NỖ LỰC HỘI NHẬP
VĂN HÓA TRÊN THẾ GIỚI
SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II
NGUYỄN CHÍNH
KẾT
Các nền thần học địa
phương
Công Đồng Vatican II bế mạc
năm 1965. Sau đó, các Kitô hữu trong nhiều quốc gia
trên địa cầu bắt đầu hưởng
ứng việc hội nhập sứ điệp Tin
Mừng vào các nền văn hóa của dân tộc ḿnh.
Mạnh nhất là Mỹ Châu La Tinh với Thần học
Giải phóng, rồi tới các dân tộc Da Đen ở
Bắc Mỹ và Phi châu với Thần học Da Đen, và
sau cùng là Á châu. Tại châu Á, Ấn Độ dẫn
đầu, rồi tới Nam Triều Tiên, Đài Loan,
Philippines... Nói chung, các nhà thần học thuộc Thế
Giới Thứ Ba -
thế giới của những dân tộc bị áp bức,
nghèo, kém phát triển - đă
hưởng ứng rất tích cực tinh thần hội
nhập văn hóa của Công Đồng Vatican II.
Không phải chỉ làm thần học trên
giấy bút, các nhà thần học ở Mỹ Châu La Tinh hay
Bắc Mỹ c̣n sát cánh với dân chúng đấu tranh
chống lại những bất công áp bức của
giới cầm quyền và địa chủ cấu
kết với nhau, hoặc chống lại sự kỳ
thị chủng tộc của người Da Trắng. V́
dấn thân triệt để với dân chúng, nhiều nhà
thần học đă phải ra tù vào khám, bị giết,
bị ám sát, chẳng hạn như Tổng Giám Mục Oscar
Roméro, Đức Giám Mục Pedro Casaldaliga (cả hai là
người Brazil) hay Mục Sư Martin Luther King Jr.
(người Mỹ Da Đen)...
Thần học dân tộc của những
nước đó đă trở thành linh hồn cho cuộc
đấu tranh của người nghèo, của giới vô
sản, chống lại bất công, áp bức và bạo
lực, đồng thời đă hướng dẫn
cuộc đấu tranh đó đi vào con đường
công bằng bác ái của Đức Kitô. Tại những
quốc gia bị áp bức trên, sứ điệp
Đức Kitô đă được diễn tả thành
thần học giải phóng để thích ứng với
thực tại đấu tranh của toàn thể dân chúng
chống lại áp bức bất công. Đó chính là hội
nhập văn hóa, làm cho sứ điệp Đức Kitô
nhập thể vào đời sống bị áp bức và vào
cuộc tranh đấu của dân chúng.
Quyết nghị của các Giám Mục Á châu
Đại hội các giám mục Á châu
tại Manila năm 1970
C̣n tại châu Á, để cụ thể hóa
tinh thần hội nhập văn hóa và thích nghi cách phúc âm
hóa nơi các dân tộc, các Giám Mục Á châu - trong đó có Việt Nam - đă họp đại hội tại
Manila (Philippines) các ngày 23-29/11/1970. Đại hội đă
đưa ra quyết nghị
13 với nội dung như sau:
«Chúng tôi hứa sẽ phát huy thần học
địa phương và làm
tất cả những ǵ chúng tôi có thể làm
được để
đời sống và sứ điệp Tin Mừng
được nhập thể hơn bao giờ hết vào các nền văn hóa phong
phú và lâu đời của Á châu» (1).
Các giám mục Á châu họp tại đó
không phải chỉ đưa ra một lời hứa xuông
hay chỉ đưa ra một quyết định rồi
mọi giám mục chỉ việc đồng kư tên, mà c̣n
đưa ra cả một dự án với những qui
định, chủ trương, đường lối,
phương pháp thực hiện, với những
điểm trước mắt cũng như dài hạn.
Chẳng hạn như quyết định thành lập các
văn pḥng liên lạc, các ủy ban nghiên cứu, thăm ḍ,
hội ư, trao đổi, dự thảo kế hoạch,
đồng thời đưa ra một lịch tŕnh cụ
thể và chi tiết qui định sinh hoạt của các
ban ngành chuyên môn, cùng với những thành quả thâu
đạt được từng thời hạn...
Thượng hội đồng giám mục
Á châu tại Rôma 1998
Trong Thượng hội đồng giám
mục Á châu họp tại Rôma từ 19-4 đến
15-5-1998, các giám mục đă bàn về chủ đề phúc
âm hóa trong bối cảnh văn hóa của các dân tộc mà
chủ yếu là vấn đề hội nhập văn
hóa và đối thoại tôn giáo. Các nghị phụ
đều nhận ra rằng cho tới nay, tại châu Á,
Kitô giáo mặc dù xuất phát từ Á châu nhưng vẫn
bị coi là một tôn giáo ngoại lai, của Tây
Phương, v́ cho tới nay, cách sống và tŕnh bày
đức tin Kitô giáo vẫn nặng tính chất văn hóa
Tây Phương, không phù hợp với người Á châu. V́
thế, trong bài diễn văn phiên họp khoáng đại đầu
tiên sáng thứ hai 20-4-1998, Đức Hồng Y Kim (2)
nhấn mạnh: «Tuy luôn luôn
giữ hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội hoàn
cầu, chúng ta phải trở nên Á châu trong cách suy tư,
cách sống, và cách chia sẻ những kinh nghiệm của
chúng ta về Chúa Giêsu».
Thần học Á châu: thần học về
các tôn giáo
Kitô giáo với các tôn giáo
Mọi tôn giáo lớn đều xuất
phát từ Á châu
Phải nói rằng vào thời điểm
ấy tại châu Á, vấn đề hội nhập
văn hóa nổ ra như một trái bom vang khắp Á châu.
Các thần học gia tại các nước Á châu thi đua
làm thần học theo cung cách văn hóa dân tộc ḿnh, phù
hợp với triết lư nền tảng của văn hóa
dân tộc, với nề nếp suy tư, phong cách và
điều kiện sống của dân chúng. Vấn
đề chính của các thần học gia Á châu là phải
đối diện với các tôn giáo khác chung quanh ḿnh, có
đông tín đồ hơn, có nền đạo lư và
triết lư cũng cao siêu, sâu sắc không kém ǵ tôn giáo ḿnh, thậm
chí có nhiều mặt hơn ḿnh. Để hội nhập
văn hóa, các thần học gia phải t́m hiểu các tôn
giáo khác và suy tư nhiều về họ. V́ thế,
thần học Á châu chủ yếu là thần học về các tôn giáo.
Thật vậy, có thể nói rằng Á châu
là một cái nôi phát sinh ra tất cả các tôn giáo lớn
đầy sức sống trên thế giới: Phật giáo,
Ấn giáo, Khổng giáo, Đạo giáo, Hồi giáo,
Thần giáo, và thậm chí cả Kitô giáo nữa (3).
Trong đó, Kitô giáo chỉ giữ một địa vị
khiêm tốn: 100 triệu tín đồ (công giáo 60 triệu,
Tin Lành 30 triệu, và chính Thống 20 triệu), so với dân
số Á châu trên 3 tỉ người th́ 100 triệu đó
chỉ là 3,33%. Các tôn giáo này, suốt 19 thế kỷ qua,
đă bị Kitô giáo coi là tà giáo, là sản phẩm của ma
quỉ, là lầm lạc, tội lỗi, và hư mất (4).
Vấn đề đặt ra
Tại châu Âu, suốt 20 thế kỷ qua,
có thể nói Kitô giáo là tôn giáo lớn duy nhất chiếm
tuyệt đại đa số trong dân chúng. Người
Kitô hữu tại đây không phải đối diện
với những tôn giáo khác, nếu có chỉ là những
người thuộc các giáo phái khác trong Kitô giáo. C̣n tại
châu Á, Kitô giáo chỉ là một thiểu số đôi khi
lạc lơng giữa các tôn giáo khác. Các Kitô hữu phải
thường xuyên tiếp xúc với các tín hữu thuộc
các tôn giáo khác. Các tín hữu này thường cũng có
một đời sống luân lư rất tốt lành,
nhiều trường hợp tốt hơn những
người Kitô hữu b́nh thường.
Suốt mười mấy thế kỷ
hầu như không có sự góp phần giáo hóa của Kitô
giáo, các dân tộc Á châu vẫn có đời sống xă
hội tốt đẹp không kém ǵ Âu Châu được
Kitô hóa. Khả năng giáo hóa của các tôn giáo khác như
Khổng giáo, Lăo giáo, Phật giáo... phải nói là rất cao.
Càng t́m hiểu và đi sâu vào các tôn giáo, người Á châu
càng nhận ra giáo lư của các tôn giáo ấy cũng rất
cao sâu, hợp lư, đến nỗi hễ đă trở
thành tín đồ các tôn giáo ấy th́ người ta khó
trở thành tín đồ Kitô giáo. Khác với tại châu Âu,
ngoài Kitô giáo ra không có tôn giáo nào có giáo lư cao sâu và hợp lư
bằng, nên người các tôn giáo khác dễ trở nên Kitô
hữu. V́ thế, người Á châu không thể dễ dàng
như người Âu Châu chấp nhận lập
trường coi các tôn giáo khác là tà giáo, là sản phẩm
của ma quỉ được. Nếu là sản phẩm
của ma quỉ, các tôn giáo đó đă không thể tạo
nên một xă hội tốt đẹp như xă hội Á
châu trên 20 thế kỷ nay.
Vậy, người Kitô hữu Á châu
phải nh́n các tôn giáo bạn như thế nào? và phải có
thái độ nào đối với các tôn giáo ấy? không
thể đơn thuần như các thần học gia Tây
Phương kết luận Kitô giáo là tôn giáo duy nhất
đúng, duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa, hay ngoài Kitô
giáo không có ơn cứu độ, và các tôn giáo khác
đều là sai lạc cả. Trước thực tế
của các tôn giáo khác, người Kitô hữu Á châu phải
suy tư về họ. V́ thế, thần học Á châu là
thần học về các tôn giáo.
Thánh Thần cũng hoạt động
trong các tôn giáo
Khi nỗ lực t́m hiểu các tôn giáo, các
thần học gia Á châu mới khám phá ra những chân lư cao
sâu, những đời sống cao thượng, những
lối tu tập hữu hiệu để có thể
đạt tới đời sống tâm linh rất cao… (5).
Đó chắc chắn là dấu vết sự hoạt
động của Thiên Chúa, của Thánh Thần Ngài, v́ theo
Kitô giáo, mọi sự tốt đẹp đều phát
xuất từ Thiên Chúa. Như vậy, trước khi Kitô
giáo được truyền vào Á châu, Thiên Chúa và Thánh
Thần Ngài đă hiện diện và hoạt động
trong các nền văn hóa và các tôn giáo Á châu rồi.
Một người Triều tiên tên Younghak
Hyun quả là có lư khi phát biểu: «Chúng tôi không thể tin vào
một Thượng Đế què quặt đến
nỗi phải nhờ các vị thừa sai cơng trên lưng
mới tới được Triều Tiên. Trước khi
các vị thừa sai tới, chắc chắn Thượng
Đế đă hoạt động trong lịch sử của
nước chúng tôi từ bao giờ rồi» (6).
Năm 1950, Công Đồng Miền
đầu tiên của Ấn Độ, qua quyết
nghị 11, đă tuyên xưng: «Chúng tôi nh́n nhận rằng
bên ngoài Kitô giáo vẫn có chân lư và điều tốt, v́ Thiên
Chúa không để cho dân tộc nào phải thiếu
những dấu chứng về Ngài. Bẩm sinh tâm hồn
con người đă được Thiên Chúa duy nhất
chân thật lôi kéo» (7).
Quan niệm rộng răi của Giáo Hội
Lập trường cũ hẹp ḥi trong
Giáo Hội suốt 19 thế kỷ qua đă
được Công Đồng Vatican II sửa lại. Công
Đồng chủ trương: Trong các tôn giáo khác vẫn
có chân lư, có ân sủng, có Thánh Linh hoạt động, có
sự công chính và sự thánh thiện, có ơn cứu
độ. Có thể nói các tôn giáo là những môi
trường cứu độ, những phương
thế Thiên Chúa sắp đặt trước v́ ơn
cứu độ và v́ Giáo Hội, và Thiên Chúa có nhiều
đường lối khác nhau để cứu rỗi
những người ngoài Kitô giáo (8).
Sau Công Đồng Vatican II, năm 1969, các
giám mục Ấn Độ đă mạnh dạn tuyên
bố: «Các tôn giáo khác không phải là những pháo đài mà
chúng ta phải tấn công hay phá hủy. Đó chính là
những nơi Thánh Linh vẫn nương ẩn mà chúng ta
chưa hề tới viếng thăm, đó là những kho
chứa Lời Chúa mà chúng ta đă không thèm biết tới»
(9).
Các tôn giáo khác cũng là những môi
trường cứu độ của Thiên Chúa
Năm 1971, trong cuộc hội thảo
tại Nagpur ở Trung Ấn bàn về «giá trị cứu
độ của những tôn giáo khác», các nhà thần
học Ấn Độ đă nhấn mạnh: «Việc
Thiên Chúa mặc khải và thực hiện chương tŕnh
cứu độ phổ quát đă có trước và có lâu
hơn sự có mặt của Giáo Hội, lâu hơn 4.000
năm lịch sử Do Thái - Kitô
giáo, một lịch sử hạn hẹp, đơn
thuần và giới hạn» (10). Nghĩa là có
thể Giáo Hội chưa thấy được hết,
chưa khai thác hết công tŕnh cứu chuộc của
Đức Kitô qua Thánh Thần Ngài.
Bản văn của cuộc hội
thảo Nagpur viết: «Dưới nhiều h́nh thức và
cách thức khác nhau, mầu nhiệm khôn tả ấy (11)
đang hoạt động trong mọi dân tộc trên
thế giới để đem lại cho sự hiện
hữu và mọi khát vọng của con người một
ư nghĩa tối hậu. Người ta gọi Mầu
Nhiệm này bằng nhiều
tên khác nhau, nhưng không một tên nào có thể diễn
tả chính xác được Mầu Nhiệm ấy… (12).
Những người được cứu độ
sẽ nhận ra ơn cứu
độ của Chúa được thông ban ngay trong
truyền thống tôn giáo của ḿnh. Nên những kinh
điển và nghi thức khác nhau của các truyền
thống tôn giáo trên thế giới có thể là những cách diễn tả khác
nhau với những mức độ khác nhau của cùng một mặc
khải thần linh, và đều
dẫn đến ơn cứu độ. Điều
này không hề làm tổn
hại đến tính cách duy nhất của nhiệm
cục Kitô giáo» (13).
Cách diễn tả chân lư của các tôn giáo
bổ túc cách diễn tả của Kitô giáo
Một số nhà thần học Á châu cho
rằng: có lẽ ư muốn của Thiên Chúa không phải là
đưa mọi dân tộc vào trong đại gia đ́nh
Giáo Hội. Có thể t́nh trạng đa tôn giáo trên thế
giới là ư định của Thiên Chúa trong hiện
tại. C̣n qui tụ mọi tôn giáo lại thành một,
điều đó sẽ xảy ra trong ngày cánh chung.
V́ chính Đức Kitô chứ không phải
Giáo Hội cứu chuộc nhân loại. Giáo Hội chỉ
là t́nh trạng bí tích của Nước Chúa, cho ta thấy
một bộ mặt của Nước Chúa chứ không
phải tất cả Nước Chúa. Giáo lư Kitô giáo chỉ
là một phần rất nhỏ chứ không phải là
tất cả những ǵ có thể nói được
về Thiên Chúa. Các tôn giáo khác cũng có những phần khác
của Chân Lư về Thiên Chúa. V́ thế, các tôn giáo cần lẫn
nhau để vươn tới Mầu Nhiệm Thiên Chúa.
Do đó, các tôn giáo cần phải trao đổi cho nhau
những bằng chứng về nguồn gốc và cứu
cánh đang nuôi sống ḿnh, cũng như những kinh
nghiệm cá biệt của ḿnh về Mầu Nhiệm Thiên
Chúa.
Các tôn giáo cần hội thoại với nhau
Cần loại bỏ mặc cảm tự
tôn
V́ thế, mọi tôn giáo cần phải
hội thoại (14) với nhau. Nhưng không
tôn giáo nào có thể tham dự cuộc hội thoại
nếu ngay từ đầu đă tự hào rằng ḿnh
tuyệt đối chuẩn xác. Cản trở lớn
nhất cho một cuộc hội thoại đích thực
là mặc cảm tự tôn và thái độ lo sợ ḿnh
sẽ đánh mất chân tính hay những nét riêng của
ḿnh. Về phía Kitô giáo, những cản trở đó
trước đây rất lớn, nhưng càng về sau
càng giảm đi rất nhiều do sự t́m hiểu
đúng đắn các tôn giáo khác. Kết quả của các
cuộc hội thoại tương giáo (15)
đă được tổ chức trong nhiều thập
niên qua cho người Kitô hữu thấy: những
người có niềm tin khác có thể giúp chúng ta đào sâu
thêm cách hiểu về Thiên Chúa và về Đức Giêsu Kitô.
Một dịp để phong phú hóa cách nh́n
của ḿnh
V́ thế, không nên coi việc hội
thoại tôn giáo là một cơ hội tốt để
giảng đạo, để phúc âm hóa, để
thuyết phục những người tham dự hội
thoại theo tôn giáo ḿnh. Và nhất là không nên lợi dụng
dịp gặp gỡ này để quảng cáo, tuyên
truyền rằng tôn giáo của ḿnh là tôn giáo số một,
tốt nhất, bảo đảm nhất, duy nhất
về một mặt nào đó. Trái lại, nên coi đây
như một dịp tốt để học hỏi,
để biết thêm những cách hiểu mới, cách nh́n
mới về mầu nhiệm Thiên Chúa, một mầu
nhiệm hết sức phong phú, đa dạng, có nhiều
mặt khác nhau, mà trong đó cách nh́n của ḿnh chỉ
tương ứng với một hay vài mặt. Và cũng
nên coi đây là một dịp tốt để hiểu
được quan điểm của các tôn giáo khác, sự
hợp lư trong quan điểm đó, để cảm thông,
để thắt chặt t́nh thân hữu, đoàn kết
với các tôn giáo khác.
Các tôn giáo soi sáng lẫn nhau về mầu
nhiệm Thiên Chúa
Sau Công Đồng Vatican II, các tôn giáo khác
không c̣n bị coi là công việc của ma quỉ nữa, mà
được xác nhận là môi trường cứu
độ của Thiên Chúa, có Thánh Thần hoạt
động, nên việc theo Kitô giáo không nhất thiết
đ̣i buộc phải từ bỏ tôn giáo cũ của
ḿnh. Điều này cũng được Cha Matteo Ricci - một vị thừa sai vĩ đại
ở Trung Hoa - chủ
trương (16).
Kinh nghiệm của cha M. Amaladoss
V́ thế, tại châu Á, có hiện
tượng mà ngữ vựng của phong trào đại
kết gọi là «Double
appartenance» hay «Biappartenance»
nghĩa là thuộc về cả hai: vừa theo tôn giáo này mà
cũng vừa theo tôn giáo kia. Chẳng hạn trường
hợp của cha Michael Amaladoss, đă từng làm Tổng
Quản Ḍng Tên ở Ấn Độ, vừa là một linh
mục Công giáo, vừa sống như một người
Ấn giáo (17). Cha cho biết, nhờ sống
kinh nghiệm của cả hai tôn giáo, đời sống
tâm linh của cha trở nên phong phú hơn. Và khi đọc
kinh điển phong phú của Ấn giáo, cha nhận
thức được con đường chính thống
của Thánh Thần đang dẫn cha đến với
Chân lư Toàn hảo, cho dẫu Chân lư ấy thường mang
rất nhiều yếu tố nhân loại. Nhờ kinh
điển Ấn giáo, cha hiểu được Thánh Kinh
một cách thâm thúy sâu sắc hơn rất nhiều, và
cũng theo chiều ngược lại nữa. Nghĩa là
hai loại kinh điển ấy bổ túc cho nhau rất
nhiều trong việc giúp cha nhận thức và cảm
nghiệm Thiên Chúa một cách rơ rệt, đầy
đủ hơn.
Dùng kinh điển của các tôn giáo
để diễn tả các chân lư Kitô giáo
Qua kinh nghiệm các thần học gia Á châu,
ta thấy không những có thể dùng văn hóa hay triết
lư Á châu để diễn tả sứ điệp Kitô giáo,
mà c̣n có thể dùng cả kinh điển hay giáo lư của
các tôn giáo Á châu để làm sáng tỏ mặc khải
của Thiên Chúa qua Thánh Kinh nữa. Hội nhập văn
hóa là sẵn sàng dùng tất cả những ǵ mà
người nghe có sẵn trong kiến thức hay kinh
nghiệm của họ để giúp họ hiểu về
Thiên Chúa, để tŕnh bày sứ điệp Kitô giáo cho
họ. Tóm lại, hăy chỉ cho người nghe con
đường đến với Thiên Chúa, đến
với ơn cứu độ, từ lập trường
tôn giáo hiện tại của họ, từ điều
kiện tâm linh và khả năng hiểu biết của
họ.
V
Để hiểu rơ hơn về hội
nhập văn hóa, ta thử t́m hiểu một vài mẫu
hội nhập văn hóa tiêu biểu trong lịch sử
thế giới như:
· Hội nhập
văn hóa của Phật giáo Ấn Độ vào Trung Hoa
(để có đối tượng so sánh với Kitô giáo).
· Hội nhập
văn hóa của Kitô giáo vào Âu Châu.
· Hội nhập
văn hóa của Kitô giáo vào Trung Hoa (qua hai đường
lối khác nhau: một của cha Matteo Ricci, và một
của cha Niccolo Longobardi).
Phần chú thích
(1)
CHỌN, số 4: Đại Hội các Giám Mục
Á Châu, tuyên ngôn và quyết nghị, Các phong trào CGTH Trẻ
Sàig̣n, Giáng Sinhy 1970, Quyết Nghị 13, trang 50.
(2)
Hồng Y KIM SOU-HWAN, Tổng giám mục tại Seoul, là
chủ tịch khóa họp Thượng Hội Đồng
Giám Mục Á Châu.
(3)
Nên nhớ Đức Kitô chính là người Châu Á: Nước Do Thái nằm ở
vùng Tiểu Á.
(4)
Suốt 19 thế kỷ, Giáo Hội quan niệm: «Ngoài
Giáo Hội không có ơn cứu độ», và chỉ có
Kitô giáo mới mở được cánh cửa cứu
rỗi. Lời hứa từ
bỏ ma quỉ và các việc của ma quỉ trong nghi thức
rửa tội bao hàm việc từ bỏ các tôn giáo cũ.
(5)
Trong các tôn giáo khác, có những vị đạo sĩ
sống rất thánh thiện, xả kỷ hy sinh hoàn toàn, có
đời sống thần bí, có khả năng tâm linh
rất cao, có quyền năng chữa bệnh, trừ
quỉ ám, làm phép lạ… Qua
phong cách cao thượng và tư tưởng siêu thoát
của họ, không ai có thể kết luận
được rằng những quyền năng đó phát
xuất từ ma quỉ mà không thể từ Thiên Chúa. Chính Chúa Kitô cũng đả phá
quan niệm cho rằng Ngài dùng quyền năng của
thủ lănh quỉ để trừ quỉ (x. Mt 12,25-30).
(Xem SPALDING).
(6)
Được PREMAN N. NILES trích dẫn trong bài «La
mission chrétienne et les peuples d’Asie», Document
Inter-Églises, Paris, OPM, 1982, trang 19.
(7)
Được BRUNO CHENU trích dẫn trong Théologies chrétiennes des Tiers Mondes,
Le Centurion, Paris 1987 (trang 169).
(8)
X. Nostra Aetate 2, Lumen Gentium 16, Gaudium et Spes 22 của Công Đồng Vatican II, và
tài liệu Trên đường
gặp gỡ các tôn giáo của Văn Pḥng Đặc
Trách những người ngoài Kitô giáo, 1967.
(9)
Được BRUNO CHENU trích dẫn trong Théologies chrétiennes des Tiers Mondes,
Le Centurion, Paris 1987 (trang 169).
(10)
D.S. AMALORPAVADAS, «Traditions
religieuses, développement et libération», trong Théologies du Tiers Monde, Paris, L’Harmattan, 1977, p. 213.
(11)
Tức Thiên Chúa.
(12)
Mầu Nhiệm này, Kitô giáo gọi là Thiên Chúa, Ấn giáo gọi là Brahman, Phật giáo gọi là Chân Như Phật Tính, Lăo giáo gọi là Đạo, Khổng giáo
gọi là Thiên, Hồi giáo
gọi là Đức Allah,
Cao Đài giáo gọi là Ngọc
Hoàng Thượng Đế, v.v… Mỗi tên đi liền với một quan
niệm khác nhau về Mầu Nhiệm ấy.
(13)
Được D.S. AMALORPAVADAS trích dẫn trong bài «Traditions religieuses, développement
et libération», trong Théologies du Tiers
Monde, Paris, L’Harmattan, 1977.
(14)
Hội thoại (hội
là nhiều người, nhiều nhóm tụ lại với
nhau, hội c̣n có nghĩa là
hiểu, cảm thông -- thoại là nói, nói chuyện,
trao đổi): ở đây
có nghĩa là nhiều người trong các tôn giáo gặp nhau
để trao đổi với nhau về vấn
đề niềm tin, kinh nghiệm tâm linh, cảm
nghiệm về mầu nhiệm thần linh, và những
vấn đề tôn giáo.
(15)
Hội thoại
tương giáo (tương là với nhau,
lẫn nhau - giáo là tôn giáo): dùng
thay cho từ ngữ đối
thoại liên tôn trước đây.
(16)
Chủ trương này sẽ được
đề cập đến trong tập sách này. Xem trang 127-128
(17)
Xem M. AMALADOSS, bài «Tôi là ai? - Một người vừa Công giáo
vừa Ấn giáo» trong Christus,
số 86 (1975), tr. 159-171.
NGUYỄN CHÍNH
KẾT