HỘI
NHẬP VĂN HÓA LÀ G̀?
NGUYỄN
CHÍNH KẾT
Để phúc âm hóa
có hiệu quả
Bất kỳ người
Kitô hữu nào cũng có sứ mạng phúc âm hóa. Sứ
mạng đó bắt nguồn từ bí tích Thánh Tẩy
khiến ta trở nên con cái Thiên Chúa và được chia
sẻ với Chúa Kitô thiên chức vua, tư tế và ngôn
sứ (1). Chia sẻ những thiên chức
ấy, người Kitô hữu cũng chia sẻ với Chúa
Kitô sứ mạng loan báo Tin Mừng, «làm cho muôn dân trở nên môn đệ Chúa»,
đồng thời «dạy
bảo họ tuân giữ những điều Chúa truyền»
cho ḿnh (2). Sứ mạng đó lại càng
trở nên rơ rệt và chính thức hơn khi chúng ta lănh
nhận bí tích Thêm Sức, Thánh Thể, nhất là với
những người đă lănh nhận bí tích Truyền
Chức, và những người đă tận hiến
đời ḿnh cho việc mở mang Nước Chúa.
Có sứ mạng loan báo
Tin Mừng, ta phải loan báo Tin Mừng sao cho có hiệu
quả, nghĩa là phải loan báo Tin Mừng một cách có
kế hoạch, có phương pháp và nghệ thuật.
Muốn thế, một trong những vấn đề quan
trọng nhất phải làm là mềm dẻo và khéo léo thích
ứng cách rao truyền sứ điệp Kitô giáo
với đối tượng và hoàn cảnh, đồng
thời hội nhập sứ điệp Kitô giáo vào môi
trường văn hóa của từng dân tộc mà ḿnh
muốn phúc âm hóa. Giữa thích ứng và hội nhập
văn hóa có nhiều điểm giống nhau, nhưng
cũng có những khác biệt căn bản.
THÍCH ỨNG LÀ G̀?
1. Định nghĩa
Thích ứng là ứng biến cho thích hợp:
– ứng biến là thay đổi
(=biến) cách đối phó (=ứng) khi sự việc
xảy ra,
– thích hợp là vừa khít (=thích),
tương xứng, phù hợp (=hợp) với sự
việc hay t́nh huống xảy ra.
Thích ứng là tùy theo
từng t́nh huống cá biệt mà thay đổi cách ứng
xử cho phù hợp từng t́nh huống một. Thích
ứng có nghĩa tổng quát hơn hội nhập văn
hóa.
Trong công cuộc phúc âm
hóa, thích ứng là rao giảng sứ điệp Kitô giáo sao
cho phù hợp với từng trường hợp, từng
hoàn cảnh cụ thể của mỗi dân tộc, của
mỗi xứ đạo, hay của mỗi cá nhân. Nghĩa
là phải thay đổi phương thức phúc âm hóa, cách
thức rao giảng, cách ứng xử, cách diễn tả
sứ điệp... sao cho phù hợp với từng t́nh
huống cụ thể của người nghe, để
việc phúc âm hóa đi đến kết quả tốt
đẹp. Hay nói cách khác là phải «tùy cơ ứng biến», «tùy duyên hóa độ» (3).
Để làm sáng tỏ
vấn đề, ta thử đưa ra một vài h́nh
ảnh minh họa.
2. Một vài minh họa về thích ứng
a) Thầy thuốc tùy bệnh cho toa
Việc thích ứng
cũng giống như việc thầy thuốc tùy bệnh
cho toa. Y lư chỉ có một và bất biến, nhưng
bệnh th́ nhiều vô kể, mỗi bệnh mỗi khác,
không bệnh nào giống bệnh nào. Khi y lư được
áp dụng vào từng cơn bệnh, nó sẽ biến thành
rất nhiều phương thức trị liệu hay toa
thuốc khác nhau, mỗi bệnh một toa. Bệnh
giống nhau, thuốc mới giống nhau. Bệnh khác nhau,
thuốc sẽ khác nhau. Thầy thuốc càng giỏi,
nghĩa là càng nắm vững y lư, th́ càng biết gia
giảm các vị thuốc trong cùng một bài thuốc
để trị những bệnh nhân tuy cùng một
chứng bệnh nhưng lại hơi khác nhau về
một số chi tiết nhỏ nhặt nào đó. Có
biết gia giảm như thế, việc chữa trị
mới nhanh chóng và hữu hiệu. Chỉ những thầy
thuốc dở mới áp dụng cùng một toa thuốc
như nhau cho những con bệnh khác nhau. Những thầy
thuốc loại này là những người không nắm
vững được y lư, nên không biết cách áp dụng y
lư đó trong những trường hợp cá biệt khác
nhau của bệnh tật.
Cũng vậy, người
rao giảng chân lư phải nắm vững chân lư ḿnh rao
giảng, và hễ nắm vững chân lư ḿnh rao giảng th́
cũng sẽ biết thay đổi cách tŕnh bày chân lư
ấy tùy theo tŕnh độ tâm linh, trí tuệ, năo trạng,
tính t́nh của người nghe để họ cũng
nắm vững chân lư và thật sự áp dụng chân lư
ấy vào đời sống của họ. Không biết
phải thay đổi cách tŕnh bày chân lư thế nào cho phù
hợp với từng đối tượng, điều
đó chứng tỏ rằng người rao giảng
chưa nắm vững được chân lư ḿnh rao
giảng. Một khi đă nắm vững được
chân lư trong vấn đề ḿnh nói, th́ tuy tŕnh bày cùng
một vấn đề, nhưng khi tŕnh bày cho một nông
dân, cách thức tŕnh bày hay h́nh thức diễn tả ắt
phải khác với cách tŕnh bày cho một bác sĩ. Có
nắm vững chân lư th́ mới có khả năng tŕnh bày
cách thích ứng như thế cho các đối tượng
khác nhau.
b) Ḍng điện thay đổi tùy theo dụng
cụ điện
Sự thích ứng
cũng tương tự như sự thay đổi
của ḍng điện: cùng một ḍng điện nhưng
tùy theo công suất tiêu thụ của mỗi dụng cụ
mà cường độ ḍng điện thay đổi
để thích ứng với dụng cụ, làm phát sinh
những công năng khác nhau, hầu cung ứng đủ
năng lực để dụng cụ hoạt
động mà không vượt quá sức chịu
đựng của dụng cụ. Cùng một ḍng
điện 220 volt, khi vào một dụng cụ 100 watt, th́
cường độ ḍng điện là 0,45 ampère, nhưng
khi vào dụng cụ 1000 watt, th́ cường độ
tăng lên 10 lần thành 4,54 ampère (4). Nếu
không có sự thích ứng đó, ḍng điện sẽ làm
hư hỏng dụng cụ điện hoặc không
đủ năng lực cần thiết để đáp
ứng nhu cầu người sử dụng.
Ngoài ra, khi đi vào
những dụng cụ điện, ḍng điện c̣n
biến đổi thành những h́nh thái khác nhau của
năng lượng. Khi vào bóng đèn, điện biến
thành ánh sáng, vào quạt máy th́ thành gió, vào bếp điện
th́ thành hơi nóng, vào tủ lạnh th́ thành hơi
lạnh... Thật là trái tự nhiên khi ḍng điện
đi vào những môi trường tiêu thụ khác nhau mà
lại sinh ra cùng một công năng hay cùng một h́nh thái
năng lượng như nhau.
c) Cây nào sinh trái nấy
Tương tự
như thế, cùng mọc trên một thửa đất
như nhau, nhưng cây nào sinh trái đó. Cây khác nhau th́ không
thể v́ cùng mọc trên một thửa đất mà sinh ra
cùng một loại trái được. Cây cam sinh trái cam, cây
chanh sinh trái chanh th́ cả hai cây đều hoạt
động đúng với luật tự nhiên. Nhưng
nếu cả hai cây đều sinh ra cùng một thứ trái
th́ đó quả là chuyện lạ thường, nghịch
tự nhiên. Mà một trong những nguyên tắc căn
bản của Kitô giáo là hành động theo luật tự
nhiên, không chấp nhận những ǵ phản tự nhiên.
Như vậy, cùng suy
tư và khai triển mặc khải duy nhất của
Đức Kitô, th́ người Á châu với vũ trụ
quan động, nhận thức luận đa diện và
nhất nguyên không thể có cùng một cách diễn tả
chân lư, cùng một lối suy tư thần học như
người Âu Châu với vũ trụ quan tĩnh, nhận
thức luận đơn diện và nhị nguyên
được. Ép buộc người Á châu khi suy tư
thần học cũng phải đi đến cùng một
kết luận thần học y như những kết
luận thần học đă có trước của
người Âu Châu th́ chẳng khác nào ép cây cam phải ra cùng
một loại trái như cây chanh. Như vậy, có tự
nhiên và hợp lư không khi mà cái nào ra trước th́
được tự do ra theo điều kiện riêng và
bản chất nội tại của ḿnh, c̣n cái nào ra sau th́
phải ép ḿnh mà ra giống như cái đă ra trước –
vốn đă được chính thức hóa làm khuôn mẫu
để duy tŕ sự thống nhất cho toàn thể –
bất chấp việc phải đi trái với bản
chất nội tại và những điều kiện riêng
của ḿnh?
3. Thích ứng để tồn tại và phát triển
Thích ứng là một
điều kiện quan trọng để tồn tại,
phát triển, và thành công. Phàm tất cả mọi sinh
vật trên thế giới này, sinh vật nào biết thích
ứng với hoàn cảnh xung quanh ḿnh, th́ dù có mỏng ḍn
yếu ớt vẫn có thể tồn tại và phát
triển. C̣n sinh vật nào không biết thích ứng, th́ dù có
mạnh mẽ hay vững chắc tới đâu, cũng
sẽ không phát triển được nếu không muốn
nói là bị tiêu diệt (5).
Đối với các tôn
giáo cũng thế, hễ biết thích ứng với hoàn
cảnh chung quanh, với những t́nh huống luôn luôn thay
đổi, th́ sẽ tồn tại và phát triển. Không
chịu thích ứng th́ sẽ bị luật đào thải
loại trừ. Cũng thế, việc phúc âm hóa nếu
muốn thành công th́ phải thích ứng với đối
tượng, với môi trường, với hoàn cảnh,
thời thế... Trong việc phúc âm hóa, sự thích ứng
đó là «tùy duyên hóa độ»,
là hội nhập văn hóa.
HỘI NHẬP VĂN HÓA LÀ G̀?
1. Định nghĩa
Hội nhập văn
hóa sứ điệp Kitô giáo là đưa sứ
điệp Kitô giáo vào trong nền văn hóa của dân
tộc bằng cách diễn tả sứ điệp Kitô
giáo một cách thích ứng với nền văn hóa đó,
đồng thời hoàn chỉnh nền văn
hóa đó theo tinh thần Kitô giáo. Như vậy hội
nhập văn hóa là một cuộc hội thoại giữa
đức tin và văn hóa, nó có hai chiều:
1. Một đằng là
thích
ứng sứ điệp Kitô giáo với văn hóa
của dân tộc lănh nhận sứ điệp, vận
dụng những yếu tố phù hợp với tinh
thần Kitô giáo trong văn hóa của dân tộc ấy
để diễn tả sứ điệp, hầu
đưa sứ điệp vào ḷng dân tộc ấy
một cách thuận lợi và dễ dàng. Chẳng hạn
khi diễn tả sứ điệp Kitô giáo cho người
Việt Nam, ta nên dùng những ư niệm, h́nh ảnh, câu nói
quen thuộc đối với người Việt như
ca dao tục ngữ, hay những quan niệm triết lư
Đông Phương để giải thích, truyền
đạt. Không nên lạm dụng triết lư Tây
Phương hay những h́nh ảnh tuy quen thuộc với
người Tây Phương, nhưng lại rất xa
lạ với người Việt để diễn đạt
sứ điệp. Nhờ sự thích ứng đó, Kitô giáo
trở nên dễ hiểu, thân thuộc và dễ chấp
nhận với người Việt. Nếu không, Kitô giáo
sẽ trở thành xa lạ, ngoại lai, khó hiểu và khó
chấp nhận.
2. Đằng khác
hội nhập văn hóa c̣n là biến đổi nền
văn hóa đó, làm cho nền văn hóa đó hoàn thiện
hơn. Nói khác đi là làm cho nền văn hóa ấy mang
nhiều tinh thần Tin Mừng hơn. Đây chính là
mục đích phải đạt được của việc
hội nhập văn hóa: đó là phúc âm hóa nền
văn hóa đó, tức làm cho sứ điệp Tin Mừng
ảnh hưởng trên quan niệm, cách suy nghĩ, cách hành
xử của dân chúng, làm cho tinh thần Chúa Kitô thấm
nhuần vào ḷng dân tộc ấy. Nếu sự thích ứng
trên mà không nhằm mục đích này, hay không đạt
được mục đích này, th́ đó không phải là
hội nhập văn hóa đúng nghĩa. Đó mới
chỉ là hội nhập văn hóa nửa vời, hời
hợt.
Như vậy, hội
nhập văn hóa – có nghĩa hẹp hơn thích ứng – là
thích ứng về mặt văn hóa khi đem một sứ
điệp tôn giáo đến với một dân tộc nào
đó. Nhiều trường hợp thích ứng chỉ là
thích ứng mà không phải là hội nhập văn hóa.
Nhưng mọi trường hợp hội nhập văn
hóa đều có tính thích ứng.
Trong việc loan báo Tin
Mừng, hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô
giáo là rao giảng sứ điệp đó một cách thích
ứng với nền văn hóa hay những yếu tố
văn hóa của từng dân tộc để có thể phúc
âm hóa nền văn hóa đó, làm cho nền văn hóa đó
thấm nhuần tinh thần Tin Mừng. Như vậy,
hội nhập văn hóa không phải chỉ theo một
chiều là thích ứng cách diễn tả sứ điệp
với nền văn hóa của dân tộc, mà c̣n theo
chiều ngược lại là nhờ sự thích ứng
đó mà sứ điệp Kitô giáo mới dễ dàng
thấm sâu vào nền văn hóa ấy, biến đổi
nền văn hóa ấy trở nên tốt hơn, thuận
lợi cho việc mở mang Nước Chúa hơn.
Chiều thứ nhất là phương tiện, chiều
thứ hai là mục đích phải đạt
được. Nếu hội nhập văn hóa mà không
nhắm phúc âm hóa các nền văn hóa, th́ chưa phải là
hội nhập văn hóa đúng nghĩa.
2. Vài thí dụ và phản thí dụ về hội
nhập văn hóa
a) Tượng Chúa Giêsu da đen
Một trong những cách
cụ thể để hội nhập văn hóa tại
Phi châu là: h́nh Chúa Giêsu và Đức Mẹ đều là da
đen. Điều đó quả là trái ngược với
sự thật lịch sử, v́ Chúa Giêsu và Đức Maria
là người Do Thái da trắng chứ đâu phải là
người Phi châu da đen. Nhưng điều trái
với sự thật lịch sử ấy lại đúng
với «chân lư» (lư lẽ chân
thật) v́ nó diễn tả đúng tinh thần nhập
thể và cứu độ của Thiên Chúa: Thiên Chúa
muốn chia sẻ thân phận của nhân loại qua con
người Đức Giêsu Kitô, nên nếu Ngài muốn chia
sẻ thân phận với người Phi châu nghèo nàn đau
khổ th́ Ngài phải là người da đen.
Vả lại,
đối với người Phi châu, th́ người da
trắng là kẻ thù, là người bóc lột và
đặt ách nô lệ lên đầu lên cổ họ. V́
thế, da trắng hay mầu trắng tượng trưng
cho những ǵ xấu xa nhất, đến nỗi tại
châu Phi có những thành ngữ như: xấu như da trắng, hay đểu như da trắng. Mà Đức Giêsu và
Đức Mẹ lại tượng trưng cho những
ǵ cao cả nhất, tốt đẹp nhất, nếu các
Ngài được tạc tượng là người da
trắng th́ quả là trớ trêu, khó chấp nhận
đối với họ. Trong bối cảnh đó,
tạc tượng các Ngài là da đen chính là hội
nhập văn hóa.
b) Tượng Chúa bị cùi
Một thí dụ khác
tương tự: Một vị giám mục tới thăm
một trại cùi. Ngài cảm thấy bị xúc phạm
rất mạnh khi thấy Chúa Giêsu, Đấng mà ḿnh tôn
thờ, lại bị tạc tượng thành một
người cùi: cùi chân cùi tay, lở miệng sứt tai
trông rất gớm ghiếc. Vị giám mục quyết tâm
điều tra cho bằng được xem ai là tác giả
sự sỉ nhục ghê gớm ấy. Cuối cùng, một
thầy ḍng già – phục vụ trong trại cùi lâu năm và
cuối cùng đă bị lây bệnh – tự thú ḿnh là tác
giả. Thầy thưa với Đức Cha: «Con không biết phải làm
thế nào để diễn tả t́nh thương yêu
tột cùng của Chúa Giêsu đối với những
người đau khổ đến tận cùng, cả
thể xác lẫn tinh thần, như những người
cùi trong trại này, hơn là cho họ thấy Ngài cũng
chia sẻ thân phận bị cùi như họ, thậm chí
hơn họ nữa: đă bị cùi mà c̣n chịu đóng
đinh nhục nhă để cứu họ».... Vị
giám mục hiểu ra và công nhận thầy già có lư. Tạc
tượng như thế, chính là thích ứng, là hội
nhập văn hóa, là «tùy duyên
hóa độ».
c) Phản thí dụ: Ở xứ nóng mà mặc
đồ dày
Một số ḍng tu
được thành lập ở Âu Châu là nơi khí hậu
tương đối rất lạnh so với Việt Nam
hay Phi châu. V́ thế, y phục của các ḍng tu này phải
nhiều và dày để thích ứng với khí hậu
lạnh đó. V́ tai là phần dễ nhiễm lạnh
nhất trên đầu, nên họ thường che kín cả
hai tai. Và người sáng lập ḍng thường gán cho
mỗi thứ áo mặc vào một ư nghĩa tương
ứng với những tôn chỉ hay các nhân đức
căn bản của linh hạnh ḍng. Đó là một cách
nhắc nhở tuyệt vời.
Nhưng khi tới
hoạt động ở các xứ nóng vùng nhiệt
đới, tu sĩ các ḍng đó vẫn mặc đầy
đủ các thứ quần áo đó y như khi sống và
hoạt động ở những xứ lạnh. Y
phục vừa nhiều vừa dài rộng như thế,
đôi khi trắng toát từ đầu đến chân, làm
sao phù hợp được với khung cảnh của
đám dân nghèo mà họ phục vụ, không có đủ
vải để che thân? Bộ quần áo trắng toát làm
sao phù hợp được với màu da đen của dân
Phi châu, và với năo trạng không ưa mầu trắng
của họ? Và bộ quần áo tu sĩ đó quả là
khác thường, lập dị so với cách ăn mặc
của người dân bản xứ.
Thế nhưng nhiều
ḍng tu vẫn luôn luôn coi là quan trọng việc giữ cho
đúng bản sắc riêng của ḍng ḿnh, không muốn
bị lẫn lộn với ḍng khác, và coi việc ḥa
đồng với dân chúng địa phương chỉ
là thứ yếu.
d) Phản thí dụ: Thánh Phaolô nói về sự
sống lại ở Hy Lạp
Sự thất bại
của thánh Phaolô khi rao giảng ở Hy Lạp,
trước pháp viện Athen (Arêôpagô) có thể là một bài
học cho ta về hội nhập văn hóa (Xem Cv 17,16-34). Người
Hy Lạp tại Athen đă yêu cầu Phaolô rao giảng và
họ đă lắng tai nghe. Họ đă để cho Phaolô
nói một đoạn dài mà chắc hẳn họ cũng
cảm thấy hấp dẫn v́ nó lạ tai, và không có ǵ
ngược với triết lư của họ. Nhưng khi
ngài nói về việc Đức Kitô sống lại th́
họ bỏ đi không thèm nghe nữa, v́ điều đó
đi ngược hẳn lại quan niệm triết lư
của họ: họ vốn xác tín rằng thân xác là tù
ngục của linh hồn, nên chết là giải thoát cho
linh hồn, th́ thân xác sống lại để làm ǵ?
Sự sống lại đối với người Do Thái
là việc dễ hiểu, dễ chấp nhận, nhưng
đối với người Hy Lạp là chuyện khó
hiểu và rất khó chấp nhận. Họ cần
phải được chuẩn bị để thay đổi
quan niệm cũ trước khi nghe sự thật khó
chấp nhận ấy.
3. Cần phải chuẩn bị người nghe
a) Chuẩn bị tiệm tiến
Trong những lần
gặp gỡ đầu, thiết tưởng thánh Phaolô
chưa nên đề cập đến những vấn
đề căn bản của Kitô giáo mà do sự khác
biệt về văn hóa, người Hy Lạp chưa
thể chấp nhận được. Trước khi
đề cập đến những vấn đề khó
chấp nhận ấy, cần phải chuẩn bị cho
họ để họ đón nhận dễ dàng hơn, có
thể phải mất một thời gian khá lâu. Đâu
phải người Hy Lạp không thể đón nhận ư
tưởng người chết sống lại. Họ
không đón nhận chỉ v́ lúc đó họ chưa
được chuẩn bị tư tưởng
để đón nhận. V́ như chúng ta thấy hiện
nay, đa số người Hy Lạp đă trở thành
Kitô hữu, nghĩa là họ đă
chấp nhận và tin điều ấy.
Trong nghệ thuật
đắc nhân tâm, các nhà viết sách đều khuyên ta nên
làm cho người nghe gật đầu đồng ư
với ta ngay từ đầu, và phải khôn khéo làm cho
họ tiếp tục gật đầu cho tới khi
họ hoàn toàn đồng ư với ta. Phải đi từ những
điều dễ đồng ư nhất, rồi từ
từ chuyển đến những điều khó
đồng ư hơn, cứ thế cho đến những
điều khó đồng ư nhất, không nên có sự
đột ngột thiếu chuẩn bị. Việc phúc âm
hóa đ̣i hỏi kết quả lâu dài và vững bền,
không phải là việc có thể làm gấp rút thiếu
chuẩn bị. Bao lâu người nghe c̣n đồng ư
với ta th́ ta c̣n cơ hội để rao giảng cho
họ. Nếu họ bất đồng ư với ta từ
ban đầu, họ sẽ không thèm nghe ta nữa, và ta không
thể tiếp tục rao giảng cho họ: như thế
là ta đă đánh mất họ ngay từ đầu.
Thật ra, người
ta có thể chấp nhận những điều khó
chấp nhận nhất, miễn là họ được
chuẩn bị một cách tiệm tiến và có
phương pháp. Rất nhiều trường hợp
người ta không chấp nhận được là do
sự khác biệt về văn hóa. Chẳng hạn
nhiều người Kitô hữu khi nghe nói tới chuyện
ngày tốt ngày xấu, hay thuyết luân hồi... là gạt
đi ngay, không chấp nhận được. Cũng
như nhiều người Phật tử nghe nói tới
h́nh phạt hỏa ngục đời đời (6)
hay chuyện đền tội thay cho người khác th́
cho ngay là chuyện phi lư không thể chấp nhận và không
thèm nghe tiếp. Nhưng có biết bao người mới
đầu không chấp nhận được một
điều ǵ đó, thế mà về sau lại cảm
thấy điều không thể chấp nhận ấy
cũng có lư để rồi cuối cùng chấp nhận.
b) Thích ứng hai chiều
Nếu có điểm nào
trong sứ điệp mà người nghe chưa thể
chấp nhận được, th́ ta chưa nên nói tới
điểm đó vội. Nhưng ta nên dành một thời
gian để chuẩn bị cho họ đón nhận
điểm đó dễ dàng hơn. Không nên đốt giai
đoạn: «Dục tốc
bất đạt». Nghĩa là khi không thể thích
ứùng cách diễn tả sứ điệp với
người nghe, th́ ta phải t́m cách giúp người nghe
thích ứng với cách diễn tả sứ điệp
ấy. Sự thích ứng cần phải được
hiểu theo hai chiều như thế mới thích đáng:
vừa thích ứng cách diễn tả sứ điệp
với người nghe, vừa giúp người nghe thích
ứng với cách diễn tả sứ điệp.
Điều quan trọng là làm sao cho sứ điệp Kitô
giáo được đón nhận một cách vui vẻ,
tự nguyện, do người nghe giác ngộ
được chân lư, chứ không phải chấp nhận
một cách miễn cưỡng, chấp nhận mà chưa
thấy được sự khả tín của nó.
4. Văn hóa đa dạng của các dân tộc
Do những điều
kiện chính trị, kinh tế, xă hội, sinh thái... khác
nhau, mỗi dân tộc có một nề nếp sinh sống
riêng biệt, với những phong tục tập quán, năo
trạng, quan niệm về sự vật, lề lối
tư tưởng khác biệt nhau. Những yếu tố
khác nhau ấy tạo nên những nền văn hóa khác nhau,
khiến mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng.
Chẳng hạn, tuy Việt Nam và Căm-pu-chia là hai
nước ráp ranh nhau, nhưng văn hóa của hai dân
tộc khác hẳn nhau: ngôn ngữ, phong tục, tập quán,
y phục, đồ ăn uống, kiến trúc nhà cửa,
nghệ thuật... đều khác nhau. Có những
điều rất dễ hiểu, dễ chấp nhận
nơi dân tộc này, lại là những điều rất
khó hiểu và khó chấp nhận nơi dân tộc kia. Quan
niệm và lề lối suy tư giữa hai nền văn
hóa có thể khác biệt đến độ «bên này dăy núi Pyrénée là chân lư th́ bên
kia là sai lầm» (7).
Chẳng hạn,
những thế kỷ trước, đang khi tại châu
Âu người ta cho rằng tự tử dưới
bất cứ h́nh thức nào đều không nên, thậm chí
là một tội nặng tương đương
với giết người, th́ tại Nhật Bản,
việc tự tử để tự đền tội
ḿnh – hay «samurai» – trong
những trường hợp phạm lỗi nặng là
một điều đáng khuyến khích, biểu lộ
nhân cách và ḷng tự trọng của ḿnh. Ai không dám tự
xử trong những trường hợp đó th́ bị coi
là hèn nhát, đáng khinh. Hay hiện nay, đang khi tại
một vài vùng ở Á châu, việc ăn thịt chó hay mèo
cũng tương tự như ăn thịt bất
cứ thú vật nào khác, th́ tại các nước Âu Mỹ
đó là một điều ghê tởm không thể chấp
nhận được, thậm chí có nơi có thể
bị đưa ra ṭa án và bị kết án tù mấy tháng.
V́ thế, một người tới loan báo Tin Mừng
tại một vùng nào, không thể cứ hành xử theo quan
niệm văn hóa của dân tộc ḿnh mà được
người khác đồng ư và nể phục.
Do đó, khi rao giảng
một sứ điệp tôn giáo cho một dân tộc, ta
phải lưu tâm và thích nghi với những khác biệt
về văn hóa của dân tộc ấy, đồng
thời thay đổi cách thức diễn tả sứ
điệp tôn giáo sao cho phù hợp với năo trạng,
lề lối suy tư cũng như quan niệm của
từng dân tộc, nghĩa là phù hợp với những
yếu tố văn hóa của dân tộc ấy, th́
người nghe dễ chấp nhận sứ điệp
ta rao giảng.
5. Để làm người khác biến
đổi...
Muốn biến
đổi ngoại cảnh, phải biến đổi
ḿnh trước
Sứ điệp Kitô
giáo chỉ có một và luôn luôn phải giữ nguyên vẹn,
không được biến đổi, nhưng cách
diễn tả hay tŕnh bày sứ điệp ấy phải
thay đổi tùy theo điều kiện văn hóa, xă
hội, kinh tế, chính trị... của đối
tượng phúc âm hóa. Nhờ sự thích ứng ấy
người nghe mới lănh hội được sứ
điệp ta muốn tŕnh bày, đồng thời mới
chịu thay đổi đời sống, cách quan niệm,
suy nghĩ, nói năng và hành động của họ.
Như vậy, chính ta phải thay đổi để thích
ứng với đối tượng trước, sau
đó đối tượng mới có thể thay
đổi như ḷng ta mong ước.
Trong quá tŕnh biến
đổi và làm chủ thiên nhiên, trước tiên con
người t́m hiểu luật của thiên nhiên, sau đó
tuân theo luật đó, nghĩa là phải thích ứng với
thiên nhiên, và càng thích ứng với thiên nhiên, con người
càng có khả năng biến đổi và làm chủ thiên
nhiên. Không ai có thể làm cho thiên nhiên tuân theo ư ḿnh
trước khi chính ḿnh tuân theo luật của thiên nhiên
đă. Cũng như một người muốn
điều khiển một chiếc xe gắn máy,
trước tiên bản thân anh ta phải thích ứng
với chiếc xe, nghĩa là phải tuân hành nghiêm túc
những thể lệ hay qui luật của chiếc xe
đó. Nếu không như thế, anh sẽ không bao giờ
điều khiển được chiếc xe.
Đó chỉ là một
vài minh họa khá què quặt (8) để nói
lên rằng muốn phúc âm hóa một nền văn hóa mà không
đếm xỉa đến những qui luật, những
đ̣i hỏi của nền văn hóa ấy, chỉ
muốn áp đặt những ǵ ḿnh muốn trên đó, th́
việc phúc âm hóa ấy sẽ không bao giờ thành công.
MẦU NHIỆM NHẬP THỂ VÀ
HỘI NHẬP VĂN HÓA
Thuật ngữ hội
nhập văn hóa (Inculturation) là một thuật
ngữ rất mới, chỉ được dùng trong các
văn kiện chính thức của Giáo Hội từ năm
1974. Ư nghĩa hiện hành của từ ngữ này bắt
nguồn từ Mầu nhiệm Nhập Thể: Ngôi Lời
nhập thể thành người, để Lời của
Thiên Chúa nhập thể vào ngôn ngữ loài người,
được chuyển dịch hay diễn tả bằng
ngôn ngữ của con người, qua Đức Giêsu Kitô.
1. Lời Thiên Chúa nhập thể thành lời con
người
a) Lời vô hạn trở thành lời hữu
hạn
Điều chúng ta
cần phải lưu ư và đào sâu là Thiên Chúa th́ vô hạn,
lời của Thiên Chúa cũng siêu việt và vô hạn, nên
khi nhập thể vào ngôn ngữ rất hạn chế
của con người, th́ Lời của Thiên Chúa
được diễn tả qua ngôn ngữ loài
người nơi Đức Giêsu Kitô đă trở thành
hữu hạn để thích ứng với tŕnh độ
hữu hạn của con người. Do đó, có một
sự bất b́nh đẳng hay bất tương
xứng giữa Lời Vô
Hạn của Thiên Chúa và lời
hữu hạn của con người mà Đức Giêsu
dùng để mặc khải cho nhân loại về Thiên
Chúa. Lời Vô Hạn của Thiên Chúa - hay Ngôi Lời - th́
tuyệt đối, siêu việt không gian, thời gian,
vượt khỏi khả năng lănh hội của con
người và khả năng diễn đạt của
ngôn ngữ con người. Nhưng lời của
Đức Giêsu Kitô – được diễn tả bằng
ngôn ngữ hạn hẹp của con người – th́ không
thể c̣n đầy đủ tính chất như Lời
Vô Hạn của Thiên Chúa nữa. Thực tại vô hạn
mà lại được diễn tả bằng ngôn ngữ
hữu hạn của con người th́ sẽ bị ngôn
ngữ ấy biến thành hữu hạn, v́ nếu không th́
cái hữu hạn làm sao chứa được cái vô
hạn? Tuyệt đối hóa và vô hạn hóa ngôn ngữ
của con người mà Đức Giêsu dùng để
diễn tả về Thiên Chúa vô hạn th́ quả có ǵ
đó không hợp lư, không ổn.
b) Để thích ứng với sự hữu
hạn của con người
Lời vô hạn và
tuyệt đối ấy khi nhập thể thành lời
của con người th́ trở nên hữu hạn và
tương đối, bị hạn chế trong không gian và
thời gian, trong khả năng lănh hội rất hạn
chế của con người. V́ nếu lời nói mà cao
siêu quá th́ con người sẽ không hiểu nổi. Chính
Đức Giêsu cũng nói: «Thầy
c̣n nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây
giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần
Khí Sự Thật đến, Người sẽ dẫn (chứ
không phải nói) anh em tới
Sự Thật toàn vẹn» (Ga 16,12-13). Sự Thật toàn
vẹn chắc chắn không thể dùng ngôn ngữ con
người mà nói hết được: «Đạo khả đạo phi Thường
Đạo» (9). Nghĩa là chân lư mà diễn
tả được thành lời th́ không c̣n là Chân Lư
Bất Biến nữa. Chỉ những ai được
Thần Khí Sự Thật soi dẫn mới có thể
hiểu được Sự Thật Toàn Vẹn.
2. Vài minh họa về việc nhập thể
(=trở nên hữu hạn)
a) Nhà bác học
Lời của Thiên Chúa
nhập thể vào lời của con người phần
nào giống như một nhà bác học nọ, khi ông ta
ở trong pḥng thí nghiệm của ông với đầy
đủ mọi máy móc tân kỳ, mọi chất liệu
thượng hảo hạng, th́ ông có thể chế
tạo ra bất cứ chất nào có trên trần gian này.
Nhưng khi ông đến chơi nhà một người
học tṛ có một pḥng thí nghiệm đơn sơ nghèo
nàn, th́ tại đó, ông chỉ có thể chế tạo
được một số chất nào đó thôi, với
một độ tinh khiết cũng rất giới
hạn. Tài năng của ông vẫn y nguyên, nhưng
điều kiện có thay đổi, nên kết quả
cũng thay đổi. Khả năng chế tạo
của ông tại nhà người học tṛ bị giới
hạn v́ bị lệ thuộc vào những điều
kiện quá hạn chế.
Cũng vậy, Lời
nguyên thủy của Thiên Chúa th́ vô hạn, viên măn, nhưng
khi nhập thể vào ngôn ngữ nghèo nàn của loài
người th́ không thể vẫn vô hạn và viên măn y
như Lời nguyên thủy được.
b) Việc viết sách
Tương tự
như vậy, khi tôi viết tập sách này, tôi phải
diễn đạt ư tưởng của tôi thành lời,
nhưng tôi cảm thấy ḿnh không thể diễn
đạt được hoàn toàn trung thực và hết ư
của ḿnh, phần v́ khả năng diễn đạt
của tôi c̣n yếu kém, phần v́ chính tiếng Việt
cũng có giới hạn của nó. V́ thế, điều
tôi viết ra không thể là trọn vẹn hay viên măn ư
tưởng mà tôi có về vấn đề này. Có những
điều tôi muốn người đọc phải
tự hiểu, hiểu xa hơn điều tôi viết ra.
Nếu tôi phải tŕnh bày đề tài này cho các em học
giáo lư rước lễ lần đầu, vốn chưa
có ư niệm rơ rệt về vấn đề này, th́ ư
tưởng của tôi tŕnh bày ra c̣n bị giới hạn
nhiều hơn nữa, v́ khả năng lănh hội c̣n ít
ỏi của các em. Tôi có diễn đạt tài t́nh cách
mấy, th́ bài tŕnh bày cho các em không thể đầy
đủ bằng bài tŕnh bày cho người lớn, và các
em có nghe bài được tŕnh bày cho người lớn
th́ cũng sẽ không hiểu được bằng
người lớn...
c) Người cha truyền đạt sự khôn
ngoan cho con
Tương tự
như vậy, trí khôn con người quá hạn hẹp, nên
Thiên Chúa không thể mặc khải cho con người
tất cả những chân lư vô biên của Ngài. Ngài chỉ
có thể mặc khải một phần rất nhỏ
những ǵ có thể mặc khải được về
Ngài, phù hợp với khả năng lănh hội rất
nhỏ bé của con người. Có muốn mặc khải
nhiều hơn thế cũng vô ích. Cũng như một
người cha khôn ngoan, ông không thể truyền thụ
hết sự khôn ngoan của ḿnh cho một đứa con c̣n
nhỏ. Sự truyền thụ mà người cha có thể
làm được chỉ là một phần rất nhỏ
sự khôn ngoan của ḿnh. Ông phải chờ nó lớn lên,
rồi mới truyền thụ tiếp.
Cũng vậy, mặc
khải của Đức Giêsu Kitô về Thiên Chúa không
thể là tất cả những ǵ có thể nói
được về Thiên Chúa. Vậy, chúng ta đừng
cho là tuyệt đối những ǵ c̣n tương
đối, đừng cho là viên măn những ǵ c̣n thiếu
sót.
3. Lời phổ quát thành lời cá biệt
a) Ngôi Lời chỉ dùng một ngôn ngữ cá
biệt
Khi nhập thể thành
lời của con người, Lời của Thiên Chúa c̣n
bị nhiều hạn chế khác nữa. Nhân loại có
hàng trăm thứ tiếng khác nhau, không có tiếng nào chung
cho tất cả thế giới. V́ thế, để
nhập thể vào ngôn ngữ loài người, Thiên Chúa
phải chọn một ngôn ngữ đặc thù nào đó
để Lời Ngài nhập thể vào. Và Ngôi Lời
đă nhập thể vào dân tộc Do Thái, với ngôn
ngữ Do Thái, trong nền văn hóa Araméen.
Tiếng Do Thái chưa
hẳn đă là ngôn ngữ thích hợp nhất hay tốt
nhất để qua đó Ngài tự mặc khải cho con
người. Cách lựa chọn của Ngài không giống
như cách của con người: Ngài chọn người
hay điều mà Ngài muốn, v́ t́nh thương, theo sự
tự do của Ngài, không v́ người đó tài
đức hay điều ấy có ǵ đặc biệt...
Cũng vậy, văn hóa Araméen không hẳn đă là văn
hóa hay nhất, thích hợp nhất để diễn
tả sứ điệp của Ngài.
Hội nhập văn
hóa là làm cho sứ điệp của Chúa Kitô tái nhập
thể vào các nền văn hóa cá biệt của các dân
tộc để sứ điệp ấy trở thành
phổ quát, đến được với tất cả
mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.
b) Sứ điệp Đức Kitô cần mặc
những bộ áo ngôn ngữ và văn hóa khác nhau
Lời của Thiên Chúa
tuy chỉ nhập thể vào dân tộc Do Thái, với
tiếng Do Thái, trong văn hóa Araméen, nhưng Lời đó
không phải chỉ nói với dân tộc Do Thái hay những
người thuộc văn hóa Araméen, mà nói với tất
cả mọi dân tộc, thuộc mọi nền văn hóa
trên thế giới. V́ thế, để rao truyền
sứ điệp ấy cho mọi người trong
mọi dân tộc, sứ điệp ấy phải
được dịch từ tiếng Do Thái sang tất
cả mọi thứ tiếng, nghĩa là sứ
điệp ấy phải mặc rất nhiều bộ áo ngôn ngữ khác nhau để phù
hợp với mọi dân tộc, th́ mọi người
mới hiểu được.
Ta thấy bộ Tân
Ước của chúng ta khởi đầu đă gồm
nhiều thứ tiếng khác nhau, nhưng chủ yếu là
tiếng Hy Lạp. Sau đó, Lời Chúa được
chuyển dịch thành nhiều ngôn ngữ khác nhau: khởi
đầu là những ngôn ngữ vùng Trung Đông, sau là
tiếng La-tinh, và hiện nay hầu như đă
được dịch sang tất cả những ngôn
ngữ hiện có trên thế giới, kể cả
những ngôn ngữ của những dân tộc thiểu
số (10).
Tương tự
như thế, sứ điệp Đức Kitô phải
mặc lấy những bộ
áo văn hóa khác nhau để được rao
truyền một cách thích hợp cho tất cả mọi
người, chứ không thể giữ nguyên bộ áo văn hóa nguyên thủy,
hay giữ cố định và duy nhất một bộ áo
văn hóa nào.
c) Đó là nhiệm vụ của các Giáo Hội
địa phương
Việc mặc cho
sứ điệp ấy những bộ áo văn hóa khác
nhau, với những cách diễn tả khác nhau để
thích ứng với mọi dân tộc, mọi người
trên thế giới, không phải là phận vụ của
Đức Kitô nữa, mà là phận vụ của Giáo
Hội khi loan báo Tin Mừng, nhất là của các Giáo
Hội địa phương, và của những Kitô
hữu loan báo Tin Mừng. Việc mặc cho sứ
điệp Đức Kitô những bộ áo ngôn ngữ và
văn hóa thích hợp với từng dân tộc, chính là hội
nhập văn hóa, tức là làm cho sứ điệp
Đức Kitô nhập thể vào các nền văn hóa
của mọi dân tộc, hầu biến đổi và thánh
hóa các nền văn hóa ấy.
4. Nhập thể chính là: Thiên Chúa vô hạn biến
thành con người hữu hạn
Đức Giêsu - vốn là Thiên Chúa Tuyệt đối, vô
hạn, ngang hàng với Thiên Chúa (11) - đă nhập thể để trở
thành tương đối, hữu hạn, thành xác thịt
yếu đuối như mọi người. Cũng
vậy, sứ điệp của Đức Giêsu Kitô - vốn là Lời của Thiên Chúa, là Chân Lư
Tuyệt Đối, Vô Hạn - đă
nhập thể thành chân lư tương đối, hữu
hạn, bị hạn chế bởi ngôn ngữ của con
người. Trong việc nhập thể, Thiên Chúa trở
thành con người, vô h́nh trở nên hữu h́nh, vô hạn
thành hữu hạn. Cũng vậy, khi Lời của Thiên
Chúa nhập thể thành ngôn ngữ của con người,
th́ Chân Lư vốn không lời, không thể diễn tả
được trở thành có lời và được
diễn tả, Chân Lư vốn phổ quát trở thành cá
biệt, Chân Lư vốn duy nhất bất biến trở
thành nhiều cách diễn tả khác nhau để thích
ứng với những hoàn cảnh khác nhau của con
người.
Diễn tả Chân Lư
phổ quát và duy nhất ấy thành nhiều định
thức diễn tả khác nhau phù hợp với từng
nền văn hóa của các dân tộc, chính là hội
nhập văn hóa. Đương nhiên định thức
diễn tả nào cũng đều tương
đối, bị giới hạn, khiếm khuyết... và
chúng ta phải chấp nhận những hạn chế
đó.
a) Nếu Ngôi Lời nhập thể ở Việt
Nam...
Như vậy, việc
hội nhập văn hóa vừa bắt nguồn từ
Mầu Nhiệm Nhập Thể, vừa tiếp nối công
việc Nhập Thể của Ngôi Lời trong thời gian,
vào các nền văn hóa khác nhau của nhân loại. Nói cách
khác, hội nhập văn hóa là làm cho sứ điệp
phổ quát của Đức Giêsu Kitô được
nhập thể vào trong các môi trường văn hóa khác
nhau, được diễn tả thành những
định thức cá biệt phù hợp với những
điều kiện văn hóa, tư tưởng của
từng dân tộc trong từng thời đại.
Để cụ thể
hóa cho dễ hiểu, chúng ta thử đặt vấn
đề là nếu Đức Kitô nhập thể thành
một người Việt Nam vào thời đại tân
tiến ngày nay, th́ Ngài sẽ được đặt tên
là ǵ, Ngài sẽ nói tiếng ǵ, Ngài sẽ tŕnh bày sứ
điệp của Ngài như thế nào, Giáo Hội của
Ngài sẽ phát triển thế nào?... Chắc chắn Ngài
sẽ tŕnh bày cũng một
sứ điệp ấy, nhưng cách tŕnh bày của Ngài
sẽ khác. Cách trước đây, phù hợp với
người Do Thái cách đây hai ngàn năm, có thể sẽ
không thích hợp lắm với người Việt Nam
thời đại này.
Nhưng trong thực
tế Ngài chỉ nhập thể có một lần duy
nhất là người Do Thái, vào thế kỷ thứ
nhất chứ không nhập thể nhiều lần trong
những dân tộc hay nền văn hóa khác. V́ thế, Giáo
Hội có nhiệm vụ chuyển dịch cách tŕnh bày
sứ điệp của Ngài trước đây thành
những cách tŕnh bày khác phù hợp với từng dân
tộc, từng nền văn hóa, miễn sao nội dung sứ điệp
vẫn chỉ là một, không thay đổi. Đó là
hội nhập văn hóa.
b) Nếu thần học truyền thống do
người Việt Nam...
Và giả sử thứ
hai là nếu sứ điệp của Ngài được
các giáo phụ là những người Việt Nam suy tư,
khai triển và diễn tả trực tiếp cho
người Việt Nam, th́ các giáo phụ ấy sẽ dùng
triết lư nào làm dụng cụ để khai triển và
suy tư? Chắc chắn không thể dùng triết lư Hy
Lạp hay kinh viện Tây Phương, mà phải dùng
triết lư Á Đông.
Nhưng nếu như
thế th́:
– Nền thần
học của Giáo Hội lúc đó sẽ thế nào? Có
giống như nền thần học truyền thống
được khai triển trong nền văn hóa Tây Phương
như hiện nay không?
– Nếu đem
thần học được khai triển trong nền
văn hóa Việt Nam sang tŕnh bày cho người Âu Châu th́
người Âu Châu có hiểu được dễ dàng và
chấp nhận nó không? Phản ứùng của
người Âu Châu lúc đó thế nào?
– Lúc đó có nên áp
đặt triết lư của Việt Nam lên mọi Kitô
hữu thuộc tất cả các nền văn hóa,
để bắt buộc mọi Kitô hữu muốn
hiểu được sứ điệp Đức Giêsu
Kitô th́ phải học triết lư Việt Nam như một
điều kiện tất yếu để hiểu
được sứ điệp ấy?
Trả lời cho
những câu hỏi này sẽ giúp chúng ta nhận ra
đường hướng ḿnh phải làm trong việc
hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo tại
Việt Nam, cũng như tại các quốc gia khác.
c) Lời của Thiên Chúa cần phải nhập
thể nhiều lần và tại nhiều nơi khác nhau
Khi nhập thể là
người, Thiên Chúa trở thành Đức Giêsu Kitô, Ngài
bị hạn chế rất nhiều. Nếu đă là
người Do Thái, Ngài không thể cùng một lúc là người
Việt Nam hay Trung Hoa được. Nếu đă dùng ngôn
ngữ Do Thái để diễn tả Chân Lư bằng
những yếu tố văn hóa cá biệt của Do Thái,
th́ không thể cùng một lúc diễn tả Chân Lư ấy
bằng một ngôn ngữ cá biệt khác, với những
yếu tố văn hóa cá biệt của ngôn ngữ ấy
được.
Để cứu
chuộc nhân loại, Thiên Chúa chỉ cần nhập
thể làm người một lần là đủ nơi
Đức Giêsu Kitô, là người Do Thái, cách đây 20
thế kỷ. Ngài không cần phải nhập thể
nhiều lần để thành người của
những dân tộc khác. Nhưng để Chân Lư mà Ngài
đă mặc khải đến được với
mọi người, nếu Chân Lư ấy chỉ nhập
thể duy nhất có một lần, nghĩa là chỉ
được diễn tả bằng tiếng Do Thái,
với những yếu tố văn hóa Do Thái, th́ không đủ,
mà cần phải nhập thể vào trong tất cả
mọi ngôn ngữ, mọi nền văn hóa của nhân
loại.
Đó chính là sứ
mạng của Giáo Hội, của mọi Kitô hữu.
Đó chính là phúc âm hóa. V́ thế, bản chất của phúc
âm hóa chính là hội nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào
các dân tộc. Do đó, phúc âm hóa mà không hội nhập
văn hóa, không làm cho sứ điệp Đức Kitô
nhập thể vào mọi t́nh huống cụ thể
của con người th́ chưa phải là phúc âm hóa
đúng nghĩa.
GIÚP NGƯỜI NGHE HIỂU BẰNG
CHÍNH NGÔN NGỮ CỦA HỌ, THEO VĂN HÓA CỦA HỌ
1. Dẫn người khác đi thẳng đến
Thiên Chúa
a) Không cần phải qua trung gian
Phúc âm hóa có hội
nhập văn hóa là làm cho người nghe hiểu
được sứ điệp của Đức Kitô
bằng ngôn ngữ của họ, bằng những quan
niệm, phạm trù, biểu tượng trong truyền
thống văn hóa của dân tộc họ. Bắt họ
phải chấp nhận những yếu tố văn hóa
ngoại lai mới có thể hiểu được sứ
điệp của Thiên Chúa là phản hội nhập
văn hóa.
Người ta có thể
trực tiếp đến gặp gỡ Đức Kitô,
hay đi thẳng đến Thiên Chúa ngay từ nền
văn hóa của dân tộc họ, không cần phải qua
trung gian một nền văn hóa xa lạ nào khác. Cũng
như: nếu có ai nhờ ta chỉ đường
tới một nơi nào đó, ta nên chỉ cho họ con
đường gần nhất, dễ đi nhất,
hợp với phương tiện của họ nhất, đi thẳng từ chỗ
của họ đến nơi đó. Chứ ta không nên
chỉ cho họ tới nhà của ta đă, rồi mới
từ nhà ta tới nơi đó. Con đường
đến với Thiên Chúa cũng thế, phải trực
tiếp đi từ vị trí của mỗi người,
không nên bắt họ phải gián tiếp đi qua vị
trí của người thứ ba.
b) Tại châu Á, sứ điệp Kitô giáo
được diễn tả và
khai triển bằng triết lư Tây Phương
Khi loan báo Tin Mừng cho
Âu Châu, sứ điệp Kitô giáo đă được
diễn tả, khai triển bằng những yếu tố
văn hóa Âu Tây, bằng hệ thống triết lư Hy
Lạp là triết lư của chính họ. Tương tự
như vậy, đúng ra khi phúc âm hóa Á châu, sứ
điệp đó cũng phải được diễn
tả và khai triển bằng những yếu tố văn
hóa Á châu, bằng hệ thống triết lư Đông
Phương vốn đă thâm nhập vào mọi lănh vực
đời sống của người Á châu.
Thế nhưng khi Kitô
giáo truyền vào Á châu, các thừa sai Âu Châu dường
như đă không nghĩ đến hệ thống
triết lư ấy trong việc diễn đạt và khai triển
sứ điệp Kitô giáo cho người Á châu. Hệ
thống triết lư dùng làm nền tảng cho công việc ấy
là triết lư của người Tây Phương, có vẻ
xa lạ đối với người Đông
Phương. V́ thế, thời trước, muốn
hiểu sâu và đào sâu sứ điệp Kitô giáo,
người Á châu phải học thần học, mà
muốn học thần học th́ phải nắm vững
triết lư Tây Phương mới có thể học được,
v́ thần học dùng những ư niệm triết học Tây
Phương để diễn tả. Điều đó cho
tới ngày nay vẫn c̣n rơ nét trong chương tŕnh đào
tạo các linh mục, tu sĩ tại các chủng viện,
các trường thần học ở Á châu: phải học
mấy năm triết Tây - nói
chính xác hơn, triết học Kinh Viện - mới có thể bước vào thần
học!
2. Giáo Hội có lư khi làm điều ấy
a) Chỉ Tây Phương mới có triết học
Đương nhiên Giáo
Hội làm như vậy không phải là phi lư. Chỉ cách
đây 50 năm, quan niệm chung của người Tây
Phương và những người chịu ảnh hưởng
tư tưởng Tây Phương là: chỉ Tây
Phương mới có triết học, và chỉ triết
học Tây Phương mới có giá trị hay mới
xứng đáng là triết học.
Nói chung, người Tây
Phương có một ưu điểm rất lớn là
luôn luôn hệ thống hóa, phân tích và tổng hợp mọi
vấn đề, t́m cách diễn tả mạch lạc rơ
ràng tất cả những ǵ có thể diễn tả
được, thậm chí cả những sự không
thể xác định rơ ràng chính xác được (12).
Ngay từ xưa, đă có những nỗ lực hệ
thống hóa các tư tưởng triết lư của các
trường phái tư tưởng để làm thành
bộ môn triết học. V́ thế, đối với các
thừa sai, chỉ có triết học Tây Phương là
triết học duy nhất có thể dùng để khai
triển và diễn tả sứ điệp Chúa Kitô.
b) Triết học Tây Phương được
Kitô giáo rửa tội và thuần hóa
Triết học Tây
Phương được dùng để khai triển
sứ điệp Kitô giáo là một triết học
được các giáo phụ cũng như các nhà thần
học Tây Phương tinh luyện để trở nên
một dụng cụ phù hợp với sứ điệp
Kitô giáo. Như vậy, sự phát triển của Kitô giáo
ở Tây Phương cũng giúp cho triết học Tây
Phương phát triển. Thật vậy, tại châu Âu,
không phải chỉ Kitô giáo chịu ảnh hưởng
văn hóa Tây Phương, mà ngược lại, văn hóa
Tây Phương cũng chịu ảnh hưởng tốt
đẹp của Kitô giáo rất nhiều. Đó chính là khía
cạnh tích cực của hội nhập văn hóa. Kitô
giáo phát triển khắp Âu Châu, và các nhà thần học
đă dùng triết lư Tây Phương như một dụng
cụ hữu hiệu để diễn tả sứ
điệp của ḿnh. Do đó, các nhà thần học
đă có công rất nhiều trong bồi đắp cho
nền triết học này ngày càng vững chắc, có cơ
sở và hệ thống hơn.
c) Đông Phương không có triết học
C̣n người Đông
Phương không có khuynh hướng hệ thống hóa
như thế. Từ xa xưa, đă có biết bao nhà tư
tưởng lớn ảnh hưởng trên tư
tưởng của người Đông Phương,
nhưng tại Đông Phương, không có những nỗ
lực hệ thống hóa và tŕnh bày lại những tư
tưởng ấy theo hệ thống để trở
thành một bộ môn triết học như bên Tây
Phương. Măi về sau, khi người Đông
Phương tiếp xúc với văn hóa Tây Phương,
họ mới bắt đầu có những nỗ lực
hệ thống hóa các tư tưởng của tiền
nhân. Và triết học Đông Phương mới dần
dần h́nh thành, nhưng cho tới nay vẫn chưa có
hệ thống bằng triết học Tây Phương.
Trước đây, không
phải là phi lư khi có nhiều học giả Tây
Phương cho rằng Đông Phương chỉ có triết lư chứ không có triết học, cho dù
triết lư của Đông Phương rất thâm thúy, cao
sâu. Thật vậy, tới giữa thế kỷ 20, khi
thấy triết học Tây Phương đi vào bế
tắc, nhiều triết gia bắt đầu
hướng sự nghiên cứu của ḿnh vào triết lư
Đông Phương. Lúc đó, họ mới nhận ra
Đông Phương cũng có những nền minh triết
rất tuyệt vời, và có nhiều triết gia Tây
Phương đă say mê những nền minh triết
ấy.
V́ thế, chúng ta không
thể trách cứ các nhà lănh đạo Giáo Hội hay các
thừa sai trước đây đă không biết dùng
triết lư Đông Phương để diễn tả sứ
điệp Kitô giáo cho người Đông Phương.
Việc diễn tả sứ điệp Kitô giáo theo cung
cách văn hóa của từng dân tộc mới chỉ
được ư thức và nhấn mạnh đặc
biệt trở lại sau khi nh́n lại một quá tŕnh phúc
âm hóa tại các đại lục khác với Âu Châu
để rút ra ưu và khuyết điểm.
3. Ngày nay, mỗi dân tộc phải tự diễn
tả sứ điệp Kitô giáo theo cung cách văn hóa của
ḿnh
Nhưng hiện nay chúng
ta đang ở một thời điểm khác với các
thừa sai ngày xưa.
- Một mặt, các dân tộc
bị trị thời thực dân ngày xưa vùng dậy và
tự giải phóng, ư thức dân tộc và tự trị
rất mạnh. V́ thế, họ không dễ dàng chấp
nhận những h́nh thức nô lệ hay áp đặt
như trước, trong lănh vực chính trị, kinh tế,
xă hội cũng như văn hóa. Trong thần học,
người ta không c̣n dễ dàng chấp nhận hiểu
hay diễn tả sứ điệp Chúa Kitô theo thần
học truyền thống vốn được xây
dựng trên nền tảng văn hóa Tây Phương.
Họ đ̣i hỏi phải có một nền thần
học thích hợp để suy tư và diễn tả
sứ điệp Kitô giáo theo cung cách văn hóa của dân
tộc họ.
- Mặt khác, triết học kinh
viện cùng với triết học Tây Phương xưa
không c̣n phù hợp với con người thời
đại, thêm vào đó, triết học Đông Phương
càng ngày càng được hiểu biết và đánh giá cao
hơn.
V́ thế, chúng ta cần
phải suy tư, t́m cách diễn tả đức tin hay
sứ điệp Kitô giáo theo cung cách văn hóa của dân
tộc chúng ta. Do đó, chúng ta cần phải yêu mến
nền văn hóa của ḿnh đồng thời học
hỏi về văn hóa ấy, biết được
những nét đặc biệt của nền văn hóa
ḿnh, để diễn tả đức tin cho phù hợp.
a) Phải yêu mến nền văn hóa của ḿnh
Văn hóa của một
dân tộc là tinh hoa của dân tộc ấy, kết tinh
từ điều kiện sống, phong cách sống,
triết lư sống, nếp suy nghĩ, sự khôn ngoan...
của dân tộc ấy. Dân tộc nào cũng đều
tự hào về nền văn hóa của ḿnh, và có tự hào
như vậy dân tộc ấy mới tiến bộ,
mới dám ngẩng mặt lên giữa các dân tộc khác.
Chẳng hạn người Việt Nam thường
tự hào về 4.000 năm văn hiến của dân
tộc ḿnh.
Trong việc phúc âm hóa,
để hội nhập văn hóa một cách dễ dàng và
tốt đẹp, chúng ta cần phải yêu mến dân
tộc ḿnh, đồng bào ḿnh, đồng thời yêu
cả nền văn hóa của ḿnh nữa. Có yêu nền
văn hóa của ḿnh, có tự hào về nó, ta mới có
hứng khởi và cảm thấy dễ dàng t́m những
lối diễn tả phù hợp với nền văn hóa
ấy. Không yêu mến nền văn hóa của ḿnh, hay có
mặc cảm tự ty về nền văn hóa ấy, ta
sẽ cảm thấy ngượng ngập, e dè khi phải
diễn tả theo cung cách của nền văn hóa ấy.
Có yêu mến nền văn hóa của ḿnh, ta mới có
nhiều động lực để t́m hiểu, đào
sâu và biết rơ nền văn hóa ấy.
b) Cần nắm vững triết lư Đông
Phương
Nếu người Tây
Phương đă dùng triết học Tây Phương
để diễn tả sứ điệp Kitô giáo, th́ theo
tinh thần hội nhập văn hóa, người Đông
Phương cũng cần phải dùng triết học
Đông Phương để diễn tả sứ
điệp ấy. Trước đây, để học
thần học truyền thống, các chủng sinh hay tu sĩ
phải học hai ba năm triết Tây th́ mới có thể
có dụng cụ để đi vào nền thần học
truyền thống. Ngày nay, muốn suy tư, khai triển,
diễn tả đức tin của ḿnh trong truyền
thống văn hóa dân tộc, chúng ta cũng cần phải
nắm vững những ǵ liên quan đến văn hóa Á
Đông, chẳng hạn triết Đông, vũ trụ quan,
nhân sinh quan và nhận thức luận của Á Đông,
cần phải thấm nhuần triết Đông, th́
dần dần chúng ta mới có thể có những cách
diễn tả đức tin phù hợp với phong cách
của dân tộc được.
Ngày xưa, triết
học Tây Phương được hệ thống hóa,
được đào sâu và phát triển qua bao thế
hệ cũng v́ nó được hữu dụng trong Kitô
giáo, được dùng làm dụng cụ để
diễn tả đứùc tin. Cũng vậy, nếu chúng
ta quyết tâm dùng triết lư Đông Phương để
diễn tả đức tin, th́ dần dần triết lư
ấy cũng sẽ được xây đắp, hệ
thống hóa để trở thành một dụng cụ
tốt cho đức tin Kitô giáo. Và đó là một cơ
hội rất tốt để chúng ta phúc âm hóa triết lư
Đông Phương, và qua đó phúc âm hóa nền văn hóa
Đông Phương.
c) Khả năng của Triết Đông
Triết lư Đông
Phương chắc chắn chẳng kém cạnh ǵ
triết lư Tây Phương nếu không muốn nói nó có
nhiều khả năng hơn. Ngày nay, người Âu Châu
càng ngày càng khám phá ra giá trị thâm thúy của triết
Đông, của Kinh Dịch, và càng có nhiều triết gia
t́m học. Kinh Dịch là một triết lư sống của
nhiều dân tộc ở Á châu. Có lẽ trên thế giới
này không có một thứ triết lư nào ảnh hưởng
vừa sâu vừa rộng trong sinh hoạt của dân chúng
như Kinh Dịch. Thật vậy, tại châu Á từ
xưa tới nay, mọi lănh vực của đời
sống đều áp dụng ít nhiều triết lư Kinh
Dịch? Các loại khoa học (Đạo học, binh pháp,
y học, bốc phệ, địa lư, thiên văn...),
nghệ thuật (cầm, kỳ, thi, họa, vũ,
nhạc...), cho tới việc ăn uống, giữ ǵn
sức khỏe... đều chịu ảnh hưởng
của triết lư Kinh Dịch. Triết lư ấy là một
triết lư động.
d) Triết Đông là một triết lư động
Chính Công Đồng
Vatican II cũng chủ trương: «Từ một quan niệm tĩnh về vũ
trụ, nhân loại đă bước sang một quan
niệm động và tiến hóa hơn» (13).
Quan niệm của triết lư Hy Lạp Tây Phương là
một quan niệm tĩnh, c̣n quan niệm của triết
lư Đông Phương là một quan niệm động.
Nhiều triết gia Tây Phương hiện đại,
nhiều nhà thần học Kitô giáo Tây Phương đă
đả kích triết lư Hy Lạp mà Tây Phương đă
dùng làm nền tảng cho ṭa nhà triết học và thần
học của ḿnh. Chẳng hạn nhà thần học
Charles Duquoc, trong cuốn L’homme
Jésus, Christologie I, essai dogmatique có viết: «... các giáo phụ, v́ thừa
hưởng nền văn hóa triết học của
thời đại bấy giờ... đă sử dụng
một dụng cụ mà ngày nay đă trở thành vô giá
trị» (14).
e) Triết Đông phù
hợp với các tôn giáo Đông Phương
Nếu phải dùng
triết lư để suy tư
về Thiên Chúa, để khai triển những mặc
khải của Thiên Chúa, th́ chắc chắn giữa hai
nền triết lư Đông và Tây, triết
lư của Đông Phương phù hợp với công việc
ấy hơn triết lư Tây Phương. Theo linh mục
Aloysius Pieris (15) -
một thần học gia Á châu thuộc Ḍng Tên - th́ triết lư Tây Phương phát xuất
từ triết lư Hy Lạp, vốn được dùng làm
dụng cụ để khai triển tôn giáo của
người Hy Lạp (thờ thần Zeus), là tôn giáo mà cha
xếp vào loại tôn giáo vũ
trụ (cosmic) (16). Trước Kitô giáo,
ở Tây Phương không có một tôn giáo nào thuộc
tầm cỡ siêu vũ trụ cả, nên không có một
triết lư nào phù hợp với một tôn giáo thuộc tầm
cỡ siêu vũ trụ (metacosmic)
như Kitô giáo cả. V́ thế, để hội nhập
văn hóa, các giáo phụ Latinh và Hy Lạp đă «rửa tội» và tinh luyện
triết lư này để trở thành một công cụ khai
triển Kitô giáo, v́ không có một thứ triết lư nào khác
tốt hơn. C̣n triết lư Đông Phương, vốn là
những công cụ của các tôn giáo siêu vũ trụ
tại châu Á như Lăo giáo, Phật giáo... nên dẫu sao nó
vẫn có nhiều khả năng và phù hợp hơn với
loại tôn giáo cao cấp này.
CẦN PHÂN BIỆT NỘI DUNG SỨ
ĐIỆP VỚI CÁCH THỨC DIỄN TẢ SỨ
ĐIỆP
Để hội
nhập văn hóa, cần phân biệt nội dung sứ
điệp mà ḿnh muốn rao giảng với cách thức
ḿnh dùng để diễn tả nội dung ấy. Không phân
biệt được đâu là nội dung đâu là h́nh
thức, cái nào cốt tủy cái nào phụ thuộc, ta
sẽ không biết cái nào thay đổi được, cái
nào phải giữ lại, ta sẽ bắt người khác
phải chấp nhận những điều không cần
thiết và không phù hợp với họ. Và có khi chính v́
những phụ thuộc không thích hợp đó mà
người ta không thể chấp nhận được
nội dung chính yếu của sứ điệp ta muốn
rao giảng.
Điều đó
tương tự như khi ta muốn bán một món hàng mà
ai cũng cần hoặc thích, nhưng lại đựng
trong một bao b́ mà không mấy người thích, khiến
họ cứ nh́n vào bao b́ là cảm thấy không thích hay không
muốn mua món hàng ấy. Sở dĩ ta không phân biệt
giữa món hàng và bao b́, coi hai yếu tố ấy là bất
khả phân ly, là một tổng thể duy nhất, có
thể v́ ta đă bán được món hàng đó «chạy như tôm tươi»
ở một vùng khác vốn ưa thích loại bao b́ đó.
Sự phối
hợp giữa sứ điệp Kitô giáo và văn hóa hay
triết lư Tây Phương
Thật vậy,
những ǵ chúng ta đang rao giảng hiện nay, là một
tổng thể được phối hợp chặt
chẽ bởi hai yếu tố: sứ điệp của
Đức Kitô (cốt tủy) và triết lư Tây
Phương (phương tiện dùng để diễn
tả sứ điệp ấy). Công cuộc phúc âm hóa
của chúng ta tại châu Âu đă thành công với tổng
thể đó, và chúng ta đă coi tổng thể đó là «nguyên chất» sứ
điệp Đức Kitô. Khi phúc âm hóa Á châu, chúng ta đă
đưa chính tổng thể đó ra và giới thiệu
đó là sứ điệp Đức Kitô, làm như đó
là sứ điệp thuần túy của Ngài. Thế là
người Á châu v́ không quen với cách diễn tả
đầy tính Tây Phương ấy nên đă không thấy
sứ điệp ấy phù hợp với ḿnh, và không
nhận ra sứ điệp ấy rất cần thiết
cho hiện hữu của ḿnh.
Để phúc âm hóa cho có
hiệu quả, chúng ta cần xác định rơ điều
chúng ta muốn rao giảng là sứ điệp của
Đức Kitô chứ không phải là một triết lư hay
một nền văn hóa nào mà ta dùng để khai triển
hay diễn tả sứ điệp ấy. Việc hội
nhập văn hóa đ̣i hỏi ta phải phân biệt rơ
ràng cốt tủy và phụ thuộc, mục đích và
phương tiện, để nếu cần th́ sẵn
sàng thay đổi những ǵ tùy phụ hay những ǵ là
phương tiện, để làm nổi bật những
ǵ là cốt tủy, là mục đích. Cái ǵ tùy thuộc
cần phải thay thế bằng cái khác thích hợp
hơn th́ nên bỏ không thương tiếc. Cái ǵ là
cốt tủy không thể thay đổi được
th́ phải giữ lại với bất cứ giá nào.
Đừng để cho cái tùy phụ giết chết cái
cốt tủy, hay để cho phương tiện làm lu
mờ mục đích.
Sự kết hợp
ấy không phải là bất khả phân ly
Người bán hàng kia
sẽ thật là khờ dại nếu nghĩ rằng món
hàng kia cứ phải đi đôi với cái bao b́ ấy
mới được, bất chấp sở thích của
khách hàng. Kết quả sẽ là: chỉ v́ cái bao b́ ấy
mà hàng bị ế. Vấn đề cần phải
đặt ra trong trường hợp này là sự kết
hợp giữa sứ điệp Kitô giáo và triết lư Hy
Lạp hay văn hóa Tây Phương có phải là một
cuộc kết hôn bất khả phân ly hay không. Tại sao
người Á châu nào muốn đào sâu sứ điệp
ấy lại cứ phải học triết lư Tây
Phương, chứ không phải là triết lư của ḿnh,
như vẫn thấy trong tất cả các trường
thần học ở Á châu, Công giáo cũng như Tin Lành? Có
phải sứ điệp Kitô giáo chỉ có thể diễn
tả bằng triết lư Hy Lạp, hơn là bằng
triết lư Á châu?
Không phải thế!
Trước Công Đồng Vatican II, có thể Giáo Hội
đă không đặt nặng ư thức hội nhập
văn hóa. Nhưng qua Công Đồng Vatican II ta thấy ư
thức hội nhập văn hóa của Giáo Hội rất
mạnh và rơ nét. Chúng ta cũng cần t́m hiểu chủ trương
hội nhập văn hóa của Giáo Hội qua Công
Đồng Vatican II và các văn kiện khác của Giáo
Hội.
Phần chú thích
(1) Tức
3 chức năng: làm chủ, làm lễ và làm chứng.
Làm chủ: làm chủ bản
thân (lư trí, t́nh cảm, cảm xúc, bản năng, các dục
vọng, các khuynh hướng…), làm chủ tập thể
(gia đ́nh, xă hội, Giáo Hội), làm chủ ngoại
cảnh (thiên nhiên, môi trường).
Làm lễ: dâng bản thân, dâng
ư riêng, dâng mọi công việc của đời
thường lên Thiên Chúa như một lễ vật, cùng
với Chúa Giêsu, để thờ phượng Thiên Chúa và
để thánh hóa bản thân và mọi công việc của
ḿnh.
Làm chứng: làm chứng cho Thiên
Chúa, cho Chúa Giêsu-Kitô, cho chân lư (luôn luôn thành thật, nói
sự thật), cho công lư (sống công b́nh và đ̣i hỏi
công b́nh trong xă hội, chống bất công áp bức), giúp mọi
người nên tốt lành thánh thiện hơn, để
xây dựng một thế giới tốt đẹp
hơn.
(2) Mt 28,19-20.
(3) «Tùy cơ ứng biến»: tùy từng
trường hợp mà biến đổi cách tương
ứùng; «tùy duyên hóa độ»: tùy theo hoàn cảnh, t́nh
huống, tŕnh độ và khuynh hướng riêng của
mỗi người mà thay đổi cách giáo hóa cho phù
hợp với từng người.
(4) Theo công thức P = UI (P = công suất, U =
hiệu thế, I = cường độ) ̃ I = P/U.
(5) Những con khủng long là những
động vật to lớn và mạnh mẽ nhất,
nhưng lại không tồn tại và phát triển
được ṇi giống của ḿnh một cách lâu dài, c̣n
những con kỳ nhông nhỏ bé và yếu ớt lại
tồn tại qua thời gian. V́ khủng long đă không
thích ứng được với môi trường chung
quanh (thời tiết, sinh thái, thực phẩm…), c̣n kỳ
nhông tự biến đổi ḿnh phù hợp với môi
trường, với điều kiện sinh sống
của ḿnh.
(6) Theo quan niệm của đạo
Phật, ngoại trừ Chân Như Phật tính là cái duy
nhất thường hằng bất biến, th́ tất
cả mọi sự đều là vô thường, không có ǵ
tồn tại vĩnh viễn. Vả lại, không có
một tội nào – dù to tát đến đâu – do con
người hữu hạn gây nên mà lại mang tính vô
hạn đến nỗi phải chịu một h́nh
phạt vô hạn cả.
(7) Ngạn ngữ Pháp.
(8) Sở dĩ nói què quặt là v́ phúc âm hóa
không phải là một chiến thuật để chinh
phục hay làm chủ người khác, mà để cảm
hóa ḷng người, giúp người khác nhận chân
được chân lư đức tin. Nhưng để
được như vậy, việc thích ứng với
quan niệm của họ cũng rất cần thiết.
(9) LĂO TỬ, Đạo Đức Kinh,
chương 1, câu 1.
(10) Trong Giáo Hội Tin
Lành, có nhiều nỗ lực dịch Tân Ước sang
nhiều thứ tiếng, dù là tiếng của những dân
tộc ít người.
(11) Xem Pl 2,6.
(12) Chẳng hạn
một số điều cụ thể và chi tiết
về Thiên Chúa, về những thực tại siêu h́nh, v.v…
(13) CÔNG ĐỒNG
VATICAN II, Gaudium et Spes, 5§3.
(14) Bản dịch
Giêsu, Người Nazarét, dịch giả vô danh, cuốn II,
trang 290, đoạn 2.
(15) Xem trong ALOYSIUS
PIERIS, The Theology of Liberation in Asia, bản dịch của
TRẦN DUY NHIÊN, Thần học Giải phóng Á Châu, Tủ
Sách Đại Kết, UBĐKCG, TP. Hồ Chí Minh 1988.
(16) Các tôn
giáo vũ trụ (cosmic religions): là những tôn giáo thần
thánh hóa những sức mạnh của vũ trụ,
như các hiện tượng thiên nhiên. Thứ tôn giáo này
thấp kém hơn các tôn giáo siêu vũ trụ (metacosmic
religions), loại tôn giáo sau có khả năng giải
quyết những khát vọng sâu xa siêu không gian, siêu thời
gian của con người, như Kitô giáo, Phật giáo, Lăo
giáo…
NGUYỄN
CHÍNH KẾT