LỜI NÓI
ĐẦU
Bất kỳ sinh
vật nào trong thiên nhiên, nếu biết thích ứng với
môi trường chung quanh th́ dù nhỏ bé yếu ớt
cũng có thể sống c̣n và phát triển. C̣n sinh vật
nào không thích ứng hay không có khả năng thích ứng, th́
dù to lớn mạnh mẽ cũng sẽ khó phát triển và
có thể bị thoái hóa. Thích ứng là ứng xử
một cách thích hợp với từng t́nh huống của
môi trường, là «tùy cơ
ứng biến», tùy theo
hoàn cảnh hay t́nh huống cá biệt mà thay đổi cách
ứng xử. Như vậy, thích ứng hàm ư sự tự
thay đổi, tự biến hóa ḿnh để phù hợp
với môi trường.
Trong phương pháp giáo
dục mới của thời đại, nhà giáo dục
không thể chỉ áp dụng một phương pháp giáo
dục duy nhất cho tất cả mọi đối
tượng giáo dục. Nghĩa là mọi phương pháp
giáo dục đều phải mang tính cá biệt, không theo
một mô h́nh chung, mà thay đổi tùy theo khuynh
hướng cá biệt của từng đối
tượng. V́ người ta không ai giống ai, «bá nhân bá tánh», mỗi
người một khuynh hướng, một ư kiến,
một quan niệm, một lập trường, một
tính chất riêng biệt, đ̣i hỏi một cách
đối xử riêng biệt. Do đó, nghệ thuật
giáo dục đ̣i hỏi nhà giáo dục phải tùy theo
từng đối tượng mà thay đổi
phương pháp giáo dục cho thích hợp.
Đối với Giáo
Hội, việc thích ứng đó rất quan trọng trong
đời sống nội bộ của Giáo Hội, trong
tương quan giữa Giáo Hội và thế giới, trong
việc hướng dẫn và Phúc âm hóa thế giới. Tinh
thần thích ứng là điều kiện sống c̣n và phát
triển của Giáo Hội. Đứng trước thiên
niên kỷ thứ ba, trước t́nh trạng số
người Kitô hữu ngày càng suy giảm tại châu Âu, và
trong tương lai có thể tại châu Á và các châu khác, chúng
ta nên đặt lại vấn đề thích ứng.
Phải chăng v́ thiếu thích ứng mà Giáo Hội
chậm phát triển hay ngưng phát triển?
Ta có thể nhận
thấy những thời kỳ và những vùng mà Giáo
Hội phát triển mạnh, chẳng hạn tại châu Âu,
tại châu Á, đều là những thời kỳ hoặc
những vùng mà Giáo Hội đặt nặng sự thích
ứng với thế giới, với môi trường phúc
âm hóa. C̣n những thời kỳ và những vùng Giáo Hội
phát triển chậm, đều là những thời kỳ
hoặc những vùng mà Giáo Hội coi nhẹ sự thích
ứng.
Do đó, đứng
trước thiên niên kỷ thứ ba, trước sự
chậm phát triển của Giáo Hội vào cuối thiên niên
kỷ thứ hai, chúng ta thử nêu lên vấn đề
thích ứng của Giáo Hội để có thể rút ra
những bài học từ quá khứ cho tương lai phát
triển của Giáo Hội. Thích ứng là vấn
đề sống c̣n của Giáo Hội, cũng như
của tất cả mọi tôn giáo trên thế giới.
Không thích ứng th́ không thể tồn tại
được.
Thế giới và con
người càng thay đổi nhanh chóng th́ nhu cầu thích
ứng càng phải cao và nhậy bén. Thích ứng không
phải là chiều theo thế giới trong những cái tốt
cũng như cái xấu của nó, mà là thay đổi
phương pháp biến cải và thánh hóa thế giới
sao cho phù hợp với t́nh trạng, khuynh hướng luôn
luôn thay đổi của thế giới, để
biến cải và thánh hóa thế giới một cách hữu
hiệu hơn. Thế giới luôn luôn biến đổi
và biến đổi rất nhanh, mà phương cách
tiếp cận, xử lư của chúng ta đối với
thế giới không thay đổi hay thay đổi quá
chậm, chúng ta sẽ tự cô lập, tụt hậu,
tự đào thải chính ḿnh và không c̣n khả năng
ảnh hưởng trên thế giới nữa. Lúc đó,
Giáo Hội không thể thực hiện được
sứ mạng mà Thiên Chúa trao cho Giáo Hội trong ḷng thế
giới.
Mục đích của
tập sách này chỉ là đưa ra những suy nghĩ cá
nhân để góp phần xây dựng Giáo Hội, để
nói lên sự khẩn thiết phải thích ứng của
Giáo Hội đối với thế giới và con
người thời đại. Cách nói của tác giả
đôi khi có thể có những điều mà một số
người khó có thể chấp nhận, nhưng chúng phát
xuất từ những bức xúc, thao thức của tác
giả về sự sống c̣n và phát triển của Giáo
Hội, đặc biệt trong thiên niên kỷ sắp
tới.
Bất kỳ ai, nếu
không nói ra điều ḿnh nghĩ, th́ không bao giờ nói sai,
mà hễ đă nói ra th́ khó mà tránh khỏi những thiếu
sót, sai lầm. Nhưng nếu không nói ra th́ không bao giờ
có thể tạo gặp gỡ, thông cảm và xây dựng.
Tác giả biết chắc chắn trong tập sách này có
nhiều suy nghĩ của tác giả chưa
được hoàn chỉnh, chín chắn, nhưng v́ nóng ḷng
xây dựng Giáo Hội mà ḿnh yêu quí, nên tác giả không
ngại tŕnh bày những suy nghĩ, mong ước của ḿnh,
như là những gợi ư cá nhân để người
đọc tiếp tục suy nghĩ và hoàn thiện thêm.
Nếu có ai đọc tập sách này mà nhận thấy
trong số những điều tác giả nói có nhiều
điều sai lầm, không hợp ư ḿnh, khiến
độc giả ấy phải suy nghĩ, bức xúc,
nhờ đó ư thức vấn đề sâu sắc hơn,
đồng thời đưa ra những suy tư đúng
đắn hơn, th́ đó cũng là một điều tốt
mà tác giả mong muốn cuốn sách này làm được.
Rất mong nhận
được sự chỉ giáo, góp ư của những
người thiện chí cùng quan tâm đến việc xây
dựng Giáo Hội và thế giới.
Chân thành cảm tạ
NGUYỄN
CHÍNH KẾT