HỘI NHẬP VĂN HÓA CỦA
KITÔ GIÁO
VÀO THẾ GIỚI TÂY PHƯƠNG
NGUYỄN CHÍNH
KẾT
Việc phúc âm hóa tại Tây Phương
Đối tượng phúc âm hóa ban
đầu: Đế quốc Rôma
Kitô giáo vốn xuất phát từ Á châu, v́
nước Do Thái, quê hương của Đức Kitô,
thuộc Tiểu Á. Do đó, từ nguyên thủy, Kitô giáo
mang sắc thái văn hóa Á châu, rất gần gũi với
các tôn giáo Á châu khác. Nhưng v́ thời Đức Kitô và các
Tông Đồ, Tiểu Á nằm trong bờ cơi bị Đế
Quốc Rôma (29 trCN - 395
sCN) cai trị -
hầu hết gồm những nước chung quanh
Địa Trung Hải, trong đó có 2/3 Âu Châu - nên hoạt động phúc âm hóa của Giáo
Hội những thế kỷ đầu chủ yếu
nhằm vào Đế Quốc.
V́ khi Chúa Kitô về trời, Ngài nói với
các Tông Đồ như một lời di chúc: «Anh em hăy đi và làm cho muôn dân
trở nên môn đệ» (1). Với
kiến thức c̣n hạn hẹp thời đó,
đối với các Tông Đồ, muôn dân có nghĩa là các
dân tộc trong Đế Quốc Rôma. V́ thế, muốn cho
Hội Thánh Chúa lan rộng nhanh chóng, th́ Rôma, thủ đô
của Đế Quốc, phải là vị trí chiến
lược hàng đầu của công cuộc phúc âm hóa. Do
đó, phải tập trung nỗ lực phúc âm hóa vào Rôma.
Đó là nói về vị trí, c̣n nói về chủng tộc,
th́ dân Do Thái là đối tượng ưu tiên ban
đầu (2). Thế là từ đầu
thế kỷ IV, Rôma trở thành thủ đô của Giáo
Hội.
Phúc âm hóa thành công
Khó khăn ban đầu
Suốt ba thế kỷ đầu,
việc phúc âm hóa tại Rôma hết sức khó khăn, v́ có
những lệnh cấm đạo rất gắt gao do
chính Hoàng Đế ban hành. Rất nhiều Kitô hữu
phải tử đạo: bị làm mồi cho sư
tử, bị thiêu sống, bị tra tấn đủ
kiểu... Nhưng Hội Thánh thời đó đầy tràn
Thánh Linh và sức sống, các Kitô hữu luôn luôn làm
chứng cho Chúa Phục Sinh bằng một đời
sống rất lành thánh, bằng tinh thần huynh đệ
yêu thương cao độ, bằng việc thờ
phượng Chúa chuyên cần sốt sắng, bằng
việc dấn thân phục vụ mọi người, và
sẵn sàng bằng cả cái chết đau thương
nhục nhă nữa. V́ thế, số Kitô hữu tăng nhanh
cả về số lượng lẫn chất
lượng.
Phúc âm hóa bằng gương sáng và máu
đào
Có thể nói vào thời kỳ khó khăn
này, việc phúc âm hóa rất thành công, v́ các Kitô hữu đă
không phúc âm hóa bằng lư thuyết, mà bằng gương
sáng và máu đào. Đó là những lời rao giảng hùng
hồn nhất, có khả năng đánh động ḷng
người nhất và lôi cuốn nhất mà người
Kitô hữu có thể có được suốt ḍng lịch
sử Kitô giáo. Có lẽ không có cách phúc âm hóa nào tốt
hơn!
Tin Mừng được rao giảng
chỉ là những dữ kiện
Thời đó, chưa có thần học,
chưa có lư thuyết, chỉ có một bản tuyên xưng
đức tin rất ngắn gọn, gồm 12 điều
dễ hiểu mà chủ yếu là những sự kiện
về Đức Giêsu Kitô. Những sự kiện đó,
được mô tả chi tiết hơn trong các sách Phúc
Âm, đă được các Tông Đồ là những người
mắt thấy tai nghe, làm chứng là thực sự xảy
ra bằng chính máu đào của ḿnh. Qua những sự
kiện đó, ai tin Đức Giêsu Nazarét là Con Thiên Chúa, th́
chịu phép rửa, gia nhập Hội Thánh, và sống
đời Kitô hữu.
Vấn đề chỉ là tin vào một con
người qua những sự kiện mà các Kitô hữu dám
lấy mạng sống ḿnh ra để bảo đảm.
Sứ điệp Kitô giáo nguyên thủy chỉ là những
dữ kiện, không có những lời giải thích dài ḍng
dựa theo một triết lư hay một hệ thống
tư tưởng nào.
Sức hấp dẫn của Tin Mừng
Tự sứ điệp đó đă có
sức hấp dẫn, nhưng nó càng hấp dẫn lôi
cuốn hơn do những chứng từ bằng
gương sáng, bằng nét hớn hở vui tươi
hiện trên mặt người Kitô hữu chứng tỏ
niềm hạnh phúc lớn lao trong ḷng họ, chứng
tỏ những điều họ sẵn sàng đổ máu
ra để làm chứng đúng là Tin Mừng. Điều
hết sức hấp dẫn là ai tin vào Tin Mừng đó
cũng đều biểu hiện niềm vui tươi
hạnh phúc ra ngoài, cả những lúc họ gặp
đủ mọi gian truân v́ bị bách hại. Có những
người trước đây sống ích kỷ, chỉ
biết vun quén cho ḿnh, thế mà từ khi gia nhập tôn giáo
này, cách họ xử sự với người khác thay
đổi hẳn: rất vị tha, đầy yêu
thương... Càng bị bách hại, những đặc
tính ấy càng nổi bật và càng trở nên hấp
dẫn người khác gia nhập đạo.
Lúc đó, sức sống của Hội
Thánh rất mănh liệt, đầy thần khí, khiến
mọi Kitô hữu cũng đầy thần khí và sức
sống. Đó chính là cách thích ứng tuyệt hảo
nhất của Hội Thánh vào trong một tôn giáo vô
đạo như Đế Quốc Rôma. Một cách thích
ứng mà trí tuệ trần gian khó có thể sáng kiến ra
được: Đạo Chúa vẫn phát triển mạnh
dù bị bách hại dă man.
Việc hội nhập văn hóa tại Tây
Phương
Sứ điệp Kitô giáo nguyên thủy
Chỉ gồm những dữ kiện
Sứ điệp Kitô giáo nguyên thủy
vốn được diễn tả bằng những
sự kiện, được mô tả chi tiết hơn
trong các sách Tin Mừng, vốn là những sách kể
chuyện, gồm các bài tường thuật, không giải
thích dài ḍng bằng những ư niệm hay phạm trù
triết học nào. Có khó hiểu đối với
người đọc th́ chỉ là những phong tục
tập quán cá biệt của Do Thái, các tổ chức xă
hội cá biệt thời Đức Giêsu, hay những
loại cây chỉ có ở vùng Trung Đông được
nói tới trong các dụ ngôn của Chúa Giêsu.
Không bị lệ thuộc nền triết
lư nào
Trong sứ điệp Kitô giáo, không có
những ư niệm triết lư hay phạm trù triết
học của một nền văn hóa cá biệt nào. Không
cần phải thành thạo triết lư Hy Lạp như các
thày kinh viện vẫn có thể hiểu và sống một
cách sâu xa sứ điệp ấy. Không cần phải có
một ư niệm ǵ về ngôi vị, về bản thể
hay bản tính của một hệ thống triết lư nào
người ta vẫn có thể sống mầu nhiệm
Cha, Con, Thánh Thần, hay mầu nhiệm Chúa hiện
diện thật sự, hoặc mầu nhiệm Đức
Kitô là Thiên Chúa làm người... một cách sâu sắc.
Sứ điệp được Âu hóa
Dùng triết lư Hy Lạp để khai
triển
Nhưng khi Kitô giáo được truyền
bá vào Đế Quốc Rôma th́ nhiều người thông
thái trong Đế Quốc tin theo. Trong số những
người thông thái ấy, nhiều người đă
trở thành những vị chủ chăn trong Giáo Hội.
Những vị này đóng một vai tṛ quan trọng trong
việc tạo ra cho Kitô giáo một nền tảng
triết lư vững chắc hầu thỏa măn nhu cầu trí
thức của những tín hữu thông thái. Vả lại,
sứ điệp Đức Kitô cũng cần phải
được diễn tả sao cho phù hợp với
những ư niệm sẵn có của dân chúng.
Mà Đế Quốc Rôma thời ấy
chịu ảnh hưởng triết lư Hy Lạp, một
thứ triết lư nặng về suy tưởng hơn
thực tế, phát sinh từ một vũ trụ quan
tĩnh (coi vũ trụ như yên tĩnh, không biến
dịch), và nhận thức luận đơn diện (quan
niệm thực tại chỉ có một mặt). V́
thế, các bậc thông thái trong Giáo Hội (các giáo phụ,
tiến sĩ...) đă dùng triết lư đó để giải
thích và khai triển sứ điệp Kitô giáo, để
diễn tả các chân lư cũng như các mầu nhiệm
Kitô giáo. Nhờ vậy, sứ điệp cũng như các
mầu nhiệm và chân lư Kitô giáo đă được
hiểu theo một cách dễ hiểu nhất đối
với các Kitô hữu Tây Phương.
Chẳng hạn, để diễn tả
chân lư «Cha, Con, Thánh Thần»
được mặc khải trong Kinh Thánh, các giáo phụ
đă dùng ư niệm «ngôi vị»
của triết lư Hy Lạp (3) để áp
dụng cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa được các Kitô
hữu Tây Phương quan niệm là «Ba Ngôi», rất dễ hiểu đối với
họ. Cứ thế, triết lư Hy Lạp đă trở
thành một dụng cụ «vừa
tầm tay» của các giáo phụ Hy-La để đào
sâu, khai thác, giải thích, diễn tả sứ điệp
Kitô giáo. Thế là sứ điệp đó đă
được mặc lấy bộ áo văn hóa Tây
Phương để dễ dàng hội nhập vào môi
trường văn hóa Âu Châu của Đế Quốc.
Triết lư Hy Lạp - sau này
trở nên nền tảng của triết học Tây
Phương - đă
được các giáo phụ và các tiến sĩ trong Giáo
Hội, nhất Thánh Tôma Aquinô hoàn chỉnh để làm
nền tảng cho ṭa nhà thần học truyền thống
Kitô giáo. Do đó, thần học truyền thống của
Giáo Hội là một nỗ lực suy tư, giải thích,
diễn tả về Thiên Chúa cũng như chương
tŕnh sáng tạo và cứu độ của Ngài theo cung cách
văn hóa Âu Châu, rất thích hợp với lề lối
suy tư của người Tây Phương.
Danh từ để chỉ Thiên Chúa
Danh từ nguyên thủy để chỉ
về Thiên Chúa trong Thánh Kinh là EL SHADDAI (4), hay
EL’ELYÔN (5), hay YAHVÉH (6), hay ÉLOHIM (7).
Để thích ứng với người Âu Châu, các giáo
phụ đă không dùng những từ Do Thái ấy
để chỉ về Thiên Chúa, mà sẵn sàng «rửa tội» cho các từ
THEOS, DEUS, hay DIEU, v.v... -
vốn là từ được dùng để chỉ các
thần của người Âu Châu (Zeus, Jupiter, Hercule...).
Chúng vốn không có nghĩa là Thiên Chúa như chúng ta hiểu
hiện nay, nhưng các giáo phụ đă không chấp
nhất chuyện nhỏ nhặt đó để lưu tâm
tới điều quan trọng hơn là thích ứng và
hội nhập văn hóa. Về sau, khi Kitô giáo
được truyền vào Á châu, Giáo Hội đă không
đặt nặng vấn đề hội nhập văn
hóa như vậy (8).
Thích ứng ngày lễ Giáng Sinh
Về việc Đức Kitô sinh ra, không ai
xác định được ngày Ngài sinh ra là ngày nào. Khi
cần phải chọn một ngày trong năm để
kỷ niệm sinh nhật của Ngài, Giáo Hội đă
không ngần ngại chọn ngày 25-12, là ngày người Âu
Châu thờ thần Mặt Trời. Sự trùng hợp
như vậy giúp cho Kitô giáo dễ hội nhập vào xă
hội Âu Châu. Nhờ vậy, người Kitô hữu không
trở nên «lập dị»
một cách không cần thiết: khi mọi người
ăn mừng thần Mặt Trời, th́ người Kitô
hữu cũng ăn mừng y như họ, nhưng thay v́
mừng thần Mặt Trời th́ mừng Đức Giêsu
Kitô, cũng là Mặt Trời soi chiếu cho Thế
Giới. Kitô giáo càng lớn mạnh, ư nghĩa của ngày
25-12 càng thiên về việc mừng Đức Giêsu Kitô và
tiến tới chỗ hoàn toàn thay thế cho việc
mừng thần Mặt Trời.
Ngày đầu tuần cũng là ngày
người Âu Châu kính thần Mặt Trời (9),
th́ Giáo Hội đă gọi ngày đó là «Ngày của Chúa» (10) Cứ như thế, Giáo Hội
đă dần dần Kitô giáo hóa các thực tại ngoại
đạo của châu Âu một cách khéo léo.
Hội nhập văn hóa trong y phục
Y phục mặc trong phụng vụ
cũng mô phỏng y phục của người Rôma, là
thứ y phục phát xuất từ nền văn hóa
của dân chúng, để phụng vụ trở nên quen
thuộc gần gũi với họ. Y phục của hàng
giáo sĩ, của các tu sĩ cũng không khác với y
phục của dân chúng bao nhiêu.
Bỏ bộ áo văn hóa Do Thái để
mặc lấy bộ áo văn hóa Âu Châu
Có thể nói, tại châu Âu, Kitô giáo đă
được Âu hóa từ cách thức tư tưởng
đến những h́nh thức bên ngoài để có thể
thích ứng với người Âu Châu. Tất cả
những nét văn hóa mang tính Do Thái hay Tiểu Á đều
được cởi bỏ để mặc lấy
những nét văn hóa Âu Châu. Việc hội nhập văn
hóa sứ điệp Kitô giáo vào Âu Châu phải nói là rất
hoàn hảo, và nhờ đó Âu Châu cũng được
Kitô giáo hóa hoàn toàn.
Việc thích ứng và hội nhập
văn hóa tại châu Âu thuận lợi hơn Á châu
Việc thích ứng và hội nhập
văn hóa sứ điệp Kitô giáo vào Âu Châu thuận
lợi và thành công hơn vào Á châu rất nhiều v́
nhiều lư do.
Các nhà truyền giáo cùng chịu ảnh
hưởng văn hóa chung với người thụ giáo
Trước hết, các Tông Đồ là
những người sống trong Đế Quốc Rôma,
nên đă tiếp xúc với nền văn hóa Rôma và đă
hiểu rơ nền văn hóa này. V́ thế, khi truyền
đạo, các ngài đă thích ứng cách diễn tả,
giải thích, tŕnh bày sứ điệp Kitô giáo với
văn hóa Rôma một cách dễ dàng ngay từ đầu. Và
v́ Kitô giáo được truyền vào Đế Quốc
rất sớm, nên các thế hệ lănh đạo Giáo
Hội và vị lănh đạo việc phúc âm hóa ngay sau các
Tông Đồ đều là những người chịu
ảnh hưởng văn hóa Hy-La. Do đó, khi tŕnh bày và
giải thích sứ điệp Chúa Kitô cho những
người cùng chịu ảnh hưởng nền văn
hóa đó th́ không có ǵ khó khăn về mặt hội
nhập văn hóa cả.
C̣n tại châu Á, những người
tới truyền giáo là người Âu Châu, rao giảng
một sứ điệp đă được Âu hóa
rất nhiều thế kỷ, đồng thời nhận
sự lănh đạo từ xa của những người
Âu Châu vốn có lề lối suy tư rất xa lạ
với người Á châu. V́ thế, việc hội
nhập văn hóa tại châu Á khó khăn hơn tại châu
Âu gấp bội.
Sứ điệp Kitô giáo đă gắn bó
quá chặt chẽ với văn hóa Tây Phương
Vả lại, sứ điệp Kitô giáo
ngay từ đầu đă được khai triển theo
cung cách văn hóa Âu Châu, lấy triết lư Hy Lạp làm
dụng cụ khai triển, đă tạo nên một nền
thần học lộng lẫy, vững chắc mà Giáo
Hội, trong hàng chục thế kỷ, coi là duy nhất đúng đắn, không thể có
một nền thần học khác tương tự. Ngay
cả triết lư La-Hy, được các giáo phụ và
tiến sĩ hoàn chỉnh để làm nền tảng cho ṭa
nhà thần học ấy, cũng được Giáo
Hội coi là đúng đắn nhất không thể thay
thế được. Do đó, rao giảng sứ
điệp Chúa Kitô có vẻ như rao giảng kết
quả nền thần học ấy.
Cho tới trước Công Đồng
Vatican II, Giáo Hội không hề coi nền thần học
ấy là một thần học đặc thù chỉ
đặc biệt thích hợp với Âu Châu hoặc
với nền văn hóa Âu Châu mà thôi. Chỉ sau Công
Đồng Vatican II, Giáo Hội mới chấp nhận, và
hơn nữa, khuyến khích các dân tộc cùng chung một
nền văn hóa, có một nền thần học riêng thích
hợp với văn hóa của ḿnh. V́ nền thần
học truyền thống tuy là một thành quả rực
rỡ của việc hội nhập văn hóa sứ
điệp Kitô giáo vào Âu Châu, nhưng nếu đ̣i hỏi
người Á châu cũng phải coi thần học đó
là cách hiểu và diễn tả sứ điệp Kitô giáo
của ḿnh, th́ quả là áp đặt và không phải là
hội nhập văn hóa.
Phần chú thích
(1) Mt 28,19.
(2) Xem Cv 3,26; 13,46.
(3) Ở Đông Phương
không có ư niệm «ngôi vị», nhưng có ư niệm «bản
ngă». «Ngôi vị» trong triết lư Hy Lạp là một
thực thể không thể phân chia, từ đó phát sinh ra ư
thức. C̣n «bản ngă» của triết lư Đông
Phương là do ư thức tạo nên, và có thể phân chia
(nghĩa là v́ có ư thức nên mới có bản ngă).
(4) Danh từ mà các tổ
phụ dùng để gọi Thiên Chúa. Xem St 17,1; 28,3; 35,11;
v.v…
(5) Trong St 14,18.22, nhất là
trong các Thánh Vịnh.
(6) Danh mà chính Thiên Chúa tự
xưng với Môsê: Xem Xh 3,14.
(7) Danh từ chung để
chỉ về Thiên Chúa, rất thường dùng trong Kinh
Thánh.
(8) Khi các thừa sai truyền
giáo ở Á Châu, có thời gian Ṭa Thánh đă không cho phép
người Á Châu dùng những từ trong ngôn ngữ
của ḿnh để nói về Thiên Chúa, mà phải dùng
những từ phiên âm từ những từ của Tây
Phương, v́ sợ những từ địa
phương ấy có nội dung không đúng (như sẽ
nói trong chương 7, trang 121-148)
(9) Điều đó vẫn
c̣n di tích trong một vài ngôn ngữ ở Âu Châu như
tiếng Anh, tiếng Đức. Ngày thứ nhất trong
tuần, tiếng Đức là SUNTAG, tiếng Anh là SUNDAY
(ngày Mặt Trời)…
(10) Tiếng Latinh là «Dies
Dominica», tiếng Pháp đọc trại ra là «Dimanche».
NGUYỄN CHÍNH
KẾT