VIỆC HỘI NHẬP VĂN HÓA
CỦA PHẬT GIÁO
VÀO TRUNG HOA
NGUYỄN CHÍNH
KẾT
Phật giáo không phát triển tại Ấn
Độ
Điều đáng ngạc nhiên
Phật giáo phát xuất từ Ấn
Độ, nhưng lại không phát triển ở Ấn
Độ cho bằng tại Trung Hoa. Đó là điều mà
những người chủ trương hội nhập
văn hóa phải ngạc nhiên, v́ c̣n nền văn hóa nào phù
hợp với Phật giáo cho bằng văn hóa Ấn
Độ? Mọi ư niệm của Phật giáo đều
bắt nguồn từ văn hóa Ấn Độ th́
đúng ra Phật giáo phải thích hợp với Ấn
Độ hơn Trung Hoa.
Đối với Trung Hoa, Phật giáo là
một tôn giáo ngoại lai, c̣n đối với Ấn
Độ, Phật giáo là một tôn giáo bản xứ.
Thế nhưng tại Trung Hoa, Phật giáo phát triển
mạnh đôi khi hơn cả Khổng giáo và Đạo
giáo vốn là những tôn giáo bản xứ của Trung Hoa
nữa. C̣n tại Ấn Độ, Phật giáo không
cạnh tranh nổi với Ấn giáo.
Điều đó cho thấy một tôn giáo
phát triển được không hẳn hệ tại tôn
giáo ấy là ngoại lai hay bản xứ. Cũng như
Kitô giáo vốn xuất phát từ Á châu, nhưng lại không
phát triển mạnh tại châu Á cho bằng Âu Châu. Và Kitô
giáo không phát triển được tại châu Á không
hẳn là v́ tôn giáo này do người Tây truyền sang.
Đối với Trung Hoa cũng như đối với
Việt Nam, Phật giáo và Kitô giáo đều là ngoại lai,
đều là từ phía Tây truyền sang, tuy dù cả hai
đều có gốc gác từ Á châu. Vậy tại sao
Phật giáo th́ thành công tại Trung Hoa, c̣n Kitô giáo th́ không?
Sự thiếu thích ứng của Phật
giáo Ấn Độ
Phật giáo Ấn Độ không thay
đổi
Tại Ấn Độ, nơi Phật giáo
phát sinh, tuy Phật giáo gặp được rất
thuận lợi, khởi đầu được rất
nhiều vua chúa ủng hộ, mà Phật giáo lại không
phát triển. Tại Ấn Độ, Phật giáo tồn
tại và phát triển ngay trong nền văn hóa nguyên
thủy của ḿnh, nên không cần phải hội nhập
văn hóa theo chiều ngang, nghĩa là thích ứng giữa
văn hóa vùng này với văn hóa vùng khác. Giữa ḷng
đất mẹ, Phật giáo chỉ cần hội
nhập văn hóa theo chiều dọc, nghĩa là thích
ứng về mặt văn hóa giữa thế hệ
trước và thế hệ sau. Nhưng rất tiếc,
Phật giáo Ấn Độ đă không có được
sự hội nhập văn hóa theo chiều dọc ấy.
Có thể v́ các nhà lănh đạo tôn giáo tại đây đă
không biết thích nghi với hoàn cảnh, với sự
tiến triển của thời thế, của tâm thức
con người, cứ giữ chặt nếp sống
cũ, áp dụng một cách nô lệ những điều
Phật dạy.
Chẳng hạn, ngày xưa Đức
Phật đi khất thực thế nào, ngày nay các tu sĩ
Phật giáo ở Ấn Độ cũng khất thực
y như vậy, cho dẫu hoàn cảnh và thời thế
đă thay đổi khác hẳn ngày xưa. Giáo lư ngày xưa
Đức Phật dạy thế nào th́ nay cũng lại
dạy như vậy, không phát huy thay đổi
điều ǵ để thích ứng với thời
đại mới, với con người mới, do đó,
không đáp ứng được nhu cầu tâm linh luôn luôn đổi
mới của quần chúng. V́ thế, Phật giáo tại
Ấn Độ được gọi là Phật giáo Nguyên
Thủy, nghĩa là nguyên thủy thế nào th́ về sau cũng
vậy.
Đạo Bà-la-môn biết thích ứng
hơn
Thực ra, c̣n có những lư do khác khiến
Phật giáo không phát triển được tại Ấn
Độ. Đó là v́ tại Ấn Độ, đă có
một tôn giáo khác cũng lớn, có tầm cỡ ngang
với Phật giáo, và có trước Phật giáo. Đó là
đạo Bà-la-môn. Đang khi Phật giáo cố gắng
trung thành với giáo lư nguyên thủy, ít thay đổi và
thích ứng, th́ đạo Bà-la-môn thay đổi và canh tân
nhiều hơn để phù hợp với tâm thức
của người thời đại (1).
Tại những nước khác như Tích Lan, Thái Lan,
Miến Điện, Căm Bốt... Phật giáo Nguyên
Thủy vẫn phát triển, v́ không phải cạnh tranh
với một tôn giáo lớn nào khác. Ngoài ra, Phật giáo c̣n
bị Hồi giáo từ Thổ Nhĩ Kỳ sang bách
hại và tiêu diệt (2).
C̣n tại Trung Hoa, tuy dù đă có hai tôn giáo
bản xứ phát triển rất mạnh là Khổng giáo và
Lăo giáo, nhưng Phật giáo vẫn phát triển
được, đôi khi mạnh hơn cả hai tôn giáo
kia. Có thể là v́ Phật giáo tại đây luôn luôn sẵn
sàng thay đổi và trong thực tế đă thay
đổi rất nhiều để phù hợp với
những đặc tính, những nét cá biệt của
người Trung Hoa. Sau đây ta thử xem Phật giáo
đă thích ứng tại Trung Hoa như thế nào.
Phật giáo phát triển tại Trung Hoa
Bối cảnh văn hóa và xă hội (3)
Phật giáo du nhập vào Trung Hoa năm 67
sau công nguyên, đời Hán Minh Đế (4).
Lúc ấy, Đạo giáo đang ảnh hưởng
mạnh, c̣n Khổng giáo đang lúc bị suy vi. Giới trí
thức, nho sĩ bề ngoài có vẻ như bảo tồn
nho học, nhưng bề trong đă bắt đầu say
mê Đạo giáo. Nho học chỉ c̣n là cái vỏ bên ngoài
nặng tính từ chương, không c̣n sinh khí. Đạo
giáo là do triết lư của Lăo Tử và Trang Tử
được tôn giáo hóa, thành một tôn giáo nặng về
ma thuật, thần bí, thích thần thông phép lạ, ưa
những chuyện thần tiên hoang tưởng. Từ quan
đến dân, đa số đều say mê những
chuyện thần thông, pháp thuật.
Khuynh hướng của dân chúng như
thế mà Phật giáo đến rao giảng những
điều thực tế, chân thật th́ ai mà thèm nghe!
Với chủ trương «tùy
duyên hóa độ», Phật giáo luôn luôn phải có giáo pháp
thích hợp cho mọi t́nh huống, mọi căn cơ
của chúng sinh.
V́ thế, để hội nhập vào môi
trường say mê pháp thuật như thế, các nhà
truyền bá đạo Phật đă ḥa ḿnh với họ,
cũng dùng pháp thuật để nói chuyện với
họ, để hấp dẫn họ, để dần
dần đưa họ thoát khỏi năo trạng ấu
trĩ ấy. Các «thừa sai»
Phật giáo đă biết thích ứng cách áp dụng
đạo pháp, cách diễn tả chân lư với dân chúng,
chứ không bắt dân chúng phải thích ứng với
đạo pháp hay cách diễn tả chân lư đă có sẵn
của ḿnh. V́ tuy Chân Lư chỉ có một, nhưng cách
diễn tả và truyền đạt chân lư th́ có tới «bốn vạn tám ngh́n» cách khác
nhau. Phương cách để biểu lộ Chân Lư theo quan
niệm của dân chúng lúc đó và tại đó là pháp
thuật, th́ phương cách tốt nhất khiến
họ tin tưởng rằng ḿnh nắm được
Chân Lư chính là dùng pháp thuật.
«Chiến
thuật» hội nhập
Thế là các «thừa
sai» đạo Phật đă phải cầu cứu
tới ổ thần bí của họ bên Ấn Độ
để đem vào Trung Hoa những kinh điển dạy
về pháp thuật, thần thông. Các nhà hoằng
dương đạo Phật đă phải biểu
diễn thần thông, để chứng tỏ pháp
thuật của Phật giáo cao hơn của Đạo
giáo. Nhờ vậy, dân chúng mới có cơ sở
để đặt niềm tin vào Phật giáo (theo ư
nghĩ đơn sơ của họ) và họ đă theo
Phật giáo rất đông, chắc chắn không phải v́
họ giác ngộ được chân lư thâm sâu vi diệu
của Phật giáo, mà v́ Phật giáo lúc đó thỏa măn
được nhu cầu ấu trĩ của họ.
Khi họ bắt đầu sẵn sàng nghe
ḿnh nói, sẵn sàng làm theo những chỉ dẫn của
ḿnh, hy vọng sẽ đạt được khả
năng về thần thông như ḿnh, th́ các nhà truyền bá
đạo pháp mới bắt đầu giảng chân lư,
đạo pháp đích thực cho họ. Dần dần dân
chúng nhận ra chân lư và thấy những điều mơ
ước về pháp thuật chỉ là mộng ảo, có
đạt được cũng chẳng ích lợi ǵ cho
hạnh phúc đích thực của ḿnh. Việc giác ngộ
rằng pháp thuật không ích lợi ǵ cho hạnh phúc
đích thực của ḿnh có thể phải một
thời gian lâu sau mới đạt được,
thậm chí cả một thế hệ. Nhưng không
thể không có thời kỳ «quá
độ» ấy. Nếu không chấp nhận thời
kỳ «quá độ» kém
trong sáng ấy th́ khó có được thời kỳ
thật trong sáng theo sau.
Phá chấp để thích ứng
Thích ứng như thế quả là «phá chấp», v́ Phật tổ
cũng như tất cả các vị giáo chủ chân chính
khác đều cấm tu luyện pháp thuật. V́ khi con
người chưa giải thoát mà tu thần thông th́ sẽ
dễ sa vào đường tà, phụng sự cho ḷng ích
kỷ của ḿnh. Riêng Phật tổ, ngài cấm rất
ngặt việc tu luyện hay biểu diễn thần
thông. Đương nhiên các nhà hoằng dương
đạo Phật ở Trung Hoa thời đó phải thông
hiểu lệnh cấm đó hơn ai hết.
B́nh thường, biểu diễn thần
thông như thế là không đúng, là có hại. Nhưng trong
trường hợp hoằng pháp này th́ tạm thời biểu diễn và phổ biến
thần thông là đúng, là ích lợi và cần thiết.
Như vậy, trong việc truyền bá đạo,
để «tùy duyên hóa
độ», đôi khi chúng ta buộc phải tạm
thời chấp nhận một t́nh trạng, một
phương thế không được trong sáng lắm
để tiến tới một t́nh trạng tốt
đẹp hơn. Những minh họa sau sẽ giúp ta
hiểu rơ hơn câu nói trên.
Một vài minh họa
Tụng kinh lấy tiền
Trong các giai thoại của Phật giáo, có
câu chuyện sau đây: Một Thiền sư trụ tŕ
một ngôi chùa có đông đệ tử, trong đó có
một đệ tử luôn luôn bị cha ḿnh cản
trở không cho tu. Ông đả phá việc tu Phật,
thậm chí nói nhiều lời phỉ báng Đức
Phật. Người đệ tử tŕnh bày lên thầy
ḿnh mọi sự nhẽ và xin thầy độ cho cha ḿnh.
Vị Thiền sư yêu cầu
người đệ tử ḍ xét xem người cha có nhu
cầu và sở thích ǵ rồi cho ông biết. Người
đệ tử cho thầy biết điều cha ḿnh
đang cần là có công ăn việc làm để sinh
sống. Vị Thiền sư bèn nhờ đệ tử
đó làm một hợp đồng với người cha
ấy để ông này lần chuỗi «Nam-mô A-Di-Đà Phật»: cứ lần hết
một chuỗi 108 hột th́ ông sẽ được
trả 50 xu. V́ không có việc làm, nên ông chấp nhận
ngay, vả lại, «lương»
trả như vậy phải nói là «hậu hĩnh».
Thế là ông bắt đầu «nam-mô» suốt ngày, cho dẫu
ông chẳng tin vào Phật chút nào cả. V́ nhà chùa trả «lương» rất ṣng
phẳng, nên ông chăm chỉ lần hạt hết tháng
này sang tháng khác. Nhưng chính nhờ chuyên tâm lần hạt,
tâm hồn ông càng ngày càng được thuần hóa
đối với đạo pháp. Khi thấy ông tiến
triển về mặt tâm linh và trí tuệ hơn, vị
Thiền sư đề nghị ông tụng kinh Phật,
tụng xong một cuốn kinh dài th́ được
trả 5 đồng. V́ nhu cầu cuộc sống, ông
cũng đành phải tụng, cho dù ông chẳng thích tí nào.
Cứ tụng tháng này qua tháng khác, lời
lẽ trong kinh thấm nhập tâm ông làm trí tuệ ông
mở ra, và một ngày kia, ông đă giác ngộ
được chân lư. Khi biết vị Thiền sư
đă dùng phương pháp «đọc
kinh được tiền» chỉ là để
độ ḿnh, không v́ một mục đích nào khác, ông
rất cảm động, bèn đem trả lại số
tiền mà chùa thuê ông đọc kinh sau khi đă tiêu mất
ít nhiều. Bây giờ th́ ông tự nguyện tụng kinh v́
thấy điều đó ích lợi cho tâm linh ông, và ông
đă qui y Phật pháp.
Tụng kinh để được
tiền, thật là trái nguyên tắc và không đúng
đắn chút nào. Nhưng nếu không dùng phương cách
ấy th́ làm sao độ được một
người vô đạo như thế? Chính cái không
đúng đắn ấy lại trở thành đúng
đắn nhất, đúng đắn hơn là chấp vào
nguyên tắc để rồi bó tay. Trong kinh nghiệm
của các linh mục hay tu sĩ, ta thấy Chúa đă dùng
phương cách tương tự như thế để
kêu gọi họ theo Ngài. Thật vậy, hồi mới vào
tiểu chủng viện, có mấy ai đi tu v́ mục
đích cao thượng là làm sáng danh Chúa và cứu các linh
hồn? Đa số đi tu v́ những động lực
hết sức trẻ con và trần tục. Nhưng càng
đi sâu vào đời tu th́ càng ư thức được
động lực đúng đắn ḿnh phải có, và
động lực trần tục kia mất dần.
Nếu những vị linh hướng chủng viện
đ̣i buộc mọi chủng sinh phải có động
lực đúng đắn ngay từ đầu, và nhất
định không chấp nhận những động
lực thiếu đúng đắn kia, th́ ngày nay làm sao có
được số linh mục tu sĩ đông
đảo như bây giờ?
Quảng cáo thuốc kiểu «măi vơ Sơn Đông»
Một minh họa khác: Ta thấy những
người bán thuốc dạo kiểu «măi vơ Sơn Đông» lúc nào cũng có đông khán
giả tới nghe quảng cáo thuốc. Có phải những
khán giả này đến với họ là để nghe
quảng cáo thuốc hầu mua thuốc chăng? Không,
hầu hết các khán giả đến chỉ với
mục đích duy nhất là để xem những
người quảng cáo thuốc làm xiệc, làm ảo
thuật, múa vơ... hay làm những tiết mục hấp
dẫn khác. C̣n những người bán thuốc, mục
đích của họ là ǵ? có phải là mua vui cho khán giả
chăng? Không, mục đích của họ là bán thuốc
kiếm sống. Nhưng chính v́ họ biết thích ứng
với nhu cầu ṭ ṃ giải trí của quần chúng, mà
họ đă quảng cáo và bán thuốc được. Trong
khi làm xiệc hay ảo thuật, đúng lúc mọi người
tập trung hết tâm trí vào tṛ giải trí ấy th́ họ
ngưng lại và quảng cáo thuốc bằng những
lời ngon ngọt hấp dẫn nhất. Lời họ
quảng cáo như rót vào tai quần chúng. Đúng lúc quần
chúng không c̣n tập trung tinh thần nữa th́ màn xiệc
hay ảo thuật lại tiếp tục.
Chính Chúa Giêsu cũng áp dụng nghệ
thuật đó. Dân chúng đến với Ngài để nghe
Ngài rao giảng Chân Lư th́ ít mà đến để xem Ngài
làm phép lạ, chữa bệnh, đuổi quỉ th́
rất nhiều. Mục đích của Ngài là đến
để rao giảng Tin Mừng chứ đâu phải
để chữa bệnh hay làm phép lạ như thế.
Nhưng nếu Ngài không chịu làm mấy tṛ phụ
thuộc ấy th́ có được mấy người
tự nguyện đến nghe rao giảng Tin Mừng? Rơ
ràng Ngài đă thích ứng với quần chúng chứ không
đ̣i buộc quần chúng phải thích ứng với Ngài.
Ngài đă thích ứng với năo trạng ấu trĩ
của quần chúng.
Lợi dụng sở thích của
người để cứu họ
Trong Diệu
Pháp Liên Hoa kinh, phẩm thí
dụ (5), Phật ví thế gian này như
một căn nhà đang bị cháy (căn nhà lửa), trong
đó có những đứa con trong gia đ́nh đang ăn uống nhậu
nhẹt vui chơi, không hay biết ǵ về mối nguy
ngập sắp xảy đến với ḿnh. Và Phật
giống như người cha ở ngoài, đang dùng đủ mọi cách để
làm sao cứu được con cái ḿnh, làm sao dụ chúng ra khỏi căn
nhà đầy nguy hiểm ấy: ông biết các con ḿnh
ưa thích những món đồ chơi quí giá lạ
thường, nên ông bảo chúng ra ngoài th́ sẽ có những
món đồ chơi ấy. Các con ông nghe cha nói có đồ
chơi quí giá đẹp đẽ nên chạy ùa ra khỏi
nhà lửa, nhờ vậy mà thoát nạn.
Nếu người cha báo cho chúng biết
nhà sắp cháy, các con chưa thấy và đang mải vui
chơi nên chưa thấy nhu cầu phải ra. Nhờ
hứa những món đồ chơi hấp dẫn hơn
những ṃn chúng đang chơi, nên chúng chạy ra ngay, không
cần phải thuyết phục nhiều lời. Như
thế, người cha đă thích ứng với sở
thích của con cái để cứu chúng một cách dễ
dàng, chứ không theo cách khó hơn và mất th́ giờ là
thuyết phục để chúng nhận thức
được nguy hiểm và ra khỏi nhà lửa.
Cách hội nhập của Thiền tông
Người đưa Thiền Ấn
Độ sang Trung Hoa là Tổ
Bồ-Đề-Đạt-Ma. Khi ông đưa Thiền
sang Trung Hoa vào đời Lương Vơ Đế (528 dl),
th́ Phật giáo đă truyền sang Trung Hoa được
gần 500 năm, nghĩa là từ thời Hán Minh
Đế (67 dl). Phật giáo cũng như Thiền tông,
không phát triển được ở Ấn Độ,
nhưng lại phát triển mạnh tại Trung Hoa, v́
đă biết thích ứng và hội nhập văn hóa trong
môi trường mới này.
Thiền Ấn Độ và Thiền Trung
Hoa
Thiền Ấn Độ được
Lăo Trang hóa
Phật giáo tuy từ Ấn Độ
truyền sang, nhưng phải nói Phật giáo Trung Hoa có
nhiều khác biệt so với Phật giáo Ấn
Độ, nhất là trong pháp môn Thiền Tông. Chẳng
hạn Thiền Ấn Độ mang tính tiệm tu (6),
đặt rất nặng việc thiền định, coi
thiền định là pháp môn quan trọng nhất
để tu. C̣n Thiền Trung Hoa mang tính đốn ngộ
(7), đặt nhẹ thiền định v́
coi đó chỉ là một pháp môn phương tiện, không
phải là chủ yếu.
Tại sao có sự khác biệt ấy?
Tại v́ Thiền Ấn Độ khi truyền qua Trung Hoa
đă được Lăo-Trang-hóa thành Thiền Trung Hoa,
Thiền Ấn Độ đă cởi bỏ lớp áo
văn hóa Ấn Độ để mặc vào bộ áo
văn hóa Trung Hoa hầu thích ứng với những tính
chất riêng biệt của dân Trung Hoa. Bộ áo bên ngoài tuy
có thay đổi, nhưng cốt tủy bên trong vẫn là
một. Nếu Thiền Trung Hoa và Thiền Ấn
Độ vẫn giống hệt nhau, cho dù hai môi
trường văn hóa rất khác biệt nhau, th́ làm sao
gọi là thích ứng được?
Thích ứng đ̣i hỏi phải có sự
thay đổi, không thay đổi ǵ cả tức là không
có thích ứng. Muốn biết một tôn giáo có biết
thích ứng hay không, ta cứ xem tôn giáo đó khi
được truyền vào một môi trường văn
hóa khác hẳn với môi trường cũ, có thay
đổi ǵ về lễ nghi bên ngoài, về cách truyền
đạt giáo lư, về y phục... hay không. Tôn giáo nào không
biết thích ứng th́ măi măi vẫn là tôn giáo ngoại lai
trong môi trường mới của ḿnh.
Người Trung Hoa khác với người
Ấn Độ
Văn hóa Ấn Độ chịu ảnh
hưởng triết lư Veda và đạo Bà-la-môn. Phật
giáo nguyên thủy đă hội nhập trong nền văn
zhóa này. Trước khi có đạo Phật th́
người Ấn Độ đă biết thiền
định, v́ đó là phương pháp tu tập cổ
truyền của Ấn Độ nhằm tập trung tinh
thần để trí huệ trở nên sáng suốt. Do tu
tập lưu truyền nhiều thế hệ,
người Ấn Độ có thể ngồi thiền
định nhiều tiếng đồng hồ liên tục
một cách dễ dàng. Đức Phật đă khám phá ra
rất nhiều chân lư và đă giác ngộ thành Phật
phần lớn nhờ vào phương pháp thiền định.
V́ thế, Đức Phật đề cao pháp môn thiền
định như một pháp môn chủ yếu để
thành Phật.
Nhưng khi đạo Phật truyền sang
Trung Hoa, người dân ở đây đâu có thiền
định dễ dàng như người Ấn Độ,
thiền định chắc chắn là một điều
rất lạ lẫm và khó khăn đối với
họ. Người Trung Hoa hiếu động và có xă
hội tính hơn người Ấn Độ rất
nhiều, họ khó mà ngồi trầm tư mặc
tưởng lâu giờ được như người
Ấn Độ. Nếu cứ khăng khăng lấy
thiền định làm pháp môn chủ yếu để tu
tập, chắc chắn nhiều người Trung Hoa
muốn tu Phật sẽ phải bỏ cuộc.
Sẵn sàng thay đổi những ǵ có
thể thay đổi
Nếu thiền định là điều
cốt tủy, không thay đổi được, th́ dù khó
khăn đến đâu người quyết tâm theo
Phật cũng phải khắc phục. Nhưng khi
người Trung Hoa gặp khó khăn trong việc thiền
định, th́ các «thừa sai»
Phật giáo đă xét lại xem thiền định có
thật sự là cái ǵ thuộc cốt tủy, «không có không được», và
không thể thay đổi, để có thể giác ngộ
bản tính chân thật và giải thoát không? Nếu không
thiền định th́ c̣n là đạo Phật không? Hay
thiền định chỉ là một phương tiện
rất thích hợp với người Ấn Độ,
c̣n với người Trung Hoa th́ phải t́m phương
tiện khác thích hợp hơn?
Huệ Năng cải cách quan niệm cũ
Vấn đề quan trọng là phải
nhận ra cái nào là cốt tủy phải giữ nguyên, cái
nào là tùy phụ có thể thay đổi. Điều này
rất khó khi người ta đă thần thánh hóa các
phương tiện của tôn giáo, khiến họ không c̣n
đầu óc khách quan để nhận định. Cho
tới Lục Tổ Huệ Năng, vấn đề trên
mới được giải quyết ngă ngũ. Theo
Huệ Năng, Thiền định chỉ là một trong
những phương tiện để giúp giác ngộ,
không phải là phương tiện duy nhất. Nó có thể
có hại nếu người ta chấp cứng vào nó.
Và kể từ Huệ Năng, Thiền
Trung Hoa càng ngày càng khác với Thiền Ấn Độ, v́
các Thiền sư luôn luôn t́m hiểu tŕnh độ tâm linh
của quần chúng, sẵn sàng thay đổi để
thích nghi với hoàn cảnh và thời thế, luôn luôn phát
huy những pháp môn mới để đáp ứng nhu
cầu tinh thần của từng lớp người. V́
thế, Phật giáo Trung Hoa mỗi ngày mỗi thêm thanh
thế, và cuối cùng đă chinh phục được
đa số dân Trung Hoa, một dân tộc đông
đảo nhất thế giới.
Thiền định không phải là
phương tiện không thể thay đổi!
Sau khi giác ngộ và được Huỳnh
Mai Ngũ Tổ truyền y bát để thành Lục
Tổ, Huệ Năng nhận ra ḿnh đắc đạo
không nhờ thiền định, mà do thấy
được «chân tánh»
của ḿnh, do phá được mọi lầm chấp ràng
buộc trí tuệ ḿnh. So với những người tu
khác, ông thiền định rất ít. Vả lại, có
rất nhiều người thiền định suốt
cả đời ḿnh mà vẫn không hề giác ngộ.
Thiền định quả có làm cho
người ta sáng suốt hơn để nhận ra chân
lư, nhưng nó chỉ là một trong những phương
tiện tốt và hữu hiệu, chứ không phải là duy
nhất không có không được. V́ thế, người
ta có thể dùng một phương tiện khác những khi
phương tiện này trở nên không thuận lợi.
Vả lại, nếu đă là phương tiện th́ nó có
thể đưa người ta tới đích khi họ
biết sử dụng nó, mà cũng có thể cản
trở họ đạt tới đích khi họ lầm nó
hay đồng hóa nó với mục đích. V́ thế, càng
tin rằng phải nhờ vào thiền định mới
giác ngộ được, th́ người ta càng dễ
trụ chấp vào thiền định. Càng trụ chấp
vào thiền định th́ càng không thấy được
chân tánh ḿnh (8)
Chủ trương «đốn ngộ»
của Huệ Năng
Việc giác ngộ được thực
tại thâm sâu ấy không hoàn toàn tùy thuộc vào thời gian
tu lâu hay mau, hay vào tŕnh độ học vấn cao
thấp... Chẳng hạn Huệ Năng là người ít
học, nhưng chỉ tu theo Ngũ Tổ Huỳnh Mai ít
lâu là đắc đạo. C̣n Thần Tú là một nhà nho
uyên bác, tu theo Ngũ Tổ đă lâu năm mà vẫn chưa
đắc đạo. V́ thế, Huệ Năng không
chủ trương «tiệm tu»,
mà chủ trương «đốn
ngộ». Điều đó phù hợp với tâm lư
người Trung Hoa hơn, v́ họ hiếu động,
không có khả năng chờ đợi lâu như
người Ấn.
Huệ Năng tuy chủ trương
ngược với Thiền Ấn Độ nhưng
vẫn phù hợp với chủ trương của
Phật tổ, v́ Phật chủ trương «tùy duyên hóa độ», nghĩa
là tùy theo căn cơ, tŕnh độ, hoàn cảnh của
người nghe mà đưa ra nhiều pháp môn khác nhau
để phù hợp với từng người, từng
nhóm người.
Sự thích ứng sáng tạo của
Phật giáo Trung Hoa
Sự phát sinh những tông phái mới
Tính hội nhập văn hóa của
Phật giáo Trung Hoa rất mạnh nên dần dần đă
phát sinh ra những tông phái mới để đáp ứng
với nhu cầu tâm linh và khuynh hướng trí tuệ
của từng lớp người, trong nền văn hóa
đa dạng của Trung Hoa. Do đó, Phật giáo Trung Hoa
mang màu sắc khác hẳn với Phật giáo Ấn
Độ vốn là gốc của ḿnh. Cũng vậy,
Phật giáo tại Nhật Bản, Triều Tiên, Việt
Nam... cùng phát xuất từ Phật giáo Trung Hoa, nhưng
mỗi nơi đều có những bản sắc riêng
về giáo lư, pháp môn, phương pháp tu tập... thích
hợp với bản sắc dân tộc ḿnh. Phật giáo
Trung Hoa có 10 tông phái chính:
1. Luật tông: nhấn mạnh đến
việc giữ lề luật.
2. Tịnh độ tông: chú ư tới
việc niệm Phật.
3. Thiền tông: lấy tham thiền nhập
định làm căn bản tu tập.
4. Mật tông: dùng thần chú để
chế ngự thân tâm và mở mang trí tuệ.
5. Duy thức tông: dùng lư luận, triết lư
để mở mang trí tuệ.
6. Pháp Hoa tông: tu tập theo kinh Pháp Hoa.
7. Hoa Nghiêm tông: tu tập theo kinh Hoa Nghiêm.
8. Tánh Không tông: t́m ra những chấp
trước sai lầm của mọi người
để chứng ngộ chân lư.
9. Hữu tông: chủ trương «cái tôi» là không có thật,
nhưng các pháp có thực.
10. Thành thật tông:
chủ trương bản ngă cũng như các pháp
đều không có thực.
Mỗi người tùy theo nhân duyên, sở
thích hay khuynh hướng trí tuệ ḿnh mà thích hợp
với tông phái này hay tông phái khác. Phật giáo Trung Hoa chủ
trương có đủ «món
ăn» tinh thần cho mọi «khẩu
vị» tâm linh, nhờ vậy mà thích ứng
được với mọi người. Đó chính là
sự thích nghi, một trong những điều kiện
quan trọng của hội nhập văn hóa.
Diễn tả sứ điệp theo cung
cách văn hóa bản xứ
Sứ điệp của Phật giáo ban
đầu được diễn tả bằng những
yếu tố văn hóa Ấn Độ, bằng những
ư niệm của triết lư Veda, Upanishads. Nhưng khi
truyền sang Trung Hoa, Phật giáo, nhất là Thiền,
đă dùng những yếu tố văn hóa Trung Hoa - đặc biệt là hệ thống tư
tưởng của Lăo-Trang, vốn phù hợp với tư
tưởng Phật giáo hơn của Khổng-Nho - để diễn tả chân lư của ḿnh.
Nhờ vậy, tại Trung Hoa, tuy không phải là tôn giáo
bản xứ, nhưng Phật giáo vẫn không bị coi là
ngoại lai. Trái lại, Phật giáo ảnh hưởng sâu
đậm trở lại trên nền văn hóa Trung Hoa.
Tư tưởng Phật giáo phảng phất rất
nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật, văn
chương, ca dao, tục ngữ, phong tục, và nhất
là trong nếp tư tưởng của dân tộc Trung Hoa.
Tuy có rất nhiều tông phái khác biệt
nhau, và sự khác biệt giữa các tông phái Phật giáo có
thể rất lớn, nhưng tín đồ Phật giáo
trong các tông phái luôn luôn coi nhau như đồng đạo,
không coi nhau là sai lầm, mà luôn luôn tôn trọng sự khác
biệt của nhau, coi đó như một sự đa
dạng rất thường t́nh, tất yếu phải có
trong cuộc đời.
Phật giáo đă hội nhập văn hóa
vào Trung Hoa như thế. Thế c̣n hội nhập văn
hóa của Kitô giáo? Sau đây, chúng ta t́m hiểu việc
hội nhập văn hóa của Kitô giáo vào Âu Châu.
Phần chú thích
(1)
Ấn giáo hiện nay là h́nh thức cuối cùng
của một quá tŕnh tiến hóa của một tôn giáo
tại Ấn Độ. Khởi
đầu là Vệ Đà giáo, sau biến đổi thành
Bàlamôn giáo, và cuối cùng thành Ấn giáo. Và cuối thế kỷ 19, Ấn giáo lại
được Ramakrisna, một đạo sư nổi
tiếng, cải tổ và chấn hưng lại. V́ thế, Ấn giáo luôn luôn
đầy sức sống.
(2)
Về nguyên nhân khiến Phật giáo bị tiêu
diệt ở Ấn Độ, Thượng Tọa Thích
Thiện Hoa viết: «Nếu chỉ v́ hai lư do ngoại
lai nói trên (sự phát triển của đạo Bà-la-môn
và sự bách hại của Hồi giáo) th́ đạo Phật ở Ấn Độ không
dễ ǵ bị tiêu diệt một cách mau chóng như
thế. Sự suy sụp
của Phật giáo ở Ấn Độ c̣n là sự suy
đồi của Tăng giới, Phật thiếu tu
thiếu học, thiếu tinh thần tiến thủ
của giới lănh đạo Phật giáo Ấn Độ
thời bấy giờ nữa» (Thích THIỆN HOA, Phật học Phổ thông,
quyển II, Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh ấn
hành, 1992, trang 30).
(3)
Viết theo NGUYỄN DUY CẦN, Chu Dịch Huyền Giải, Tủ sách Thu Giang,
Sàig̣n 1975 (trang 90-93: Thiền
Ấn Độ và Thiền Trung Hoa).
(4)
Nghĩa là sau khi Phật sinh 691 năm, và sau khi
Phật nhập diệt được 611 năm.
(5)
DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH, Phẩm
thí dụ (quyển hai, phẩm 3): bản dịch
của Thích Trí Tịnh, trang 106 -116.
(6)
Tiệm tu: tu từ từ, thăng tiến
mỗi ngày một hơn cho đến khi thành Phật.
(7)
Đốn ngộ: ngộ tức khắc, và hễ
ngộ được bản tính chân thực của ḿnh là
thành Phật.
(8)
Trong Thiền tông có giai thoại này:
Tại
Truyền Pháp viện, Mă Tổ (709–788) ngày ngày đến
đó ngồi Thiền. Sư
Nam Nhạc (là thầy của Mă Tổ) thấy vậy
hỏi:
–
Đại Đức ngồi thiền để làm ǵ?
–
Để làm Phật.
Sư
bèn cầm một miếng ngói đến trước am
ngồi mài trên phiến đá.
Mă Tổ thấy lạ hỏi:
–
Sư mài ngói để làm ǵ?
–
Để làm gương.
– Mài
ngói sao thành gương được?
– C̣n
ngồi thiền há thành Phật được sao?
–
Vậy phải làm sao?
– Ví
như người đánh xe, xe không chạy, nên đánh vào
xe hay đánh vào ḅ?
Mă không
đáp ǵ được.
Sư nói tiếp:
– Ông
học ngồi Thiền hay học ngồi Phật? Nếu học ngồi Thiền
không phải việc nằm ngồi, nếu học
ngồi Phật th́ Phật không có h́nh tướng nhất
định, ở nơi pháp vô trụ chẳng giữ
chẳng bỏ. Ông học
ngồi Phật tức giết Phật, bằng chấp
vào tướng ngồi th́ chẳng đạt lư. (Xem
DAISETZ TEITARO SUZUKI, Thiền
luận I, Bản dịch của Trúc Thiên, Nhà xuất
bản TP. Hồ Chí Minh 1992, trang 376).