CÔNG CUỘC
PHÚC ÂM HÓA
TẠI CHÂU Á TRONG HAI THIÊN NIÊN KỶ QUA
NGUYỄN
CHÍNH KẾT
Chúng ta đă bắt
đầu chính thức bước vào thiên niên kỷ
thứ ba của Kitô giáo, và cũng bước vào một
thế kỷ mới, thế kỷ 21. Nh́n lại thế giới
ngày nay, ta thử tự hỏi:
– suốt hai thiên niên
kỷ qua, tinh thần của Chúa Kitô đă thấm nhập
vào thế giới này tới mức độ nào? việc
sống tinh thần ấy trong tương lai có thể nói
là đáng lạc quan hay bi quan? thế giới đang
trở nên yêu thương nhau hơn, hay đang thù hận
nhau nhiều hơn?
– chính người mang
danh là Kitô hữu đă sống tinh thần của Chúa Kitô
như thế nào? họ có sống tinh thần ấy
hơn những người không mang danh Kitô hữu không?
tinh thần Chúa Kitô được thể hiện chỉ
ở h́nh thức bên ngoài, ở ngoài môi miệng, hay đă
thấm vào đời sống hằng ngày, vào máu mủ da
thịt của họ?
Đức Kitô đă
đến với thế giới hai thiên niên kỷ nay,
những muốn cứu độ thế giới thoát
khỏi đau khổ, biến thế giới thành Nước
Trời, trong đó mọi người sống với nhau
bằng t́nh thương, nhờ đó mọi người,
mọi dân tộc đều được hạnh phúc.
Ngài đă về trời và trối lại sự nghiệp
vĩ đại ấy cho những kẻ theo Ngài,
để họ tiếp tục công cuộc cứu
độ thế giới, biến thế giới thành
một thế giới tốt đẹp hạnh phúc.
Đứng trước
một thiên niên kỷ mới, ta cần phải tự
hỏi công việc mà Ngài giao phó cho chúng ta đă tiến hành
tới đâu rồi? Nếu đă tiến hành tốt
đẹp, th́ ta hăy cố gắng tiếp tục theo
đường hướng ấy. Nếu chưa tốt
đẹp, th́ ta phải tự xét lại xem tại sao, v́
lư do nào. Nếu v́ gặp một số khó khăn nào đó,
th́ ta phải cùng t́m cách giải quyết những khó
khăn ấy. Một Kitô hữu ư thức trách nhiệm
Kitô hữu của ḿnh không thể để mặc lời
trăn trối của Đức Giêsu tiến hành tới
đâu cũng được. Ước ǵ tất cả
mọi Kitô hữu đều trăn trở, thao thức
trước nhiệm vụ làm chứng cho Thiên Chúa, cho
Đức Giêsu Kitô trước thế giới, và nhất
là làm cho tinh thần của Đức Giêsu Kitô càng ngày càng
được thực hiện nhiều hơn trên thế
giới.
Trước thềm
thiên niên kỷ mới, chúng ta hăy ôn lại nhiệm vụ
phúc âm hóa của chúng ta, và thử phân tích một số
thuận lợi và khó khăn trong việc phúc âm hóa tại
Việt Nam cũng như tại Á châu trong những thiên niên
kỷ qua.
SỨ MẠNG PHÚC ÂM HÓA
1. Lệnh truyền
của Chúa Kitô
Trước khi từ
biệt các môn đệ để về với Chúa Cha,
Chúa Giêsu đă để lại cho các ông lời di chúc: «Anh em hăy đi và làm cho muôn dân
trở nên môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy cho họ tuân giữ
những điều Thầy truyền cho anh em» (Mt
28,19-20). Đó không phải chỉ là lời mời gọi,
mà là một lệnh truyền cho tất cả những ai
theo Chúa. V́ thế, việc loan báo Tin Mừng hay phúc âm hóa môi
trường ḿnh sống là bổn phận của mọi
người Kitô hữu.
Sứ mạng của
Chúa Kitô đối với thế gian là chuộc lại
hạnh phúc vĩnh cửu của toàn thể nhân loại
đă bị chính nguyên tổ của nhân loại làm mất,
đồng thời biến thế gian thành Nước
Trời, trong đó t́nh thương, sự hiệp nhất
và hạnh phúc luôn luôn ngự trị. Nhưng việc
cứu chuộc này chỉ có thể thành tựu
được với sự hợp tác của cả hai
phía: Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa đă làm xong
phần của Ngài, phần c̣n lại là phần của con
người.
2. Sự cộng tác
của con người
a) Thiên Chúa không làm
một ḿnh
Thật vậy, trong
việc cứu độ con người, Thiên Chúa không
thể làm một ḿnh, v́ khi phạm tội, con người
đă dùng tự do của ḿnh, th́ để được
cứu chuộc, con người cũng phải biểu
lộ sự tự do chấp nhận của ḿnh bằng
sự cộng tác tích cực. Bàn về vấn đề
này, Thánh Âu Tinh viết: «Để
dựng nên ta, Thiên Chúa không cần tới ta. Nhưng Thiên
Chúa không thể cứu chuộc được ta nếu
không có ta cộng tác». Cứu chuộc loài người là
sáng kiến của Thiên Chúa, và Ngài đă làm xong phần
của Ngài là sai chính Con duy nhất của Ngài đến
giữa loài người, chịu chết đau khổ và
nhục nhă trên thập giá để mặc khải về
Thiên Chúa, để nói lên t́nh thương của Ngài
đối với họ, chỉ cho họ con
đường phải đi và cứu họ khỏi
tội lỗi và đau khổ.
b) Con người
cần hưởng ứng và cộng tác
Nhưng tất cả
những việc Ngài làm ấy sẽ không ích lợi ǵ cho
con người nếu con người không hưởng
ứng hay góp phần vào công việc vĩ đại ấy.
Phải có sự đóng góp tự do, tự nguyện
của con người, công việc cứu chuộc ấy
mới hoàn tất. Cũng tương tự như trong
việc nuôi sống và giáo dục con cái, cha mẹ đă làm
ăn vất vả, tạo mọi điều kiện thuận
lợi để con cái ăn và học, nhưng tất
cả những cố gắng của cha mẹ dù to lớn
đến đâu cũng sẽ trở thành vô ích, nếu
đứa con không chịu ăn, không muốn học. Cha
mẹ không thể cứ ép con ḿnh ăn và học mà
được. Phần đóng góp của đứa con vào
công việc nuôi sống và giáo dục nó có thể rất
nhỏ nhoi so với nỗ lực to lớn của cha
mẹ, nhưng phải nói rằng sự đóng góp nhỏ
nhoi đó là tối cần thiết, đến nỗi không
có sự đóng góp đó, công việc nuôi dạy ấy
không thể thành công được.
c) Thiên Chúa đành bó tay
nếu con người không hưởng ứng và cộng
tác
Thiên Chúa đă làm xong
phần của Ngài, phần c̣n lại là phần của con
người: con người phải tin vào Thiên Chúa, vào Con
của Ngài là Đức Giêsu Kitô, và sống xứng
đáng, phù hợp với niềm tin ấy. Như vậy,
tuy Thiên Chúa toàn năng, nhưng trong việc cứu
chuộc con người, Thiên Chúa cũng đành phải bó
tay bất lực, nếu con người không hưởng
ứng, hay không có sự cộng tác với Ngài.
H́nh ảnh Chúa Giêsu
tại Nazarét minh họa điều đó: «Ngài không làm nhiều phép lạ tại đó, v́ họ
không tin» (Mt 13,58)(1). Điều đó cho ta
thấy: người ta không tin th́ Ngài cũng đành bó tay
không thực hiện quyền năng của Ngài để
cứu giúp họ được. Tương tự như
thế, để được cứu độ, con
người phải tin, và hơn nữa, phải sống
niềm tin ấy. Nhưng, thánh Phaolô nói: «làm sao họ tin được Đấng mà họ
không hề được nghe nói tới? và làm sao nghe
được nếu không có ai rao giảng? nhưng làm sao
có người rao giảng được nếu không có ai
sai họ đi?» (Rm 10,14). Như vậy, việc có
người rao giảng hay loan báo Tin Mừng là điều
tối cần thiết để nhân loại tin và
được cứu độ.
V́ thế, sau khi làm xong
nhiệm vụ cứu chuộc về phần ḿnh, và
trước khi từ giă thế gian, Chúa Kitô đă giao sứ
mạng c̣n lại cho các môn đệ và những
người tin theo Ngài là làm cho muôn dân hưởng ứng
ơn cứu độ, nghĩa là tin vào Ngài và trở thành
môn đệ Ngài hầu được hạnh phúc vĩnh
cửu. Đó là phần con người phải thực
hiện để tự cứu độ ḿnh và cứu
độ tha nhân. V́ thế, do đức ái thúc đẩy,
nhiều Kitô hữu đă dấn thân vào công cuộc phúc âm
hóa để mở mang Nước Thiên Chúa, để
nhiều người trong nhân loại được
cứu rỗi hơn. Việc phúc âm hóa không phải chỉ
là nhiệm vụ của các linh mục tu sĩ, mà là
của mọi người Kitô hữu. Và Giáo Hội đă
làm công việc phúc âm hóa đó suốt hai mươi thế
kỷ qua.
3. Đó cũng là công
việc của Thánh Thần
Phúc âm hóa là phần
cộng tác của người Kitô hữu vào công việc
cứu độ, nhưng người Kitô hữu không làm
một ḿnh, mà có Thánh Thần luôn luôn soi sáng, hướng
dẫn, linh hứng, miễn là con người sẵn sàng
mềm dẻo tuân theo sự hướng dẫn đó. Con
người đóng góp vào công việc này như một
dụng cụ của Thánh Thần. V́ thế, bất
cứ một hoạt động phúc âm hóa nào, muốn có
kết quả, con người cần làm theo sự
hướng dẫn của Thánh Thần, chứ không
phải chỉ làm theo ư riêng, hay theo sự sáng suốt khôn
ngoan thuần túy nhân bản của ḿnh.
a) Tinh thần phải có
của người loan báo Tin Mừng
Do đó, để
nhận được sự hướng dẫn khôn ngoan
của Thánh Thần, ngoài tinh thần khiêm nhường, tinh
thần luôn luôn vâng phục thánh ư Chúa, không cậy sức
riêng, phó thác vào Chúa, cần có đời sống cầu
nguyện, sự kết hợp thường xuyên với
Chúa, và tinh thần sẵn sàng đổi mới theo sự
hướng dẫn của Ngài.
Sự đổi
mới của Thánh Thần có thể đi ngược
lại với những quan niệm hay tập tục
hiện hành như ta thấy trong thời Chúa Giêsu và các Tông
Đồ: các Ngài luôn luôn bị phản đối bởi
những người đương thời, v́ quá dựa
vào truyền thống tôn giáo cũ, nên không thể hiểu
được đường lối mới của Thánh
Thần, v́ thế họ đă giết, ném đá hoặc
bách hại các Ngài, cho các Ngài là phá đạo, gây rối
loạn...
b) Quan niệm mới
về truyền giáo
Ngày xưa, truyền giáo
được hiểu là kitô hóa, nghĩa là làm sao
rửa tội hay đem vào Kitô giáo được càng
nhiều người càng tốt. Quan niệm như thế
chỉ nhắm tới số lượng hơn chất
lượng, và tạo nên những cộng đoàn Kitô giáo
trong đó có nhiều Kitô hữu «hữu danh vô thực», chỉ mang danh là Kitô
hữu nhưng không thật sự sống tinh thần
của Chúa Kitô. Ngày nay, truyền giáo chủ yếu
được hiểu là phúc âm hóa, nghĩa là không chỉ
nhắm đến việc rửa tội cho nhiều
người, mà quan trọng hơn là làm cho tinh thần yêu
thương và tự hủy của Chúa Kitô thấm
nhập vào tâm hồn mọi người, trong đời
sống xă hội, chính trị, kinh tế của các
quốc gia trên thế giới.
Thật vậy, theo quan
niệm mới của Công Đồng Vatican II, những
người ngoài Kitô giáo vẫn có thể được
ơn cứu độ khi sống theo truyền thống
tôn giáo của họ. Điều đó khiến chúng ta
phải hiểu truyền giáo theo một chiều
hướng mới hợp lư hơn: việc đưa
mọi người vào Kitô giáo hay vào Giáo Hội là điều
hết sức quí hóa và cần thiết, nhưng để
họ được cứu rỗi, điều cần
thiết hơn là họ phải thật sự sống tinh
thần của Chúa Kitô, một phần nào được
t́m thấy ngay trong truyền thống tôn giáo của họ,
và phần khác do việc phúc âm hóa của chúng ta đem
lại cho họ.
VIỆC PHÚC ÂM HÓA CỦA
GIÁO HỘI
Thiện chí và nỗ
lực của Giáo Hội
Suốt 20 thế kỷ
qua, Giáo Hội đă luôn luôn nỗ lực bằng
đủ mọi cách, thực hiện lệnh truyền
của Chúa Kitô, làm cho mọi dân tộc trên thế giới
biết Thiên Chúa, biết sự cứu chuộc của
Đức Kitô, để họ tin và trở thành môn
đệ Chúa Kitô. Công việc phúc âm hóa đó không phải
lúc nào cũng tiến hành tốt đẹp, v́ có những
lúc thuận lợi, mà cũng có những lúc hết sức
khó khăn. Tuy là công việc tốt đẹp, nhưng
việc phúc âm hóa cũng có những lúc không được
các dân tộc đón nhận, v́ nhiều khi bị hiểu
lầm một cách trầm trọng, bị coi là có hại
cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc,
v́ thế bị nghiêm cấm. Sự hiểu lầm này
đôi khi do những hoàn cảnh khách quan gây ra, nhưng
cũng có khi do những người lănh đạo công
cuộc phúc âm hóa đă hành động thiếu khôn khéo,
thiếu mềm dẻo, chấp cứng vào nguyên tắc.
Nhưng cho dù như thế, Giáo Hội vẫn trung thành
với sứ mạng của ḿnh, luôn luôn kiên tŕ
vượt qua mọi khó khăn trở ngại để
hoàn thành sứ mạng Chúa giao phó.
Chúng ta phải nh́n
nhận rằng công cuộc phúc âm hóa trong quá khứ có
rất nhiều ưu điểm, nhiều khôn ngoan sáng
suốt, nhưng cũng có một số khuyết
điểm, nhiều điều chưa được
gọi là khôn ngoan. Có can đảm nh́n nhận những
khiếm khuyết đó và cố gắng khắc phục,
sửa chữa, th́ công cuộc phúc âm hóa trong tương lai
mới tránh được những lầm lỗi đă
từng vấp phải trong quá khứ. Cũng như
cần phải thấy được những ưu
điểm trong việc phúc âm hóa ấy để phát huy
trong tương lai.
1. Sự thành bại
của công cuộc phúc âm hóa
a) Thành công tại châu Âu,
nhưng không thành công tại châu Á
Trong hai thiên niên kỷ
qua, công việc phúc âm hóa đó, rất thành công tại châu
Âu, nhưng không thành công bao nhiêu tại châu Á. Tại châu Âu,
giữa thế kỷ 20, Kitô giáo chiếm tới 70% dân
số, riêng công giáo 36%. C̣n tại châu Á, Kitô giáo chỉ
được 3,2%, riêng công giáo được 2,4% (2).
Đâu phải tại châu Á thiếu nỗ lực phúc âm
hóa. Thật ra, Kitô giáo đă được truyền sang Á
châu rất sớm. Ngay từ thế kỷ IV, đă có
những thừa sai sang Ấn Độ truyền
đạo và đă lập được những cộng
đoàn Kitô hữu tại đó. C̣n tại Trung Hoa, Kitô giáo
đă được truyền giảng từ thế
kỷ VI thời Đường Thái Tôn (năm 578), và
được nhà vua ra sắc lệnh cho tự do
truyền đạo.
b) Tại châu Á, Kitô giáo
chỉ là thiểu số
Nhưng cho tới nay,
chúng ta đă bắt đầu bước vào thế
kỷ 21, thử hỏi thành quả của 16 thế
kỷ phúc âm hóa tại châu Á ra sao? Cho tới nay, Kitô giáo
vẫn bị coi là một tôn giáo của ngoại quốc,
của châu Âu, cho dù Đức Kitô chính là người Á châu.
Ngoài Philippines là nước có 84% công giáo, tại những
nước khác, các cộng đoàn Kitô giáo chỉ là
những nhóm thiểu số, hiện diện như
nhưng ốc đảo có nguồn gốc văn hóa
ngoại lai. Các Kitô hữu dường như chưa ḥa
nhập được vào khung cảnh văn hóa Á châu. Theo
linh mục Aloysius Pieris, một nhà thần học Á châu, th́
châu Á vẫn luôn luôn là một lục địa phi
Kitô giáo.
c) Kitô giáo bị lợi
dụng
Tệ hơn nữa, dưới con mắt nhiều
người Á châu, Kitô giáo đă bị thực dân
thế kỷ XIX-XX lợi dụng như một công cụ
để đặt ách thống trị lên những dân
tộc ở Á châu (3). Nhiều người
đă cố t́nh - có thể
với ít nhiều ác ư -
đồng hóa việc Kitô hóa
với việc thực dân hóa,
với những chứng cứ không phải là hoàn toàn phi
lư. Sự lợi dụng đó rất dễ xảy ra, v́
nếu không tỉnh thức cảnh giác, «con cái sự sáng» rất dễ bị «con cái thế gian» lợi
dụng vào những mục tiêu của họ, v́ «con cái thế gian khôn ngoan hơn
con cái sự sáng» (Lc 16,8). Tuy nhiên, chúng ta không thể coi
ḿnh là hoàn toàn vô tội khi để cho ḿnh bị lợi
dụng, cho dẫu một cách rất vô t́nh. Tự khiêm
nhận lỗi như vậy dễ được thông
cảm hơn là tuyên bố ḿnh hoàn toàn vô tội. Vả
lại, có tôn giáo nào không bị lợi dụng ít nhiều
tương tự như thế? (4)
VIỆC PHÚC ÂM HÓA TẠI
CHÂU Á
Việc phúc âm hóa ở Á
châu không thành công bằng ở Âu Châu. Đó là một sự
thật rất hiển nhiên. Tại sao? Có nhiều lư do:
1. Á châu đă có nhiều
tôn giáo lớn
a) Những tôn giáo «siêu vũ trụ»
tại châu Á
Tại châu Á đă có
sẵn những tôn giáo có tầm cỡ ngang với Kitô giáo,
những tôn giáo mà nhà thần học Aloysius Pieris gọi là «siêu vũ trụ» (métacosmique)
cũng như Kitô giáo. Đó là những tôn giáo lớn, có
những hệ thống triết lư và giáo lư cao siêu, có
khả năng đáp ứng những nhu cầu tri
thức, tâm linh sâu thẳm nhất của con người,
cũng như có những nền luân lư siêu việt với
những đường lối tu tập hữu hiệu
giúp người ta đạt tới những cảnh
giới an lạc của tâm linh. Những tôn giáo này đă có
mặt và phát triển mạnh tại châu Á trước khi
Kitô giáo đến.
Thông thường, khi
người ta đă thật sự nếm được
những an ủi thâm sâu và thỏa măn với những tri
thức đạt được từ một tôn giáo
đến với họ trước, lúc đó họ
sẽ cho tôn giáo của họ là siêu việt nhất, và khó
chấp nhận hơn những tôn giáo đến sau.
Vả lại, khi đă thấm nhiễm tôn giáo nào rồi,
tư tưởng người ta sẽ bị đóng khung
theo những ư niệm của tôn giáo ấy. Những ư
niệm của tôn giáo khác sẽ trở thành xa lạ và
rất khó chấp nhận.
Khi thấm nhiễm
một tôn giáo nào là người ta bước vào một
hệ thống tư tưởng khép kín khiến
người ta hiểu tương đối dễ dàng những
ư tưởng hoặc những quan niệm đă tiếp
thu được từ tôn giáo ấy, nhưng lại
thấy thật khó hiểu những ư tưởng hoặc
quan niệm của những tôn giáo khác. Đang khi những
người trong tôn giáo khác ấy lại rất dễ
hiểu và chấp nhận những ư tưởng hoặc
quan niệm của tôn giáo ḿnh. Thật vậy, rất
nhiều ư tưởng và sự kiện trong Kitô giáo
được người Kitô hữu hiểu và chấp
nhận dễ dàng, th́ người Phật tử lại
không thể hiểu và chấp nhận được. Và
ngược lại cũng vậy. Do đó, những
người Á châu đă có căn bản vững chắc
về Phật giáo, Lăo giáo hay Ấn giáo... sẽ khó theo Kitô
giáo hơn một người chưa có lập
trường tôn giáo rơ rệt.
b) Tại châu Âu, chỉ
có Kitô giáo là tôn giáo «siêu vũ
trụ»
Kitô giáo là tôn giáo duy
nhất có tầm cỡ «siêu
vũ trụ» xuất hiện tại châu Âu.
Trước khi Kitô giáo đến với Âu Châu, tại
đó chưa từng có một tôn giáo nào có tầm cỡ
siêu việt, có khả năng đáp ứng sâu xa những
nhu cầu tâm linh, đồng thời giải đáp
được những thắc mắc về ư nghĩa
cuộc đời hay về nguồn gốc vũ trụ.
Những tôn giáo có sẵn tại đó chỉ là những
tôn giáo «vũ trụ»
(cosmique), không đáng là «đối
thủ» của Kitô giáo. V́ thế, Kitô giáo rất dễ
dàng được dân Âu Châu đón nhận thay thế cho
những tôn giáo «yếu kém»
hơn của họ. Họ dễ đón nhận Kitô giáo
hơn người Á châu rất nhiều. Điều này
thật là dễ hiểu tương tự như một
định luật của tự nhiên.
2. Tại châu Á, Kitô giáo
không được các chính quyền tích cực ủng
hộ
a) Tại châu Âu, Kitô giáo
được thế quyền ủng hộ
Việc phúc âm hóa của
đạo Kitô tại Âu Châu trong ba thế kỷ
đầu gặp rất nhiều khó khăn v́ bị chính
quyền cấm đoán và bách hại. Nhưng từ thế
kỷ IV trở về sau, việc phúc âm hóa gặp rất
nhiều thuận lợi, v́ vua Constantinus I, Hoàng Đế
Rôma, trở lại Kitô giáo, ông không những cho Kitô giáo
được tự do rao giảng mà c̣n ủng hộ
tối đa việc truyền bá Kitô giáo nữa. Ông đă
biến Kitô giáo thành tôn giáo chính thức của Đế
Quốc, một đế quốc trải khắp châu Âu,
lan sang cả châu Á và châu Phi. Từ đó, quyền hạn
của các giáo hoàng càng ngày càng rộng lớn, vua chúa các
nước ở châu Âu đều phải thần
phục, thậm chí tại nhiều nước, một nhà
vua mới lên ngôi có được giáo hoàng tấn phong th́
mới được thần dân công nhận là vua và
mới được họ thần phục.
Ở đâu cũng
thế, nhà vua theo đạo nào th́ đạo đó dễ
được trọng vọng và lôi cuốn
được nhiều người theo. Khi vua của
một nướùc theo Kitô giáo th́ ông dễ sủng ái và tín
nhiệm những ai cùng theo Kitô giáo với ông, nên thần
dân trong nước sẽ thấy theo Kitô giáo có lợi cho
ḿnh hơn. Tâm lư đó thật dễ hiểu. Trong bối
cảnh đó, có thể khởi đầu người ta
theo Kitô giáo chỉ v́ mục đích chính trị, ngoại
giao hay kinh tế, nhưng khi đă vào Kitô giáo, họ
bắt đầu được giáo dục, thánh hóa
từ thế hệ này sang thế hệ khác, và dần dần
trở thành những Kitô hữu chính danh, đạo
gốc. Âu Châu đă được Kitô hóa trong những hoàn
cảnh thuận lợi như thế: suốt mười
mấy thế kỷ nay, kể từ thế kỷ IV
trở về sau, Âu Châu là một lục địa Kitô
giáo, được chính quyền các nước công
nhận và ủng hộ (5). Không một
nơi nào trên thế giới Kitô giáo có được
một lợi thế chính trị lớn như vậy.
b) Tại châu Á, Kitô giáo
bị nghi ngờ và cấm đoán
C̣n tại châu Á, công
cuộc phúc âm hóa chưa bao giờ được thuận
lợi như thế. Trong chế
độ quân chủ, chưa có một vị vua nào
ở Á châu theo Kitô giáo hoặc tích cực ủng hộ công
cuộc phúc âm hóa của Kitô giáo cả. May phúc lắm th́
Kitô giáo được tự do truyền đạo
một thời gian nào đó thôi (6). Nhiều
khi Kitô giáo bị cấm v́ chính quyền nghi ngờ rằng
sự phát triển của Kitô giáo sẽ gây bất lợi
cho đất nước hoặc cho nhà cầm quyền. Lư
do rất dễ hiểu là họ thấy dân chúng một khi
đă theo Kitô giáo th́ dường như bị «mê hoặc» đến nỗi
sẵn sàng tuân theo lời những vị lănh đạo tôn
giáo hơn cả những vị lănh đạo quốc gia,
mà khổ một nỗi, những vị lănh đạo tôn
giáo lại là những người ngoại quốc,
thuộc những quốc gia đáng nghi ngờ hoặc
đang là kẻ thù của dân tộc, đang muốn
đặt ách thống trị lên đầu lên cổ dân
tộc ḿnh.
Chẳng hạn tại
Việt Nam, dưới triều các vua nhà Nguyễn, các
nước Âu Châu tới buôn bán tại nước ta và các
giáo sĩ Kitô giáo thuộc các nước ấy cũng theo
vào để loan báo Tin Mừng. Đang khi thế lực
ngoại quốc mạnh hơn ḿnh và không biết ḷng
dạ họ ra sao, th́ các vị vua Việt Nam lại
thấy những người Kitô giáo trong nước
sẵn sàng vâng nghe những người ngoại quốc
truyền bá đạo hơn cả chính quyền, cả
luật vua, đến nỗi sẵn sàng chịu đau
khổ và chết, làm sao chính quyền không khỏi lo
ngại và nghi ngờ? (7) Điều làm các nhà
vua sợ nhất, đó là người Kitô hữu có
thể ủng hộ những thế lực chống
lại nhà vua để cướp ngai vàng. Một lư do khác
là Kitô giáo trước đây có nhiều điểm không phù
hợp với văn hóa hay phong tục trong nước,
chẳng hạn như việc cấm thờ kính tổ
tiên (một điều cấm mà người Á Đông cho
là hết sức phi lư, thậm chí không thể chấp
nhận được) (8), việc thờ
một người trần truồng chịu đóng
đinh (một h́nh ảnh rất chướng mắt
đối với các nhà nho nhất là khi nh́n thấy
lần đầu tiên), v.v...
c) Trong nước,
đă có Nho giáo và Phật giáo
Vả lại, trong
nước đâu phải là không có những tôn giáo đúng
đắn để dân chúng theo: Nho giáo, Phật giáo
đều là đạo thánh hiền cả! Đối
với các vị vua triều Nguyễn, chỉ có
đạo Nho là hay hơn cả, đạo này đă giáo hóa
dân Việt biết bao thế kỷ qua, nhất là luân lư
của đạo Nho luôn luôn đề cao việc trung thành
với vua (9). Đang khi đó, người
Kitô hữu coi vua và luật vua không phải là trên hết, mà
thua luật Chúa, tức luật do các giáo sĩ ngoại
quốc dạy. V́ thế, các vua triều Nguyễn cấm đạo
không phải là hoàn toàn phi lư. Đặt ḿnh vào địa
vị của họ, với năo trạng của họ,
chắc chắn ta cũng không hành xử khác hơn họ.
Sự khôn ngoan thường t́nh là phải hành động
như thế. Và phải khôn ngoan thật phi thường
mới có thể hành xử tốt hơn.
d) Thế lợi hại
của thực dân trong việc phúc âm hóa
Vả lại, phía Giáo
Hội, các thừa sai cũng chưa ư thức
được cái thế lợi hại của ḿnh bên
cạnh những thế lực thực dân để hành
xử một cách khôn khéo và tế nhị hơn trong
những bối cảnh lịch sử khó khăn như
thế. Các ngài không thể nào ngờ được
thiện chí và sự hăng say của ḿnh đối
với đạo Chúa lại có thể bị những
thế lực trần gian lạm dụng để
phục vụ cho những ư đồ đen tối và ám
muội của họ, luôn điều hoàn toàn ngược
lại với thiện ư của các ngài. Phải nói rằng
thời ấy, các thừa sai chưa có một kinh
nghiệm nào về việc này cả. Chúng ta cũng nên
hiểu cho các ngài.
Chúng ta nên nghĩ
rằng trong công cuộc phúc âm hóa tại các nước Á
châu, các thừa sai chắc chắn không thiếu sự thánh
thiện, ư ngay lành, ḷng hăng say, sự khôn ngoan cá nhân. Có
thiếu chăng th́ chỉ là thiếu cái nh́n sáng suốt,
khôn ngoan và kinh nghiệm về mặt chính trị, thiếu
sự mềm dẻo và thích ứng về văn hóa.
e) Việc phúc âm hóa
sẽ thuận lợi nếu được các chính
quyền ủng hộ
Việc phúc âm hóa ở
Âu Châu nếu không được nhà cầm quyền trong
các quốc gia ủng hộ hay tạo điều kiện
thuận lợi, có thể sẽ không thành công rực
rỡ như đă từng xảy ra trong lịch sử.
Nếu cứ bị chính quyền gây khó khăn, việc
phúc âm hóa vẫn có thể phát triển nhưng không thể
thành công lớn. Ư thức được điều
đó, khi phúc âm hóa tại châu Á, linh mục Matteo Ricci đă
chủ trương phúc âm hóa trước tiên cho giới
lănh đạo và trí thức trong xă hội. Nếu họ
chưa theo đạo th́ ít ra họ cũng có một cái
nh́n thiện cảm về Kitô giáo, đồng thời không
cảm thấy Kitô giáo bất lợi cho đất
nước của họ. Nếu họ theo đạo th́
họ sẽ có nhiều ảnh hưởng thuận
lợi cho việc phúc âm hóa. Nhưng chủ trương
của cha Ricci đă không được các cấp lănh
đạo trong Giáo Hội ủng hộ, thậm chí các
vị c̣n kết án cha và phá đổ công tŕnh của cha
nữa. Phải tới Đức Giáo Hoàng Piô XII, cách phúc âm
hóa của cha Ricci mới được công nhận là
đúng đắn và khôn ngoan, th́ lúc đó đă quá muộn,
v́ những lầm lỡ gây ra không c̣n sửa chữa
lại được nữa.
Tại châu Á, Kitô giáo
chỉ được các chính quyền ủng hộ tích
cực trong thời kỳ thực dân vừa qua, bởi các
chính quyền thực dân hoặc thân thực dân mà thôi. Mà
thời kỳ này chỉ kéo dài khoảng một thế
kỷ, và gây ra về sau có nhiều hiểu lầm bất
lợi. Ngoài thời kỳ ngắn ngủi ấy, Kitô giáo
mà được tự do truyền đạo th́ kể là
may phúc lắm rồi. Đó là một lư do khá quan trọng
khiến cho kết quả việc phúc âm hóa ở Á châu thua
xa ở Âu Châu.
3. Việc phúc âm hóa
tại châu Á thiếu thích ứng và hội nhập văn
hóa
Một lư do nữa
khiến cho việc phúc âm hóa ở Âu Châu thành công hơn
ở Á châu rất nhiều là việc thích ứng và hội
nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào Âu Châu rất
hoàn chỉnh, tuyệt hảo, nhất là từ thời các
Tông Đồ đến thời các giáo phụ, khiến
cho việc phúc âm hóa tại đây có một nền tảng
vững chắc, khác hẳn với tại châu Á.
a) Đường
lối thiếu mềm dẻo của Giáo Hội
Tại châu Á, việc
thích ứng và hội nhập văn hóa không được
đặt nặng lắm, có thể nói là thua xa việc
thích ứng và hội nhập văn hóa tại châu Âu. Các
vị lănh đạo Giáo Hội đă đi theo một
đường lối cứng rắn, không thích nghi
đủ với các dân tộc bản xứ. Những
thừa sai chủ trương thích ứng và hội
nhập văn hóa một cách tích cực thường
bị hiểu lầm hoặc bị kết án.
Việc thích ứng và
hội nhập văn hóa đă được Giáo Hội
đặt nặng ngay từ thời Giáo Hội sơ khai.
Sứ điệp Kitô giáo từ nguyên thủy mang bộ áo
văn hóa Do Thái. Nhưng khi truyền vào Âu Châu, sứ
điệp ấy đă được cởi bỏ
bộ áo văn hóa Do Thái để hoàn toàn mặc lấy
bộ áo văn hóa Tây Phương, khiến người Tây
Phương rất dễ chấp nhận. Các nghi thức
phụng vụ đều được cử hành theo
cung cách Rôma, từ lễ phục đến ngôn ngữ,
từ cách xông hương đến cách bái lạy, v.v...
rất quen thuộc với người Âu Châu. Nhưng khi
được các thừa sai Tây Phương truyền vào Á
châu, việc thích ứng và hội nhập văn hóa bị
coi nhẹ, Kitô giáo vẫn giữ nguyên bộ áo văn hóa
Tây Phương, không phù hợp với nền văn hóa
Đông Phương.
b) Áp đặt nhiều
hơn hội nhập
Có thể nói: về mặt văn hóa, Kitô
giáo được đưa vào Á châu bằng con
đường «áp đặt»
nhiều hơn là «hội
nhập». Như thế, kết quả có thể nhanh
chóng nhưng không lâu bền, không có hậu. Thật vậy,
trong quá khứ, nhất là trong thời thực dân, Giáo
Hội đă dùng lợi thế ḿnh có được - chẳng hạn về mặt tôn giáo (10),
về chính trị (11), về kinh tế (12),
về ảnh hưởng đối với dân Á châu (13),
để áp đặt vào Á châu một Kitô giáo mang nặng
h́nh thức văn hóa Tây Phương, rất lạ lẫm
đối với người Á châu.
V́ thế, việc phúc âm
hóa tại châu Á đă không đem lại kết quả
rực rỡ như ở Âu Châu, nếu không muốn nói là
không có kết quả bao nhiêu. Số Kitô hữu tại châu
Á chỉ là 3,2% so với ở Âu Châu là 70% (14).
Trong ba lư do khiến
việc phúc âm hóa tại châu Á không thành công bằng ở Âu
Châu như đă kể trên, lư do thứ nhất (tại châu
Á đă có sẵn nhiều tôn giáo tầm cỡ ngang với
Kitô giáo) ta không thể khắc phục được, lư do
thứ hai (Kitô giáo không được các chính quyền
ủng hộ) rất khó khắc phục, chỉ có lư do
thứ ba liên quan đến việc thích ứng và hội
nhập văn hóa là có thể khắc phục tương
đối dễ dàng. Tuy nhiên, nếu lư do thứ ba
khắc phục được, th́ lư do thứ hai liên quan
đến sự ủng hộ của nhà cầm quyền
cũng trở nên dễ khắc phục hơn. Nhưng
việc thích ứng và hội nhập văn hóa phải
được cấp lănh đạo Giáo Hội quan tâm và
ủng hộ tích cực th́ mới có kết quả mỹ
măn. Nếu đó chỉ là những cố gắng cá nhân,
riêng lẻ, th́ kết quả sẽ chẳng đáng
kể.
@ U ?
Vậy, để
việc phúc âm hóa tại châu Á, cụ thể là tại
Việt Nam, thành công hơn, thiết tưởng các giáo
hội địa phương tại châu Á cần quan tâm
nhiều hơn tới việc thích ứng sứ
điệp Kitô giáo với nền văn hóa của dân
tộc ḿnh, nghĩa là phải hội nhập văn hóa.
Việc hội nhập văn hóa không chỉ
được hiểu theo chiều ngang mà c̣n phải
được hiểu theo chiều dọc nữa. Hội
nhập văn hóa theo chiều ngang là phải rao truyền
sứ điệp Kitô giáo theo cung cách văn hóa của
người Á châu, chứ không phải với cung cách
văn hóa Âu châu như đă làm từ trước
đến nay. Hội nhập văn hóa theo chiều
dọc là sự thích ứng về mặt văn hóa của
thế hệ trước (thế hệ phúc âm hóa)
đối với thế hệ sau (thế hệ
được phúc âm hóa). Điều này rất quan
trọng v́ càng ngày sự khác biệt về mặt văn
hóa giữa hai thế hệ liên tiếp nhau càng lớn.
Người truyền đạt sứ điệp
(thế hệ cha anh) phải diễn tả hay truyền
đạt sứ điệp một cách phù hợp với
năo trạng và văn hóa của người được
truyền đạt (thế hệ con em).
Phần chú thích
(1)
Để Chúa Giêsu có thể
làm phép lạ, th́ điều kiện rất quan trọng là
người ta phải tin.
Không tin là một trở ngại lớn về phía ta
khiến Thiên Chúa cũng đành bất lực.
(2)
Theo thống kê, hiện nay,
dân số thế giới khoảng 5 tỉ, trong đó Công
giáo 900 triệu chiếm 18% (Kitô giáo nói chung 1,5 tỉ
tức 30%).
Tại Á Châu, Công giáo chiếm
2,4% (Kitô giáo nói chung 3,2%). Sau
đây là thống kê tại một vài nước Á Châu
(xếp theo số người Công giáo giảm dần):
Tên nước Dân số Công giáo Tỉ
lệ
Philippines 70 triệu 59
triệu 84,29 %
Ấn
Độ 936 triệu 16 triệu 1,70 %
Trung
Hoa 1.200 triệu 8 triệu 0,67
%
Việt
Nam 76 triệu 7 triệu 9,21
%
Inđônêsia 194 triệu 5,4
triệu 2,78 %
Nam Hàn 42 triệu 3,5
triệu 8,33 %
Pakistan 130 triệu 1,2
triệu 0,92 %
Mă Lai 20 triệu 64
ngàn 3,20 %
Myanmar 46 triệu 54
ngàn 1,17 %
Nhật
Bản 125 triệu 45 ngàn 0,36
%
Lào 5 triệu 36 ngàn 0,07 %
Đài
Loan 22 triệu 30 ngàn 1,36 %
Thái Lan
60 triệu 25 ngàn 0,42 %
Sri
Lanca 18 triệu 21 ngàn 1,17
%
Kampuchia 10 triệu 20
ngàn 0,20 %
(3)
Tương tự như
tại Phi châu: trong giáo tŕnh «Progress to the proficiency của
LEO JONES, (Cambridge University Press, London 1986, trang 9-10) có bài «The white man in Africa (trích trong
sách The Story of Africa của Basil
Davidson) nói về tiến tŕnh của người da
trắng đến với người da đen như sau:
«Trước tiên người
da trắng đem đến [cho chúng tôi] cuốn Kinh
Thánh. Rồi họ đem súng
tới, kế đến là xiềng xích, rồi họ xây
nhà tù, tạo ra các khoản thuế […] Họ có Kinh Thánh c̣n chúng tôi có đất
đai. Một thời gian
sau, chúng tôi thấy rằng sự việc đă thay
đổi ngược lại.
Bây giờ họ có đất đai c̣n chúng tôi có Kinh
Thánh […] Tôi biết cái mưu
đồ của họ.
Đến trước hết là những
người buôn bán và các nhà phúc âm hóa. Rồi tới các sứ giả. Sau đó, họ đem súng
tới […] Bắt đầu tiến tŕnh đó có thể là
các thừa sai, nhưng trước hết là để
điều tra một cách khoa học […].
(4)
Trong dân gian người ta
vẫn thường nói «dùng
đạo tạo đời để chỉ những
người lợi dụng tôn giáo hầu thực hiện
những mục đích trần tục của họ (t́m
danh vọng, tiền của…).
(5)
Đương nhiên không
thể tránh được có những hoàn cảnh Kitô giáo
bị bách hại. Nhưng nói
chung là việc phúc âm hóa rất thuận lợi.
(6)
Đó là nói chung trong các
triều đại vua từ thế kỷ 19 về
trước. Tuy nhiên, mới
đây, trong thời Á Châu bị thực dân Tây Phương
cai trị, th́ Kitô giáo được ưu đăi và
được tích cực ủng hộ, v́ nó là tôn giáo
của Tây Phương (như đă nói trước đây,
vua theo tôn giáo nào th́ tôn giáo ấy được ưu
đăi). Nhờ đó, trong
thời này, Kitô giáo phát triển mạnh hơn bao giờ
hết.
(7)
Cuối tháng 6-1645, Chúa
Nguyễn phúc Lan cải án tử h́nh cho Cha Rhodes thành án
trục xuất, đă ra lệnh cho viên Thái Sư: «Hăy
đưa ông ta về Hội An, để ông ta đi
đâu tùy ư, miễn là ra ngay khỏi vương quốc
của Ta, v́ Ta chẳng hiểu tại sao ông ta có tài mê
hoặc các thần dân của Ta, đến nỗi tất
cả đều mù quáng theo ông ta và làm như ư ông muốn
(A. DE RHODES, Relation des progrès de la
Foi au Royaume de la Cochinchine, Paris 1652, trang 126).
(8)
Kể từ năm 1939
tại Trung Hoa. và từ năm 1965 tại Việt Nam,
luật cấm này không c̣n được áp dụng
nữa.
(9)
Trong Tam Cương Ngũ Thường của
đạo làm trai, có Tam
Cương, là Quân, Sư,
Phụ (trung thành với vua, tôn kính thầy dạy, và
hiếu thảo với cha mẹ), trong đó trung quân là đầu. Ca dao Việt Nam có câu:
«Trai thời trung, hiếu làm
đầu,
«Gái thời tiết
hạnh làm câu sửa ḿnh.
(10)
V́ Kitô giáo vốn là một tôn
giáo lớn, vững mạnh và đầy thế lực
ở Âu Châu, cả mặt thế quyền lẫn thần
quyền, khác hẳn với Kitô giáo thời sơ khai
phải nỗ lực thích ứng và hội nhập văn
hóa mới có thể tồn tại được
(11)
V́ Kitô giáo được chính
quyền các nước Âu Châu và chính quyền thực dân
tại các nước Á Châu ủng hộ
(12)
Lúc ấy, Kitô giáo có rất
nhiều khả năng về tài chính.
(13)
V́ thời ấy, Kitô giáo
đă tạo được nhiều cộng đoàn Kitô
hữu sẵn sàng sống chết với đức tin
của ḿnh
(14)
Đó là tỷ lệ vào
thời điểm giữa thế kỷ 20. C̣n hiện tại, tỷ lệ
Kitô giáo tại Âu Châu đă giảm đi rất nhiều. Số người thực sự sống
đạo tại các nước Pháp, Ư… là những
nước trước đây hầu như toàn ṭng công
giáo, hiện nay chỉ c̣n khoảng 5%.
NGUYỄN
CHÍNH KẾT