương tâm. Tôi phải làm
sao đây?”. Anh Illuminatô trả lời:”Thưa Cha, đâu phải
hôm nay người ta mới gọi Cha là điên. Cha cứ xả hết gánh nặng lương tâm đi! Sợ Chúa vẫn hơn là sợ người ta”. PHANXICÔ
bèn lên tiếng cảnh báo, nhưng chẳng ai tin, lại còn cười vào mặt ngài.
Ngày 29.8.1219, quân lực Thập tự chinh đùng đùng tấn công trại binh Islam,
nhưng bị thất bại nặng nề, mất cả thảy 6.000 chiến sĩ, trong đó hơn 4.000 hy
sinh, số còn lại bị bắt làm tù binh. Bị nặng nhất là cánh quân tây Ban Nha (x.
2 Cel 30; ĐT 11,3) [25]. Đức Sứ Thần cũng như giới tư
lệnh Thập tự quân tỏ ra ân hận và tư lự vì đã không nghe theo
lời cảnh báo của PHANXICÔ. Về phần mình, PHANXICÔ đau buồn
khôn tả, và lặp lại lời xin với Đức Sứ Thần, cho mình được đi gặp Sultan.
Lần này Đức Sứ Thần ban phép, nhưng ngài nói rõ không phải ngài sai PHANXICÔ đi
gặp Sultan đâu (x. Ernoul 1,b).
B.2.3 Thời điểm cuộc gặp được một số sử
gia đặt vào khỏang thời gian giữa ngày 29/8 và 26/9, hoặc theo
một số sử gia khác sau ngày 5/11/1219, nghĩa là sau khi Thập tự quân chiếm được
thành phố
- PHANXICÔ được phép của Đức Sứ Thần Tòa
Thánh (x. Ernoul; Kho bạc).
- PHANXICÔ cùng đi với anh Illuminatô đến
trại binh Islam. Bị lính Islam chặn lại, PHANXICÔ xưng mình là “Kitô hữu” muốn
yết kiến Đức Vua, nên đuợc dẫn tới Tổng hành dinh của Sultan (x. Vitry B;
Ernoul 2,a; ĐT 9,8).
- Sultan hỏi PHANXICÔ: “Ai sai Thầy đến
đây và đến với mục đích gì?”. PHANXICÔ khẳng khái trả
lời: “Chính Thiên Chúa Tối Cao sai tôi đến chỉ đường cứu rỗi cho Đức Vua và thần
dân của Ngài”. Rồi PHANXICÔ rao giảng Phúc Âm, trình bày giáo
lý về Thiên Chúa Ba Ngôi, về Chúa Giêsu Cứu thế. Còn Sultan, thấy
PHANXICÔ hăng say, mạnh dạn như thế, thì lắng nghe cách thích thú (x. Kho bạc
2; 1 Cel 57b; ĐT 9,8c ).
- Các nhà hiền triết của Sultan từ chối
không chấp nhận đối chất với PHANXICÔ như PHANXICÔ đề nghị. Trái lại, họ xin Đức
Vua giết PHANXICÔ đi (x. Ernoul 3; Kho bạc 2), nhưng Đức Vua, “với một trái tim
hiền hậu” (x. Kho bạc 2), đã tiếp đón vị khách khác thường này rất nồng hậu – rất
trọng thị (“a Soldano tamen honorifice plurimum est susceptus”: x. 1 Cel 57;
KsGio 10), ban tặng nhiều của cải và mời ở lại với mình. PHANXICÔ không nhận
quà tặng và cũng không nhận lời mời của Đức Vua, bởi lẽ Đức Vua không muốn cải
đạo; và sau ít ngày (x. Vitry A2+B14), Sultan ra lệnh cho cận vệ Islam dẫn
PHANXICÔ về lại trại binh Thập tự quân “cách trọng thị và an toàn” (x. Vitry B
14; Ernoul 4,b-c; Kho bạc 3). Như vậy, theo Vitry, PHANXICÔ đã ở lại trong tổng hành dinh của
Sultan ít nhất vài ba ngày. Chúng ta có thể hình dung ra rằng hai nhân vật này
đã nói chuyện với nhau khá nhiều trong tình thân hữu: phía Sultan luôn tỏ ra “chăm
chú lắng nghe” (x. Vitry B 14; ĐT 9,8c), phía PHANXICÔ rất hăng say rao giảng
Phúc Âm cho Sultan (x. Ernoul 2; Kho bạc 2; ĐT 9,8b).
- Khi chia tay,
Sultan nói riêng với PHANXICÔ: “Xin Thầy cầu nguyện cho tôi, để Thiên Chúa đoái
thương chỉ cho tôi biết đạo nào và đức tin nào đẹp lòng Người hơn” (x. Vitry
A2+B14).
- Mặc dầu các sử liệu thinh lặng, nhưng
nhiều tác giả ngày nay suy luận rằng, trên đường về lại Ý, PHANXICÔ đã phải đi
qua Syria (Saint Jean d’Acre, nơi có một cộng đoàn AEHM), tức là trước đó phải
đi qua Thánh Địa mang nhiều dấu vết của Chúa Cứu Thế. Đây là cơ hội ngàn vàng để
PHANXICÔ hành hương kính viếng các Nơi Thánh, đặc biệt Mộ Thánh là điểm ngắm của
mọi khách hành hương thời Trung Cổ, kể cả các Thập tự quân tòng chinh để giải
phóng Mộ Chúa. Có thể Sultan el-Melek el-Kamel đã trao vào tay
PHANXICÔ một thư giới thiệu với bào đệ là Sultan el-Mu’azzam đang cai trị
- Và hầu như chắc chắn vào mùa xuân
1220, PHANXICÔ cùng với các anh Illuminatô, Phêrô Cattani, Xêsariô thành
B.3 Bảng tổng hợp trên đây đã loại trừ
ba yếu tố được các tác giả Phan sinh ghi lại, vì mang tính huyền thoại, khó
tin, đó là:
- PHANXICÔ và anh Illuminatô đã bị
hành hạ thậm tệ trên đường đến tổng hành dinh của Sultan (x. 1 Cel 57; ĐT 9,8; KsGio 10).
- PHANXICÔ thách thức Sultan hãy để cho
một đại diện của mình cùng với PHANXICÔ nhảy vào đống lửa (ordalie, ordeal), hoặc
một mình PHANXICÔ nhảy vào cũng được, để chứng minh đạo của ai là đạo thật (x.
ĐT 9, 8; Nbhn 24). Nhưng Sultan từ chối nhẹ nhàng.
- Sultan hứa với PHANXICÔ sẵn lòng cải đạo
(x. Nbhn 24).
Lời
bàn:
- Đối với ba yếu tố bị loại trừ
vì mang tính huyền thoại, chúng ta có thể hình dung ra rằng đó là kết quả của
khuynh hướng khá phổ biến trong thế giới Kitô giáo thời Trung Cổ: dễ dàng tô đậm
sự tàn bạo của người Islam, dễ dàng biện bạch cho ước muốn tử vì đạo của người
Kitô hữu, ước muốn mãnh liệt đến mức cuồng tín và sẵn sàng nhảy vào lửa để minh
chứng đạo của mình là đạo thật. Xu huớng ấy được phản ánh rõ ràng nhất vào
trong quyển “tiểu thuyết” Những Bông Hoa Nhỏ (Fioretti). Tác phẩm nổi tiếng này
còn thêu dệt thêm câu chuyện huyền thoại về PHANXICÔ bị một cô gái điếm Ả rập rủ
rê làm tình, với một cái hậu rất đạo đức: bằng cách thách thức cô ấy đến với
mình đang nằm trần truồng trên đống than hồng mà không bị cháy(vẫn
là cái trò chơi với lửa!), PHANXICÔ đã khiến cô ấy hoa mắt, thán phục, xin theo
đạo và sống một đời sống thánh thiện, gương mẫu! (x.
Nbhn, 24).
- Còn đối với câu nói của Sultan
được ĐHY de Vitry ghi lại: “Xin Thầy cầu nguyện cho tôi…” (x. Vitry A2+B14): Có thể đó là một câu nói chân thành. Có thể đó là một câu nói khôn ngoan đúng phong cách ngoại giao.
Dầu sao chúng ta vẫn có thể tin rằng ngài Sultan el-Melek el-Kamel, dù không cải
tâm theo đạo của PHANXICÔ, cũng đã cải tâm để quý mến đặc biệt vị tu sĩ áo nâu này , bởi lẽ với các tù binh Kitô hữu là tử thù mà Đức Vua
còn đối xử cách nhân ái, thì phương chi với một ông thầy Dòng hiền như bột,
trong tay không hề có bất cứ một thứ khí giới nào để giết người…! Mặt khác,
chúng ta thấy giữa hai con người đồng trạc (xấp xỉ tứ tuần) này, đến từ hai tôn
giáo và hai nền văn hóa rất khác nhau, lại có hai điểm tương đồng hiếm có: cả
hai người đều yêu thiên nhiên, dù ngài Sultan yêu với trí tuệ của một nhà thông
thái, còn PHANXICÔ yêu với trái tim của một nhà thơ bình dân. Và cả hai đều bị
cuốn hút vào cảm nghiệm thần bí, vào tình yêu tha thiết dành cho Đấng Tạo Hóa. Riêng đối với PHANXICÔ cuộc gặp gỡ với ngài Sultan el-Melek
el-Kamel đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển nội tâm.
Chúng ta gọi đó là “kinh nghiệm
Phần
III. PHANXICÔ sau cuộc tiếp xúc với Vua Islam
Sau cuộc “Thập tự chinh truyền giáo” ở Cận
Đông, các sinh hoạt của PHANXICÔ tại quê nhà tập trung vào một trọng điểm gồm
hai mặt, đó là: điều chỉnh những lệch lạc trong Dòng Anh em hèn mọn do các Anh
Đại Diện tạo ra trong thời gian ngài đi vắng; và củng cố đời sống Huynh đệ đoàn
cho vững chắc bằng việc xây dựng nền tảng luật pháp phù hợp với sự phát triển
nhanh chóng của Dòng. Tuy nhiên tất cả các sinh hoạt ấy, không những không đẩy”kinh
nghiệm Đamietta” vào quên lãng, mà trái lại chắc chắn chúng mang dấu ấn của cái
biến cố hiếm thấy trong cả lịch sử Giáo Hội. Kinh nghiệm này đánh dấu một bước
ngoặt quyết liệt trong sự phát triển nội tâm của PHANXICÔ, theo nghĩa một sự
chín muồi về đời sống tâm linh, về đời sống kết hợp với Đức Kitô Chịu Đóng
Đinh, mà Thánh Giá là con đường chắc chắn nhất dẫn vào sự hiệp thông với Thiên
Chúa Ba Ngôi, và về đời sống dấn thân rao giang Tin Mừng cho mọi hạng người,
trong đó người Islam chiếm vị trí ưu tiên. Sáu năm cuối đời (1220-1226) cũng là
giai đoạn phong phú nhất của PHANXICÔ trong sinh hoạt sáng tác. Theo cha Carlo PAOLAZZI, OFM [27], hầu hết các văn bản làm nên tác
phẩm của Thánh PHANXICÔ đều hình thành trong những năm tháng sau “kinh nghiệm
1. Quan điểm “cổ điển”:
1.1 Theo Celano (1 Cel 57) và Thánh
Bonaventura (ĐT 9,9), sở dĩ Chúa không làm thỏa
lòng PHANXICÔ đã từng ước muốn thiết tha được chết vì đạo bởi tay người Islam,
là vì Chúa để dành cho thánh nhân một đặc ân khác: đó là sẽ mang dấu ấn và biểu
tượng của sự tử vì đạo khi được in các Dấu Đinh của Đức Giêsu trên thân xác
mình tại Núi Laverna. ĐHY de Vitry lý giải sự trì hoãn này như sau:”Khi Sultan
nhìn thấy PHANXICÔ mang dáng dấp một người của Thiên Chúa, thì con thú dữ tợn
(trong Sultan) cảm thấy được biến đổi thành một con người nhân hậu, và trong
vài ngày Đức Vua rất chăm chú lắng nghe PHANXICÔ giảng về Chúa Kitô” (x. Vitry
B, 14). ĐHY đã “làm văn” theo kiểu Trung Cổ khi ví von Sultan với “con thú dữ tợn”,
nhưng thực ra chính ngài đã hết lời ca ngợi lòng nhân ái của Sultan đối với các
tù binh Thập tự quân (xem trên đây).
1.2 Phần lớn các sử liệu Trung cổ (trừ
câu chuyện huyền thoại trong Những bông hoa nhỏ, chương 24) đều nhấn mạnh rằng
PHANXICÔ thất vọng vì việc rao giảng không đem lại kết quả gì cho sự cải đạo của
người Islam (x. ĐT 9,9), hoặc chẳng mang lại lợi ích
bao nhiêu (x. Vitry A,2). ĐHY de Vitry nói thêm rằng: Sultan sợ một vài lính
thuộc hạ của mình bị lời giảng của PHANXICÔ lôi kéo cải đạo mà nhảy sang quân
ngũ Kitô giáo chăng, bèn ra lệnh cho thuộc hạ tháp tùng hai vị tu sĩ về lại trại
binh Thập tự quân một cách trọng thị và an toàn, với lời xin PHANXICÔ cầu nguyện,
như chúng ta đã biết (x. Vitry B,14).
Cả hai khía cạnh trên đây tạo nên sự “thất
bại” của PHANXICÔ trong kinh nghiệm
2. Quan điểm hiện đại
2.1 Nếu chúng tôi không nhầm, thì
chính cha Giulio BASETTI-SANI, OFM là người đầu tiên đánh giá kinh nghiệm
Đamietta của Thánh PHANXICÔ theo một nghĩa tích cực, khi viết những lời sau đây
vào năm 1959 trong một quyển sách bằng tiếng Pháp: “Kinh nghiệm cá nhân này của
PHANXICÔ là một khởi điểm, một bước chuẩn bị cho sứ vụ truyền giáo tương lai”. “Đó
không phải là một thất bại như các sử gia Trung cổ đã nghĩ, nhưng là ‘bước đầu
tiên của Kitô giáo’ tiến tới sự hoà giải với người Islam. Thánh
PHANXICÔ đã làm bước đầu tiên ấy, nên ngài có thẩm quyền đưa ra cho anh em của
mình những chỉ thị về cách làm việc tông đồ hữu hiệu tại các miền đất Islam.
Đó là: trước tiên nêu chứng từ đời sống gương mẫu của một Kitô hữu, rồi sau đó
rao giảng lời Chúa. Vì lẽ ấy, bản luật không sắc dụ (1221) được viết ra sau khi
PHANXICÔ từ Ai Cập trở về, nhất thiết mang dấu ấn của kinh nghiệm Đamietta”[32].
Cũng chính tác giả này đã thấy mối liên hệ mật thiết giữa kinh nghịệm Đamietta
với kinh nghiệm La Verna của PHANXICÔ: “Năm Dấu Đinh không chỉ là ân huệ hoặc
phần thưởng do Chúa Chịu Đóng Đinh ban tặng cho cá nhân vị Thánh Sốt Mến vì đã
dành một tình yêu nồng nhiệt cho Cuộc Khổ Nạn đau thương của Chúa, nhưng Năm Dấu
Đinh ấy có liên quan mật thiết và thầm kín với “maàu nhiệm Islam” [33].
2.2 Năm 1981, cha Anton
ROTZETTER, OFMCap, khi kể lại chuyến đi Cận Đông của PHANXICÔ, ghi nhận rằng những
gì PHANXICÔ đã nghe, đã thấy trong thế giới Islam, để lại âm vang trong một số
di cảo, đặc biệt trong các lá thư của ngài kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa biểu
lộ công khai lòng tôn kính Thánh Thể [34]. Cha Rotzetter
không quy chiếu về quyển sách của cha Giulio Basetti-Sani.
2.3 Từ ngày 5 đến 12 tháng 10 năm
1982 Dòng AEHM tổ chức một Hội Nghị về Islam, quy tụ 13 thành viên đến từ
10 quốc gia có dân chúng theo đạo Hồi. Hội Nghị đã viết một lá thư theo cung cách của Thánh PHANXICÔ để mô tả những thái độ
phải có khi găp gỡ và đối thoại với anh em Islam. Lá thư
ấy là một bài chú giải về chương XVI của bản Luật không sắc dụ 1221. Và cũng
vào thời điểm này, cha Andreas MUELLER, OFM, người sáng lập Trung Tâm Truyền
Giáo tại Bonn của các Tỉnh Dòng AEHM nói tiếng Đức (Missionszentrale der
Franziskaner = MZF) đã có sáng kiến tổ chức một Nhóm soạn thảo 25 bài Học về Đặc
sủng Truyền giáo Phan sinh, trong đó hai bài số 7 và số 16 được dành để phân
tích các ý nghĩa sâu sắc về mặt truyền giáo của cuộc gặp gỡ giữa PHANXICÔ và
Sultan el-Melek el-Kamel (sẽ được trích dẫn theo ký hiệu “MZF 7”, “MZF 16”).
Nhóm soạn thảo do cha Anton ROTZETTER đứng đầu. Baøi “MZF 7”: “Coâng cuoäc
truyeàn giaùo Phan sinh trong caùc Taøi lieäu nguoàn = The Franciscan Mission
in the Early Sources “ khaúng ñònh roõ raøng: “Chöông
XVI cuûa Luaät khoâng saéc duï laø moät trong nhöõng hoa quaû cuûa cuoäc gaëp
gôõ giöõa PHANXICÔ vaø theá giôùi Hoài giaùo “ (tr. 9). Baøi “MZF 16”: “Gặp gỡ
người Islam = Encounter with Muslims” có nhắc tới quyển sách của cha Giulio
Basetti-Sani trong thư mục. Bài học số 16 này triển
khai cụ thể trực giác của cha Giulio và trình bày rất đầy đủ và sâu sắc ý nghĩa
tích cực của kinh nghiệm Đamietta đối với đời sống tâm linh của PHANXICÔ và nhất
là đối với quan niệm của ngài về phương pháp truyền giáo.
2.4 Vào năm 1996, trong một quyển
sách viết về Thánh Phanxicô và Thánh Bonaventura, cha Paul ROUT, OFM dành
chương cuối cùng bàn về “Phanxicô, Sultan và cuộc đối thoại liên tôn”, trong đó
tác giả cũng có một tầm nhìn tương tự như bài học số 16 của Nhóm soạn thảo do
cha Rotzetter đứng đầu. Cha Rout không nhắc tới quyển sách của cha Basetti-Sani
và MZF 16, [35] nhưng đã mượn của một tác giả người Mỹ ý niệm “hóan cải trở về
với thế giới siêu việt” làm nền tảng chung cho cuộc đối
thoại giữa các tôn giáo [36].
2.5 Năm 2002, Cha Carlo
PAOLAZZI, OFM xuất bản lần thứ hai quyển sách bằng tiếng Ý về cách đọc các văn
bản trong tác phẩm của Phanxicô Assisi, trong đó tác giả đề cập tới quá trình
phát triển của bản luật không sắc dụ, do ảnh hưởng của một số biến cố và nhân vật
như: - Công Đồng Latêranô IV (1215, thiết lập chức Bề trên Giám tỉnh, khiến Luật
Dòng phải thêm những quy định về các mối tương quan giửa anh em với Giám tỉnh của
mình: x. Lksd chương 4-6 và 18); sắc dụ Cum secundum của ĐGH Hônôriô III ban
hành ngày 22/09/1220 ấn định năm tập tu bắt buộc cho cho các tu sĩ, và cấm các
tu sĩ đã khấn không được rời bỏ Dòng (các quy định mới này được PHANXICÔ đưa
vào Lksd, 2,8-12); kinh nghiệm cá nhân PHANXICÔ đã trải qua tại Cận Đông năm
1219-1220 chắc chắn được phản ánh vào trong các quy định về việc truyền giáo
cho người Islam và các dân ngoại khác (x. Lksd chương 16); cuối cùng là việc
PHANXICÔ nhờ anh Xêdariô thành Speyer chọn những câu Kinh Thánh thích hợp đưa
vào bản luật nguyên thủy đã có sẵn một ít câu Kinh Thánh làm điểm tựa cho những
“lời đơn sơ, ngắn gọn” của chính PHANXICÔ [37]. Cha Paolazzi cũng nói thêm rằng:
vào năm 1220, dựa trên kinh nghiệm đã trải qua tại Cận Đông và tông thư Sane
cum olim do ĐGH Hônôriô III ban hành ngày 22/11/1219 về việc tôn sùng Thánh Thể,
PHANXICÔ viết mấy lá thư gửi cho các giới Kitô giáo để kêu gọi mọi người phát
huy lòng yêu mến cụ thể đối với Bí Tích cực trọng ấy và dâng lời ca ngợi Thiên
Chúa một cách công khai. Cha Paolazzi không nhắc tới quyển
sách của Cha Basetti-Sani.
2.6 Vào năm 2006 ba tác giả: Jacques
DALARUN, Michael CUSATO và Carla SALVATI viết chung quyển sách về Năm Dấu Thánh
của PHANXICÔ [38], trong đó bài viết của cha Michael CUSATO, OFM đề nghị một
cách giải thích khá mới mẻ về ý nghĩa của Năm Dấu Thánh mà PHANXICÔ nhận được
trên Núi La Verna vào dịp lễ Suy Tôn Thánh Giá tháng 9 năm 1224 [39]. Chúng tôi chưa được đọc trực tiếp tác phẩm tập thể này, đặc biệt
bài của Cusato, nhưng chỉ mới được tham khảo bài trình bày tóm tắt của cha Paul
ROUT [40]. Theo nhận định của chúng tôi, tác giả
Cusato đã triển khai tối đa trực giác của cha Giulio BASETTI-SANI.
2.7 Nhìn lại thời gian 50
năm kể từ ngày xuất bản quyển sách đầy cảm hứng “tiên tri” của Cha Giulio
Basetti-Sani đến nay (1959-2009), chúng ta thấy rằng cách đánh giá tích cực về
Islam của những người như vị Linh mục Phan sinh này đã góp phần hình thành ra
quan điểm tích cực và trân trọng của Công Đồng Vatican II (1962-1965) đối với
Islam trong Tuyên Ngôn “Nostra Aetate” về liên lạc của Giáo Hội với các tôn
giáo ngoài Kitô giáo (số 3). Chắc chắn giáo huấn của Công Đồng là động cơ thúc
đẩy những tác giả như Rotzetter, Rout, Paolazzi và Cusato (có thể có thêm những
tác giả khác nữa mà chúng tôi chưa biết) nghiên cứu chuyên sâu về cuộc gặp gỡ lịch
sử giữa PHANXICÔ và Sultan el-Melek el-Kamel, nhờ đó họ khám phá ra những ý
nghĩa mà truớc đây chưa được đưa ra ánh sáng. Những công trình nghiên cứu sau
năm 1986 có thể còn được thúc đẩy bởi sáng kiến tuyệt vời của Đức Thánh Cha
Gioan-Phaolô II, chọn Assisi, quê hương Thánh PHANXICÔ làm nơi gặp gỡ giữa những
đại diện của các tôn giáo lớn trên thế giới để cùng nhau suy nghĩ về việc xây dựng
và bảo vệ hoà bình và để mỗi tôn giáo cầu nguyện cho hoà bình theo cách thức
riêng của mình, từ năm 1986 đáng ghi nhớ ấy. Việc chọn lựa
------------------------------------------------------------------------------------
Ghi
chú:
* Tựa đề do Ban MVĐTLT hiệu đính.
Nguyên văn bài viết của tác giả là: “THÁNH PHANXICÔ GẶP GỠ VUA ISLAM - Một khởi
đầu ý nghĩa cho đối thoại liên tôn”
(1) Xem K. ESSER, Giải thích Luật Dòng…,
chương XII, bản Việt ngữ, tr. 90.
(2) Xem bách khoa tự điển Công giáo «
THÉO », 1993, tr. 54-55.
(3) Xem Jean GUENNOU, Missions
Étrangères de Paris. Fayard, Paris 1986, tr. 10.
(4) Xem John Holland SMITH, Francis
of
(5) Xem J.H. SMITH, Sđd, tr. 10.
(6) Xem J.H. SMITH, Sđd, tr. 30.
(7) Xem J.H. SMITH, Sđd, tr. 31.
(8) Vị này được truyện ký Khuyết danh
Pêrugia (Kdp 5c) và Ba Người Bạn (3NB 5) gọi là “Bá Tước Gentile”, nhưng thực
ra đó là Bá Tước Gauthier de Brienne, được dư luận đánh giá cách trân trọng và
thân thiện là “Ngài Bá Tước dễ thương” (gentile, tính từ, bị hiểu thành danh từ
riêng!).
(9) Chúng tôi tạm viết tắt các tư liệu
nguồn như thế, trong lúc chờ đợi Ban Tu Thư của Tỉnh Dòng đề nghị một hệ thống
viết tắt có thể chấp nhận được, vì hiện nay đang lưu hành hai hệ thống viết tắt
khác nhau dành cho các văn bản trong Tác Phẩm của Thánh Phanxicô và các tư liệu
nguồn, do các Anh Khanh+Phước và Anh Thịnh đề xuất.
(10) Xem Sđd, tr. 39-40.
(11) Xem Sđd, tr. 39-42. Ông Smith cũng nghi ngờ chuyện PXC nhận được Năm Dấu Thánh.
Ông xếp Phanxicô vào hạng người cuồng lọan: “Technically, Francis was a
hysterical type” (x. Sđd, tr. 159). Ngoài ra, đối với bản Luật có sắc dụ 1223,
ông nghĩ rằng “các Giám Tỉnh và Đức Hồng Y Bảo Trợ (Hugôlinô) đã thành công
trong việc ăn gian (cheating) với Thiên Chúa và Phanxicô bằng cách đem cái nhìn
của họ về cách hiểu Dòng Phan sinh phải như thế nào thay vào cái nhìn của chính
Phanxicô” (x. Sđd, tr. 147). Về điểm này ông Smith có quan điểm
giống như mục sư Tin Lành Paul Sabatier.
(12) Xem J.H. SMITH, Sđd, tr. 40: “…to
return home, and fight the spiritual crusade from there”.
(13) Xem Smith, Sđd, tr. 43.
[14] “A crusade verbo et exemplo”: xem
Smith, Sđd, tr. 95.
[15] Tai tiếng vì nhà thần bí này đã nói
tiên tri rằng từ năm 1260 một Giáo Hội hoàn toàn mang sắc thái “đan tu” sẽ thay
thế Giáo Hội do các Giám mục cai quản, và cả thế giới sẽ hoán cải trở về với đức
nghèo Phúc Âm: Xem Sđd “THÉO”, tr. 366.
[16] Xem Smith, Sđd, tr. 94.
[17] Xem Smith, Sđd, tr. 94
[18] Đó là các Thánh Bêrađô, Phêrô,
Adjuto, Accursio và Ottone.
[19] Xem Fortunato MARGIOTTI, Missione,
trong Dizionario Francescano. Spiritualità. A cura di Ernesto CAROLI. Padova. II edizione 1995. I ristampa 2002, cột
1160.
[20] Xem Giulio BASETTI-SANI, OFM,
Mohamed et
[21] Hai chứng từ trên đây được đăng
trong Sđd của Giulio BASETTI-SANI, OFM, tr. 167-168.
[22] Có thể đọc các chứng từ « ngòai
Phan sinh » này trong bản dịch bằng tiếng Ý :Fonti
Francescane. Nuova edizione 2004 a cura di Ernesto CAROLI,
tr. 1457-1473.
[23] Xem Giulio BASETTI-SANI, Sđd, tr.
269, chú thích 36.
[24] Chúng tôi dựa theo:
Fortunato MARGIOTTI, Sđd, cột 1157-1160; và J.H. SMITH, Sđd, tr. 123-135.
[25] Xem
Giulio BASETTI-SANI, Sđd, tr. 163; J.H. SMITH, Sđd, tr. 127.
[26] Xem J.H. SMITH, Sđd, tr. 134.
[27] Xem Carlo PAOLAZZI, Lettura degli “Scritti”
de Francesco d’Assisi. Milano 2002. Đặc bịêt các trang
9-15: Profilo biografico e cronologia degli “Scritti” (lý lịch trích ngang của
PXC và niên đại các văn bản làm thành tác phẩm của ngài). Bảng
niên đại này được đưa hầu như nguyên si vào pho sách “Fonti Francescane.
Nuova edizione 2004”, tr. 14-19, với hai dị biệt quan trọng: 1) Sắc dụ Cum dilecti của ĐGH Hônôriô III được Carlo Paolazzi định vị
vào ngày 11/06/1218 trong ấn bản Lettura...năm 2002 (tr. 11), nhưng trong
Fonti... thì ghi là ngày 11/06/1219 (tr. 15). Cách làm của Fonti đúng hơn, vì
cuối Sắc dụ ấy ĐGH ghi rõ:”Ban hành tại Lateranô ngày 11 tháng 06 năm 1219” (x.
Fonti, tr. 1709), và như thế Fonti đã đính chính Lettura. 2) Dị biệt thứ hai là
Fonti thêm phần Niên đại tiếp theo sau sự kiện cải
táng và di dời hài cốt Thánh PXC từ Nhà Thờ Thánh Giocgiô đến Đại Hoàng Đường
Thánh Phanxicô ngày 15/05/1230. Phần mới của bảng Niên Đại trải
dài từ năm 1230 đếnnăm 1337.
[28] Xem Johannes JOERGENSEN,
[29] Xem CUTHBERT, OFM Cap, Vie de Saint
Francois d’Assise, xuất bàn lần đầu bằng tiếng Anh năm 1912 ; bản dịch tiếng
Pháp, ấn bản thứ hai, năm 1927, tr. 299-313.
[30] Xem Omer ENGLEBERT, Saint Francis
of
[31] Antôn và một nhóm Anh em, Thánh
Phanxicô Assisi. Xuất bản lần đầu vào năm 1961. Xuất bản
lần thứ năm có sửa đổi và bổ sung. Hoc Viên Phanxicô, 2005. Về
cuộc gặp quốc vương Ai Cập, xem tr. 209-213.
[32] Xem Giulio BASETTI-SANI,OFM, Sđd, tr. 182.
[33] Như trên, tr. 183.
[34] Xem Anton ROTZETTER, OFMCap, Thánh
Phan-xi-cô Át-xi-di. Thân thế - Chương trình - Kinh nghiệm thần bí, Phần thứ nhất
trong quyển sách được dịch sang tiếng Việt với đầu đề “Một Lối Sống Tin Mừng.
Tinh thần Phan sinh hôm qua và hôm nay” của ba tác giả: Anton ROTZETTER,
OFMCap, Wilibrord-Christian VAN DIJK, OFMCap và Thaddée MATURA, OFM. Bản dịch
tiếng Việt: Du Sinh 2002, tr.52-53. Nguyên bản tiếng Đức: Franz von Assisi. Ein
Anfang und was davon bleibt xuất bản lần đầu tại Zuerich năm 1981, chúng tôi có
trong tay ấn bản thứ 4 năm 1993, tr. 44-45.
[35] Xem Paul ROUT, Francis and
Bonaventure, pubished by HarperCollinsPublishers Ltd 1996, First U.S. Edition
1997, Chapter 7: Francis, the Sultan and Interfaith Dialogue, tr. 77-87 (quy
chiếu về tài liệu này theo ký hiệu: Rout 1).
[36] Xem Paul ROUT, Sđd, tr. 82 và 90
quy chiếu về Bernard LONERGAN, Method in Theology.
[37] Xem Carlo PAOLAZZI, Lettura degli “Scritti”
di Francesco d’Assisi. Seconda edizione. Milano:
Edizioni Biblioteca Francescana, 2002, tr. 295-296.
[38] Xem The Stigmata of Francis of
Assisi: New Studies and new Perspectives (
[39] Xem Michael CUSATO, Of Snakes and
Angels: The Mystical Experience behind the Stigmatization Narrative, trong Sđd
tại chú thích 38, tr 29-74.
[40] Xem Bài học số 5 Inter-Religious
Dialogue - Franciscan Insights, trong khóa bồi dưỡng về Thần Học Phan sinh, được
tổ chức tại Học Viện Phanxicô Thủ Đức, kèm với bản dịch tiếng Việt của Anh Paul
Nguyễn Đình Vịnh: Bài 5: Đối Thoại Liên Tôn - Những Nội-Trực-Giác Phan Sinh
(quy chiếu về tài liệu này theo ký hiệu: Rout 2).
Lm Phi Khanh Vương Đình Khởi (OFM)
Ban MVĐTLT(WTGP.Sài
Gòn 12.10.2010)