CHỦ
TRƯƠNG CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II
VỀ HỘI NHẬP VĂN HÓA
NGUYỄN
CHÍNH KẾT
Rao giảng Tin Mừng
phù hợp với văn hóa người nghe
Giáo Hội đến
với mọi dân tộc
Cần sử dụng
các yếu tố văn hóa địa phương
Trước hết, Công
Đồng ư thức rằng «Giáo
Hội được sai đến với mọi dân tộc, thuộc mọi nơi, và mọi thời» của nhân
loại (1) chứ không chỉ đến
với một số dân tộc cá biệt nào. Sứ
mạng của Giáo Hội là loan truyền cho muôn dân sứ
điệp cứu độ của Chúa Kitô. Nhưng khi
loan truyền sứ điệp đó cho muôn dân, Giáo Hội
- cũng như Chúa Kitô - phải «nói
theo văn hóa riêng của từng thời đại»,(2)
và của từng dân tộc.
V́ thế, «giữa sứ điệp
cứu độ và văn hóa nhân loại có nhiều
mối liên hệ» (3). Sứ điệp
cứu độ không thể được rao giảng
độc lập với văn hóa, mà mỗi dân tộc có
một nền văn hóa riêng, nên Giáo Hội cần phải
«sử dụng những
yếu tố của các
nền văn hóa khác nhau để
phổ biến và giải thích cho muôn dân sứ điệp
Chúa Kitô trong khi rao giảng, để t́m ṭi và thấu hiểu sâu xa hơn, để diễn tả sứ điệp ấy cách tốt
đẹp hơn» (4).
Sứ điệp Kitô
giáo không bị ràng buộc với bất kỳ nền
văn hóa nào
Khi phải sử
dụng những yếu tố văn hóa khác nhau ấy
để diễn tả sứ điệp, Giáo Hội
chủ trương không để ḿnh «bị ràng buộc một cách độc quyền và
bất khả phân ly với
một chủng tộc hay quốc gia, với một
lối sống đặc thù hay một tập tục
cũ mới nào» (5). Do đó, Giáo Hội không thể chấp nhận
để cho ḿnh bị lệ thuộc quá đáng vào
một nền triết lư hay văn hóa nào trong việc
diễn tả và khai triển sứ điệp cứu
độ. V́ thế, việc sử dụng triết lư Á
châu thay thế triết học Hy Lạp để diễn
tả sứ điệp Kitô giáo cho người Á châu,
để họ suy tư thần học theo cung cách văn
hóa của ḿnh là điều phù hợp với chủ
trương của Giáo Hội.
Đó là luật lệ
cho việc phúc âm hóa
Và điều đó không
phải là việc muốn làm th́ làm, không làm cũng
được, mà là việc phải làm như một
luật lệ của việc phúc âm hóa. Thật vậy,
Công Đồng xác định rơ: «Ngay từ buổi đầu của lịch sử
ḿnh, Giáo Hội đă ra sức diễn tả sứ
điệp Chúa Kitô bằng những ư niệm và ngôn ngữ của nhiều dân tộc. Hơn nữa, Giáo Hội c̣n
cố gắng dùng sự khôn ngoan của các triết gia
để làm sáng tỏ sứ điệp ấy, với
mục đích thích nghi Phúc
Âm trong mức độ có thể với tầm hiểu biết của mọi
người, cũng như với những đ̣i hỏi
của các nhà hiền triết. Rao giảng lời mặc
khải như vậy phải
là luật lệ cho mọi công cuộc phúc âm hóa. Bởi v́ có như vậy
mới khơi dậy được trong mỗi quốc
gia khả năng diễn
tả sứ điệp theo lối riêng của ḿnh, đồng thời mới cổ vơ
được sự trao
đổi linh động giữa
Giáo Hội và những
nền văn hóa khác nhau của
các dân tộc» (6).
Nhiều cách diễn
tả khác nhau
Không chỉ có duy
nhất một cách diễn tả
Như vậy, Giáo
Hội không hề chủ trương thống nhất
việc diễn tả sứ điệp cứu độ
theo một định thức duy nhất, mà để cho
mỗi dân tộc hay quốc gia được diễn
tả sứ điệp theo cách thức riêng biệt, phù
hợp với bối cảnh văn hóa, tôn giáo, lịch
sử... của ḿnh. Nghĩa là tuy chỉ có một sứ
điệp duy nhất của Đức Kitô, một
đức tin duy nhất truyền lại từ các Tông
Đồ, nhưng có thể có nhiều cách diễn tả,
khai triển khác nhau.
Bối cảnh văn
hóa, tôn giáo, lịch sử, chính trị, kinh tế, xă
hội của mỗi dân tộc mỗi khác khiến cho
mỗi dân tộc có một vị thế khác nhau để
nh́n về Thiên Chúa, về ơn cứu độ, về mặc
khải Chúa Kitô, về sứ điệp và đức tin
Kitô giáo, nên mỗi dân tộc đều có một cái nh́n
khác nhau về những thực tại tôn giáo ấy. V́
thế, các định thức thần học về
đức tin, về sứ điệp Chúa Kitô nơi các
dân tộc có thể rất khác biệt nhau. Nhưng khác
biệt không có nghĩa là hễ cái này đúng th́ cái kia
phải sai. Trái lại, Công Đồng nh́n nhận: «Những định thức
thần học khác nhau ấy phải được
coi là bổ túc cho nhau
hơn là đối lập nhau» (7).
Như thế, Giáo
Hội hiện nay không c̣n chủ trương khắt khe
như thời Trung Cổ, v́ đă chấp nhận sự
khác biệt trong cách diễn tả đức tin. Giáo Hội
không c̣n kết án những người có cách tuyên xưng
đức tin hay cách giải thích mặc khải Chúa Kitô
theo một cung cách văn hóa khác với cách tuyên xưng hay
cách giải thích truyền thống nữa. V́ cách diễn
tả đức tin truyền thống chỉ là một
cách đặc thù đặc biệt thích hợp với
nền văn hóa Tây Phương, chứ không phải là cách
diễn tả chung cho toàn thể Giáo Hội.
Kho tàng đức tin và
phương cách diễn đạt
Ngày nay, Giáo Hội không
những không kết án cách diễn tả đức tin theo
cung cách văn hóa khác với cung cách truyền thống - sau Công Đồng, Giáo Hội chưa
kết án bất cứ một định thức đức
tin nào - mà c̣n khuyến
khích các nhà thần học đưa ra những định
thức mới phù hợp với văn hóa và năo trạng
của dân tộc ḿnh. Công Đồng nói: «Các nhà thần học được
mời gọi luôn t́m kiếm những phương thức thích ứng hơn
để truyền thông giáo lư cho người đương
thời: v́ một đằng là kho tàng đức tin
và các chân lư, một đằng là phương thức diễn đạt kho tàng đó, miễn sao giữ
vững ư nghĩa và nội dung» (8).
Như vậy, Giáo
Hội đă phân biệt rơ ràng giữa kho tàng đức
tin gồm các chân lư bất biến với các phương
thức diễn đạt có thể rất khác nhau của
những chân lư ấy. Nghĩa là phân biệt giữa món hàng
và bao b́ đựng món hàng ấy, như đă nói ở trên.
Món hàng phải giữ nguyên chất lượng, c̣n bao b́
hay mẫu mă th́ tùy nghi thay đổi để đáp
ứng theo thị hiếu của khách hàng.
Cần suy tư thần
học theo cung cách văn hóa của ḿnh
Nhiều nền thần
học khác nhau
Để hội
nhập văn hóa một cách sâu sát với thực tế
hơn, Giáo Hội chủ trương: «Trong những vùng rộng lớn cùng chung một
nền văn hóa, cần
phải thúc đẩy việc suy tư thần học... để nhờ
đường lối hành động đó, đời
sống Kitô giáo sẽ được thích nghi với tinh thần và đặc tính của
từng nền văn hóa,
những truyền thống đặc thù và những
đặc tính riêng của từng dân tộc» (9).
Thời trước,
Giáo Hội chỉ có một nền thần học duy
nhất, thần học này chỉ phù hợp với năo
trạng và văn hóa Tây Phương; ngày nay Giáo Hội
chủ trương phải có nhiều nền thần
học khác nhau để đáp ứng những yếu
tố văn hóa đặc thù khác nhau của mỗi dân
tộc trên thế giới.
Ngày xưa, «quán ăn» của Giáo Hội
đa số thực khách chỉ là người Tây
Phương, nên quán ăn đó chỉ có những «món ăn» Tây mà người Tây
Phương rất khoái khẩu. Nhưng thực khách càng
ngày càng đông và không phải chỉ có những
người Tây Phương, mà người Đông Phương,
Phi châu... đến quán ăn ngày càng nhiều, những món
ăn Tây không thích hợp với họ. Để phục
vụ khách hữu hiệu hơn, quán ăn đă bắt
đầu chủ trương phải có đủ
loại món ăn thích hợp với sở thích và khẩu
vị của từng loại người. Có như
vậy, quán ăn mới càng ngày càng đông, và chủ
trương phục vụ toàn thể khách hàng không phân
biệt mầu da chủng tộc của quán mới
thực hiện được cách tốt đẹp.
Điều quan trọng
để phục vụ khách hàng đâu phải là món ăn
Tây hay Tàu, mà là món ăn phải ngon, bổ dưỡng, tinh
khiết, đồng thời có khả năng thay
đổi để thích ứng với vô số thị
hiếu khác nhau của khách hàng. Nếu không biết thích
ứng với thị hiếu của khách, cứ cố
chấp vào một món ăn duy nhất, chắc chắn quán
ăn không thể đông khách được.
Cần đổi
mới để thích nghi
Cũng vậy, nếu
Giáo Hội không muốn thích ứng với với nhu
cầu tâm linh của từng dân tộc trong từng
thời đại, Giáo Hội sẽ trở thành già
cỗi và cằn cỗi v́ thiếu sức sống. V́
dấu hiệu của già cỗi là không c̣n khả năng
thích ứng. Theo định luật tự nhiên, cằn
cỗi th́ sẽ bị đào thải. V́ thế, Giáo
Hội không nên để cho ḿnh bị cằn cỗi. Giáo
Hội cần thích nghi với thời đại và thế
giới, chứ không phải muốn thế giới thích
nghi với ḿnh.
Để như
thế, Giáo Hội nên sẵn sàng cởi bỏ những
quan niệm nào đă lỗi thời của ḿnh trong quá
khứ, để mặc lấy những quan niệm
mới phù hợp với thời đại hơn.
Nhiều quan niệm cũ của Giáo Hội chỉ là
những định thức cá biệt của chân lư
bất biến, có thể chỉ thích hợp với
thế giới Tây Phương thời trước, không
phù hợp với thế giới toàn cầu ngày nay. Chính
Công Đồng đă nh́n nhận: «Các định chế, luật pháp, những lối suy
tư và cảm nghĩ của người xưa truyền
lại, không phải lúc nào cũng phù hợp với t́nh
thế hiện tại» (10). Nếu cứ
cố chấp với những quan niệm cũ ấy,
chắc chắn trong Giáo Hội sẽ «có những xáo
trộn trầm trọng
trong phương thức và trong cả các tiêu chuẩn hành
động» (11).
Giáo Hội sẵn sàng
thay đổi
Từ quan niệm
tĩnh sang quan niệm động
Rơ ràng qua Công Đồng
Vatican II, Giáo Hội nói lên lập trường của ḿnh
là không bảo thủ những quan niệm cũ không c̣n «phù hợp với t́nh thế
hiện tại» nữa. Giáo Hội không những sẵn
sàng thay đổi quan niệm cũ của ḿnh, mà c̣n
sẵn sàng thay đổi cả một hệ thống
triết lư, vũ trụ quan và nhận thức luận
cũ, là nền tảng cho những quan niệm cũ kia,
bất chấp sự thay đổi đó sẽ phát sinh
những vấn đề khó khăn. Triết lư cũ mà
Giáo Hội đă dùng làm nền tảng để xây
dựng nên ṭa nhà thần học truyền thống của
ḿnh có nguồn gốc là triết lư Hy Lạp, với vũ
trụ quan tĩnh và nhận thức luận đơn diện
(12). Giáo Hội nhận ra rằng đă
đến lúc quan niệm tĩnh về vũ trụ
ấy không c̣n thích hợp với một thế giới
đang biến chuyển quá nhanh như hiện nay.
Thật vậy, Công
Đồng xác nhận: «Lịch sử đang tiến bước quá nhanh
đến nỗi từng cá nhân riêng rẽ khó ḷng theo
kịp. Vận mạng cộng đoàn nhân loại trở
thành một mà thôi, không c̣n phân tán thành nhiều ḍng lịch
sử khác nhau nữa. Như vậy, từ một quan niệm tĩnh về vũ
trụ, nhân loại đă
bước sang một quan
niệm động và tiến hóa hơn. Do đó phát sinh ra những vấn
đề phức tạp hết sức mớùi mẻ đ̣i
phải có những phân tích và
tổng hợp mới» (13).
Những khó khăn
mới mẻ phát sinh
Quan niệm động
về vũ trụ đă được Giáo Hội
đánh giá là tiến hóa hơn hệ thống triết
học cũ với quan niệm tĩnh. Giáo Hội đă
nh́n thấy trước những
khó khăn hết sức mới mẻ sẽ phát sinh ra
khi Giáo Hội phải chuyển từ quan niệm tĩnh
về vũ trụ sang quan niệm động. Và những
khó khăn này chỉ có thể giải quyết
được bằng những phân tích và tổng hợp
theo lối mới, tức theo quan niệm động.
Không phải chỉ Giáo
Hội mới phải thay đổi hệ thống
triết học cũ, mà tất cả nhân loại. Và nhân
loại không phải sắp thay
đổi mà đă thay
đổi (14). V́ thế, Giáo Hội không c̣n
chấp vào quan niệm cũ, để có thể thay
đổi cùng với thế giới, để thích
ứng và hội nhập với thế giới mới.
Nhờ đó, Giáo Hội đáp ứng được nhu
cầu trí tuệ và tâm linh của con người thời
đại mới. V́ thế, gột bỏ quan niệm
cũ để mặc lấy quan niệm mới là
một việc làm thức thời và cấp bách của Giáo
Hội, không phải chỉ để hội nhập
văn hóa vào Á châu mà thôi, mà để hội nhập vào
thế giới hiện đại đang thay đổi
hết sức nhanh chóng. Là người nhiệt thành
với Giáo Hội và công cuộc phúc âm hóa, chúng ta không
thể lănh đạm với vấn đề này.
Việc phải làm
Nếu Giáo Hội đă
chủ trương phải chuyển từ quan niệm
tĩnh về vũ trụ sang quan niệm động, th́
việc dùng quan niệm động của hệ thống
triết lư Đông Phương – vốn là quan niệm
động – làm nền tảng cho những suy tư
thần học của ḿnh, đối với các thần
học gia Á châu, không phải chỉ là một việc
được phép làm hay nên làm, mà là một việc phải làm. Ở Trung Hoa hay
Việt Nam, có thể lấy Kinh Dịch, ở Ấn
Độ hay Tây Tạng, có thể lấy kinh Veda... là
những hệ thống triết lư đang ảnh hưởng
sâu rộng vào văn hóa, nghệ thuật, cũng như
tư tưởng của người dân ở đây.
@ V ?
Để hội
nhập văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào ḷng các dân
tộc trên thế giới, Công Đồng đă khuyến
khích các dân tộc phát huy nền thần học địa
phương, để diễn tả và tuyên xưng Đứùc
Tin một cách phù hợp với những yếu tố
lịch sử, tôn giáo, văn hóa, xă hội của dân
tộc ḿnh. Chúng ta hăy t́m hiểu những nỗ lực
hội nhập văn hóa và công việc làm thần học
địa phương nơi các dân tộc trên thế
giới.
Phần chú thích
(1) Công Đồng Vatican II, Gaudium et Spes,
58§3.
(2) Op. cit., 58§1.
(3) Op. cit., 58§1.
(4) Op. cit., 58§2.
(5) Op. cit., 58§3.
(6) Op. cit., 44§2.
(7) Công Đồng Vatican II, HN 17§1.
(8) Công Đồng Vatican II. Gaudium et Spes,
62§2.
(9) Công Đồng Vatican II, TG 22§2.
(10) Công Đồng
Vatican II, Gaudium et Spes, 7§2.
(11) Nt.
(12) Vũ trụ quan
tĩnh: quan niệm thế giới vũ trụ là
một thực tại tĩnh, không biến đổi.
Nhận thức luận đơn diện:
quan niệm mọi thực tại đều chỉ có
một mặt, nên hễ ai nói một vật là trắng mà
đúng, th́ ai nói nó không trắng ắt phải sai.
(13) Op. cit., 5§3.
(14) Triết học
Tây Phương hiện đại không c̣n là một
vũ trụ quan tĩnh và nhận thức luận
đơn diện như xưa. Nó không lấy triết
học Hy Lạp cũ làm nền tảng nữa, mà suy
tư dựa trên những thực tế mới nhất mà
khoa học hiện đại khám phá được. V́
thế, triết học Tây Phương hiện đại
là một vũ trụ quan động và đa diện.
NGUYỄN
CHÍNH KẾT