HỘI NHẬP VĂN HÓA TẠI
VIỆT NAM
NGUYỄN CHÍNH
KẾT
Kitô giáo
bắt đầu được truyền vào Việt Nam
từ giữa thế kỷ XVI, tới nay đă
được 450 năm. Các thừa sai đă đến
Việt Nam từ năm 1533, nhưng công cuộc truyền
giáo chỉ trở nên qui mô từ khi có sự tiếp tay
của các giáo sĩ ḍng Tên từ năm 1615. Các giáo sĩ
ḍng Tên tuy chỉ truyền giáo tại Việt Nam trong ṿng 50
năm, nhưng việc truyền giáo của họ có qui mô,
đường lối, có tổ chức và hệ
thống, nên kết quả rất tốt đẹp.
Đặc biệt từ khi A-lịch-sơn
Đắc-Lộ và Pierre Marquez đến Việt Nam
năm 1627, công việc truyền giáo trở nên khởi
sắc hẳn.
Khi
truyền giáo tại Việt Nam, nhiều thừa sai - nhất là các thừa sai ḍng Tên - đă có những nỗ lực thích nghi
một cách mềm dẻo và hội nhập văn hóa trong
xă hội Việt Nam. Khuôn mặt thừa sai nổi bật
nhất về khả năng thích ứng và hội nhập
văn hóa ở Việt Nam là linh mục Alexandre de Rhodes
(phiên âm tiếng Việt là A-lịch-sơn
Đắc-Lộ, để tên của cha trở nên thân
thiện hơn, từ đây, trong tập này, chúng tôi
sẽ gọi ngài là cha Đắc-Lộ)(1).
Nhưng rất tiếc là cha Đắc-Lộ bị
trục xuất quá sớm (năm 1645) cũng như các giáo
sĩ ḍng Tên khác (năm 1663) khiến việc truyền giáo
tại Việt Nam mất đi nhiều năng lực và
tính hữu hiệu.
Cha A-lịch-sơn Đắc-Lộ
Tinh thần thích ứng và hội nhập
văn hóa
Linh
mục A-lịch-sơn Đắc-Lộ là một thừa
sai ḍng Tên. Cha cùng với linh mục Pierre Marquez đến
Việt Nam ngày 19-3-1627 tại cửa Bạng (Thanh Hóa)
đánh dấu thời kỳ tốt đẹp nhất
của công cuộc truyền giáo tại đây.
Học và nói thông thạo tiếng Việt
Thực
ra trước đó cha đă đến Việt Nam
để học tiếng Việt tại Đàng Trong trong
một năm rưỡi, từ tháng 12-1624 đến tháng
6-1626 (2). Cha chủ trương: để
hội nhập vào xă hội Việt Nam, cần phải nói
thông thạo tiếng Việt. V́ thế, đối với
tiếng Việt, cha đă «học
chăm chỉ như khi học thần học ở Rôma»
(3). Nhờ thông thạo tiếng Việt, cha
đă tiếp cận dễ dàng với mọi tầng
lớp xă hội, trực tiếp rao giảng Lời Chúa
cho người nghe bằng tiếng mẹ đẻ
của họ, soạn thảo những cuốn sách rất
có giá trị bằng tiếng Việt.
Cha
Đắc-Lộ là người dám nghĩ dám làm, rất
nhiệt thành và năng nổ. Tuy là một giáo sĩ
của một nước văn minh tại Âu Châu, nhưng
cha luôn luôn tôn trọng văn hóa của các dân tộc, và
để truyền giáo cho có hiệu quả, cha chủ
trương chính ḿnh phải thích ứng với họ,
chứ không nên áp đặt một chiều, bắt họ
phải thích ứng với ḿnh. V́ thế, cha luôn luôn tỏ
ra tôn trọng các phong tục địa phương.
Ḥa ḿnh theo tập tục của
người Việt
Trước
khi đến Việt Nam, cha đă từng phản
đối việc bắt những tân ṭng người
Ấn Độ phải bỏ y phục dân tộc của
ḿnh để mặc lấy bộ áo Tây Phương, và
chống lại việc cưỡng ép người Trung Hoa
khi gia nhập đạo Công giáo phải cắt tóc ngắn
trái với tập tục của họ thời đó (4).0
V́ thế, khi tới Việt Nam, để ḥa nhập vào xă
hội người Việt, cha luôn luôn ăn mặc như
người Việt: áo thụng, quần ta, tóc dài (5).
Theo
gương cha Buzomi và Pina, cha Đắc-Lộ chấp
thuận để dân chúng gọi ḿnh bằng Thầy (6),
để giữ khuôn khổ Quân,
Sư, Phụ của xă hội Việt. Đối
với vua quan Việt Nam, Cha tự coi ḿnh như một
người dân trong nước, luôn luôn tuân theo những
nghi thức lễ nghĩa của người Việt
đặc biệt trong cách xưng hô, bái lạy, chào
hỏi… (7) Cũng như cha Matteo tại Trung
Hoa, cha Đắc-Lộ lưu tâm tới việc tiếp
xúc với những người trí thức trong xă hội
(nho sĩ, quan lại…), và để tạo cơ hội
gần gũi họ, cha đă tận dụng những
kiến thức khoa học của ḿnh để nói
chuyện với họ, đặc biệt về thiên
văn học (8).
Danh từ để chỉ Thiên Chúa: «Đức Chúa Trời»
Tại Trung Hoa và Nhật Bản
Để
chỉ về Thiên Chúa, tại Nhật Bản, thánh Phanxicô
Xavier không dám dùng một danh từ Nhật Bản với
nghĩa tương đương, e có sự sai lạc,
mà chỉ phiên âm danh từ Deus
của tiếng Latinh sang từ Nhật là Deusu. C̣n tại Trung Hoa, cha Matteo Ricci dùng từ Thiên Chủ, nghĩa là chủ
của Trời. Thực ra, chữ Thiên của Trung Hoa vừa có nghĩa là trời vật chất,
vừa có nghĩa là nguyên lư tối cao chi phối tất
cả mọi sự, và cũng có nghĩa là Ông Trời. Nhưng dùng chữ Thiên có thể gây hiểu lầm v́ nó có hai ba
nghĩa. Dùng chữ Thiên
Chủ, cha Matteo có ư nói Kitô giáo không thờ trời, mà
thờ Chủ của trời.
Nghĩa như thế chính xác hơn.
Tại Việt Nam
C̣n
tại Việt Nam, trước khi cha Đắc-Lộ
tới, cha Buzomi, một thừa sai người Ư, đă
dùng những danh từ như: Thượng
Đế, Thiên Chủ, Thiên Chủ Thượng
Đế, Ngọc Hoàng. Về sau, cha Buzomi đă ngả
về danh từ Thiên Chủ
của cha Matteo Ricci và bỏ những danh từ kia.
Nhưng
tới khi cha Đắc-Lộ tới, cha đă sáng chế
ra một từ hoàn toàn mới, và cũng hoàn toàn nôm,
khời đầu là «đức
Chúa trời đất» (9), về sau
giản lược lại thành «đức
Chúa trời» (10). Xin lưu ư: trong ba chữ
này, cha Đắc-Lộ chỉ viết hoa chữ Chúa, c̣n hai chữ kia viết
thường, nghĩa là trong cụm từ đó, chữ Chúa là chính, ư muốn nói: Chúa của trời, chứ
không phải trời,
tương tự như chủ
nhà chứ không phải nhà.
Giải thích danh từ «đức Chúa trời»
Cha
đă giải thích ba chữ này trong cuốn tự
điển Việt-Bồ-La, do cha biên soạn, như sau:
1. Đức: tiếng chỉ
chức vị cao trọng, người ta nói đức vua, đức Chúa,
đức ông dành cho các hoàng tử và tướng lănh
ở Đàng Ngoài, c̣n ở Đàng Trong, tiếng này dành cho
nhà chúa. Đức bà chỉ
vợ nhà vua nhà chúa, hoặc cung phi của vua của chúa. Chúa Bà là chính phi của nhà vua
nhà chúa; cũng dùng đức
chúa bà. Người già cả có chức vị lớn th́
gọi là đức lăo.
2. Chúa (Dominus), đức Chúa trời đất, tên xưng Thiên
Chúa nơi người Đàng Ngoài. Chúa cũng là tên gọi vị cai quản toàn cơi
đất nước này.
3. Thiên,
Trời (caelum, i) ; Thiên địa, trời đất
(caelum et terra) ; Thiên Chủ, Chúa trời (caeli Dominus), tốt
hơn th́ nói Thiên Chúa, Chúa trời.
Tại
Việt Nam, thời cha Đắc-Lộ đến,
tức thế kỷ 17, trong triều đ́nh vừa có vua vừa có chúa. Vua ở
đây là vua Lê ở Đàng Ngoài, chỉ có hư vị
chứ không có thực quyền. C̣n chúa ở đây là chúa Trịnh ở Đàng Ngoài,
và chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Trong bối cảnh
lịch sử này, trên danh nghĩa th́ vua lớn hơn Chúa,
nhưng trong thực tế th́ chúa lớn quyền hơn
vua. V́ thế, vào lúc đó, dùng đức
Vua trời không thực tế bằng đức Chúa trời. Vả lại, chúa có nghĩa là chủ (11), nên
cụm từ đức Chúa
trời hoàn toàn đồng nghĩa với từ Thiên Chủ của cha Matteo
Ricci.
Từ đức Chúa trời có tính
cách trang trọng và dài. Theo nhu cầu của ngôn ngữ,
người ta thường có khuynh hướng nói vắn
tắt đi, nhất là trong những trường hợp
dùng như một đại từ. V́ thế, ngay trong
cuốn Phép Giảng Tám Ngày,
cha Đắc-Lộ đă dùng những h́nh thức giản
lược của cụm từ này: từ đức Chúa trời đến đức Chúa, hay Chúa
trời, và cuối cùng chỉ c̣n vỏn vẹn một
chữ Chúa (12).
Một số ư niệm trong Kitô giáo
Trong
số những khái niệm của Kitô giáo, có những khái
niệm:
· được
diễn tả bằng những từ tiếng Việt hoàn
toàn mới: như thiên thần, linh hồn, thiên đàng,
hỏa ngục, tội tổ tông, rửa tội, xức
trán, thầy cả, kẻ giảng, v.v…
· được
diễn tả bằng những từ tiếng Việt
đă có sẵn, nhưng nay được hiểu theo
nghĩa mới của đạo: như sinh th́,
địa ngục, ma quỉ, tội lỗi, v.v…
· không dịch hay
chưa t́m được từ tương ứng trong
tiếng Việt, nên phải tạm dùng từ của Tây
Phương được phiên âm theo tiếng Việt - trong đó có những tên riêng - như (13):
Tiếng
Việt xưa |
Gốc |
Chữ
gốc |
Tiếng
Việt nay |
Con-tri-song |
Bồ |
Contriçăo |
Ăn
năn tội |
A-tri-song |
- |
Atriçăo |
Sám
hối |
Com-mu-nhong |
- |
Communhăo |
Rước
lễ |
Vít-vồ |
- |
Bispo |
Đức
cha |
Ga-ra-xa |
- |
Graça |
Ân
sủng |
Câu-rút |
- |
Crux |
Thánh
giá |
Giu-se |
- |
Jose |
Giuse |
Đô-minh |
- |
Domingos |
Đaminh |
Giu-ong |
- |
Joăo |
Gioan |
I-sa-ve |
- |
Isabel |
Êlisabét |
(lễ)
Săng-ti |
Latinh |
Sancti |
(lễ)
Ḿnh Máu Chúa |
Ca-tô-li-ca |
- |
Catholica |
Công
giáo |
Khi-ri-xi-tô |
- |
Christo |
Chúa
Kitô |
Một số h́nh thức thích ứng và
hội nhập văn hóa khác
Đưa nghệ thuật dân gian vào tôn giáo
Người
Việt Nam rất thích thi ca, họ thường
đối đáp nhau bằng những vần thơ sáng tác
tại chỗ… Và đối với người b́nh dân,
những vần thơ luôn luôn được truyền
khẩu và ghi nhớ dễ dàng hơn văn xuôi. Cha
Đắc-Lộ rất hiểu giá trị và tác dụng
của thi ca, vè, văn đối với dân chúng Việt Nam,
nên đă cha khuyến khích bà Catarina thuộc hoàng tộc (14)
trước tác ca văn về giáo lư, về cuộc
đời Chúa Giêsu.
Lối
hát ả đào, hát chèo cũng là những h́nh thức
văn nghệ mà người Việt Nam ưa thích. V́
thế, Cha là người sáng kiến ra việc áp dụng
lối hát ả đào, hát chèo và múa cung đ́nh vào việc
ngắm đứng, dâng hoa… Nhờ đó, những sinh
hoạt phụng vụ trở nên hấp dẫn, vui
tươi, lôi kéo được nhiều người
đến với Chúa.
Tổ chức các lễ hội công giáo
Trước
đây, trong các làng xă, tại các ngôi đ́nh, người ta
thường tổ chức những lễ hội, với
những sinh hoạt vui chơi giải trí, rước kiệu
các vị Thành Hoàng. Cha Đắc-Lộ cũng cho tổ
chức những lễ hội, đ́nh đám vào những
dịp mừng lễ lớn trong Kitô giáo, và tổ chức
những buổi rước kiệu Thánh Thể,
rước tượng Chúa hay Đức Mẹ…
Người Kitô hữu Việt Nam rất thích những
cuộc rước kiệu như thế.
Trong các
hội hè đ́nh đám thuộc các lễ hội dân
tộc, người ta thường tổ chức
những cuộc vui chơi giúp quần chúng có dịp
giải trí sau những ngày làm lụng mệt mỏi. Trong
đó có những cuộc thi đua để tuyển nhân
tài: đấu đô vật, thi ca hát, làm thơ, nấu
cơm thi, chạy đua, thi bắn tên, v.v… Cha
Đắc-Lộ cũng cho tổ chức những
cuộc thi tuyển nhân tài vào những dịp lễ
lớn như Giáng Sinh và Phục Sinh: thi kinh, thi bổn, thi
lẽ đạo, thi ngắm đứng, thi ca hát, v.v…
Giới nào thi với giới đó: người già với
người già, thanh niên với thanh niên, trẻ em với
trẻ em… Nhờ vậy, mọi giới đều
được khuyến khích học hỏi, đào sâu giáo
lư, lẽ đạo… một cách rất hữu hiệu và
đầy hứng khởi.
Thích nghi trong việc cử hành bí tích
Rửa tội
· Về mô thức: Để
những người lănh nhận bí tích và những
người tham dự nghi thức rửa tội lănh
nhận hoặc tham dự một cách tích cực và ư
thức hơn, nên từ năm 1645, các thừa sai muốn
dùng mô thức bằng tiếng Việt. Nhưng phải
chọn công thức nào cho đúng và thích hợp?
Khởi
đầu, cha Saccano và Đắc-Lộ đề nghị
công thức: «Tau rữa mầi, nhân nhít danh Cha, nhít danh Con, và
nhít danh Su-phi-ri-tô Săng-tô. Amen»
Nhưng
trong 35 vị tham dự hội nghị ở Macao bàn về
vấn đề này, có 31 vị không đồng ư với
cha Saccanô và Đắc-Lộ. Họ ủng hộ công
thức: «Tau rữa mầi,
nhân danh Cha, và Con, và Su-phi-ri-tô Săng-tô. Amen». Có hai vị
bỏ phiếu trắng. Năm 1648, cha Marini tham khảo ư
kiến 14 bổn đạo Việt Nam ở Đàng Ngoài,
họ cho rằng công thức sau đúng hơn.
· Về nghi thức: Cha
Chevreuil (tới Hội An năm 1664) có ghi nhận là các cha
ḍng Tên tại Việt Nam bấy giờ không hoàn toàn làm theo
nghi thức rửa tội của Rôma lúc bấy giờ, v́
có nhiều điều không thích hợp với hoàn cảnh
hay tâm tính của người Việt Nam. Chẳng hạn
các cha bỏ muối vào bàn tay người được
rửa tội chứ không bỏ vào miệng, không dùng
nước miếng của ḿnh để xức vào
người được rửa tội, không xức
dầu trên ngực của phụ nữ… và bỏ đi
nhiều lời nguyện không thích hợp (15).
Sự việc này c̣n bị đưa ra tranh luận dài ḍng
giữa các ḍng thừa sai cho đến năm 1742 Giáo
Hội mới chấm dứt những tranh chấp ấy.
Thích nghi trong Mùa Chay và Tuần Thánh
Tuần
Thánh là tâm điểm của phụng vụ Kitô giáo.
Để in sâu mầu nhiệm vượt qua vào tâm
hồn các Kitô hữu Việt Nam, để giúp họ
sống mầu nhiệm này, các thừa sai đă tổ
chức nhiều h́nh thái khác nhau phù hợp với tâm
hồn người Việt Nam: chẳng hạn tổ
chức đóng kịch về cuộc thương khó
của Chúa Giêsu, tổ chức đám tang cho Chúa Giêsu
(nhất là tại Bùi Chu, Bắc Ninh). Việc khóc
mướn trong các đám tang được thay thế
bằng những kinh ngắm với giọng điệu
ngân nga biểu lộ t́nh cảm buồn thương.
Một
thích nghi lớn lao trong Mùa Chay và Tuần Thánh là việc
ngắm đứng về những sự thương khó
của Chúa Giêsu. Việc ngắm đứng một
phần nào chịu ảnh hưởng lối hát cô
đầu, một lối hát Việt Nam thuần túy:
một cô hát, một người cầm trịch,
người đánh trống chầu… Nhờ vậy,
sự hiểu biết và cảm thông với những
đau khổ của Chúa Kitô đi sâu vào ḷng người
giáo dân một cách ngọt ngào, sâu xa.
Thích ứng trong mục vụ
· «Thầy giảng»,
«Nhà Đức Chúa Trời»:
Để thích ứng với t́nh h́nh khó khăn thời
đó, cha Đắc-Lộ đă thiết lập đoàn «thầy giảng», là những
người giáo dân được huấn luyện
để trợ lực hàng giáo sĩ trong các công việc
mục vụ, tông đồ, như dạy giáo lư tân ṭng,
quản trị tài sản cộng đoàn, và có thể thay
thế các giáo sĩ khi các ngài bị trục xuất.
Về sau, để tiếp nối sáng kiến của cha
Đắc-Lộ, các giáo sĩ ḍng Tên lập nên «Nhà Đức Chúa Trời»
để tuyển chọn và huấn luyện các «thầy giảng» trong khi
chờ đợi có hàng giáo sĩ bản quốc.
· «Ḍng Mến Thánh Giá»:
Tới năm 1668, các giám mục đă bắt đầu
thành lập hàng giáo sĩ bản quốc (16).
Năm 1670, các ngài c̣n thiết lập «Ḍng Mến Thánh Giá» cho các phụ nữ bản
xứ sống đời tận hiến để các
chị trợ lực với hàng giáo sĩ công việc
mục vụ và tông đồ (17).
· «Hội Đồng Quí
Chức»: Tại các họ đạo, để
tiếp tay với các thầy cả và thầy giảng, c̣n
có cả một hệ thống giáo dân được
gọi là «Hội Đồng
Quí Chức», gồm ông chánh trương, ông câu, ông trùm,
ông biện, v.v…
Ngoài
việc cộng tác với các thừa sai hay thầy cả
điều hành họ đạo, họ c̣n là những
người t́m đủ mọi cách để bao bọc,
che dấu, bảo toàn các thừa sai, các thầy cả trong
thời Giáo Hội bị bách hại, cấm cách. Họ
cũng là những người lo thăm viếng, tiếp
tế lương thực, t́m cách giải cứu các
thừa sai, thầy cả hay những giáo hữu bị
bắt v́ đạo, phải sống cảnh tù đày,
bị phân sáp. Họ luôn luôn t́m cách củng cố niềm
tin của các Kitô hữu trong mọi t́nh huống khó khăn
nhất.
Việc tŕnh bày giáo lư
Kitô giáo
tuy phát xuất từ Á Châu, nhưng được khai
triển tại Âu Châu, nên cách diễn tả sứ
điệp Kitô giáo, hay cách tŕnh bày giáo lư Kitô giáo phải dùng
tới rất nhiều khái niệm triết học của
Tây Phương, mà rất tiếc những khái niệm
ấy đôi khi xa lạ với người Á Châu. V́
thế, các thừa sai tại Việt Nam đă cố
gắng đi từ những quan niệm đang có của
người Việt để dẫn người ta
đến một điểm nào đó trong giáo lư Kitô giáo.
Sau đây là một vài thí dụ cụ thể.
Thần học Tam Phụ
Người
Việt Nam đặt rất nặng chữ «hiếu» và chữ «trung» (18).
Nhưng chữ hiếu ấy chỉ nhắm vào một
đối tượng cụ thể và duy nhất là cha
mẹ, người sinh thành ra ta. C̣n chữ «trung» là thái độ phải
có đối với vua. Lợi dụng tinh thần trung và
hiếu đó, Cha Đắc-Lộ đưa ra Thần
học Tam Phụ để giới thiệu thêm cho
người Việt Nam một người cha mà họ lăng
quên hay không biết tới, đó là Cha trên trời, Đấng sinh thành ra tất
cả vũ trụ vạn vật, mà Đức Giêsu Kitô
dạy ta gọi Ngài là Cha.
Ngoài ra,
thần học Tam Phụ c̣n giúp người Việt
hệ thống hóa ba tương quan chính yếu của
một người sống trong vũ trụ, trong một
đất nước và trong một gia đ́nh, từ
đó suy ra bổn phận đối với người
làm chủ vũ trụ, đất nước và gia
đ́nh. Đó là ba người cha ở ba cấp
độ khác nhau mà người ta không thể bỏ qua
được.
Trong
cuốn Phép Giảng Tám Ngày, Cha Đắc-Lộ viết:
«Bây giờ, ta phải hay có ba đấng bề trên là ba
cha, ta phải thờ ở đấng nào cho nên
đấng ấy. Đấng dưới là cha mẹ sinh
ra thân xác cho ta, đấng giữa là vua chúa trị
nước, đấng trên là đức Chúa trời
đất, làm chúa thật trên hết mọi sự. Có ba
đấng này ta mơí được sống
được ở» (19).
Lợi dụng những quan niệm có
sẵn
Cha
Đắc-Lộ đă đi từ những tục
ngữ, những bài đồng ca, hay những câu ca dao
thường nằm trên môi trên miệng của
người Việt để dẫn người ta
đến với Thiên Chúa, hay đến với một
chân lư Kitô giáo. Sau đây là một vài thí dụ.
Bài đồng dao: «Lạy trời mưa
xuống»
Người
Việt có bài đồng dao: «Lạy
trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, v.v…».
Chữ «trời» trong bài này
là một ư niệm mơ hồ, có thể hiểu nhiều
nghĩa. Lợi dụng đề tài này, cha
Đắc-Lộ dẫn người ta đến với Chúa trời. Trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày, cha
viết: «Khi thế gian nói
rằng: «Lạy Trời» th́ thiếu một chữ «Chúa»,
v́ vậy phải thêm đơm chữ ấy mà từ rày
về sau nói làm vậy: «Tôi
lạy đức Chúa trời là Chúa cả trên hết
mọi sự» (20).
«Sinh kư tử qui», «quê cha đất tổ»
Cha dùng
câu «sinh kư tử qui»
(sống là gửi, chết là về) để giới
thiệu về sự sống vĩnh cửu đời
sau. Người Á Đông quan niệm rằng cuộc
sống ngắn ngủi này chỉ là tạm bợ, và
cuộc sống sau khi chết mới là cuộc sống
thật, đó cũng chính là quan niệm của Kitô giáo.
Đa số người Việt đều chấp
nhận câu «sinh kư tử qui»,
nên cũng sẵn sàng chấp nhận quan niệm Kitô giáo
về hạnh phúc mai hậu.
Trong
tiếng Việt có thành ngữ «quê
cha đất tổ», Cha Đắc-Lộ đă lợi
dụng tinh thần yêu quê hương, mong được
sống tại «quê cha
đất tổ» của người Việt
để nói về quê hương đích thực trên
trời…
Các từ ngữ «phần rỗi», «cứu
rỗi», «rỗi linh hồn»…
Người
Việt Nam ta đa số phải làm lụng rất
vất vả mới đủ sống. V́ thế, niềm
hạnh phúc lớn nhất mà người ta có thể
cụ thể hóa ra, cũng là niềm mơ ước chung
của mọi người là được nhàn rỗi
để có thể vui vẻ bên nhau (21). V́
thế, Cha Đắc-Lộ đă dùng sự nhàn rỗi và
vui vẻ để mô tả cảnh hạnh phúc cực
lạc của thiên đàng. Trong sách giáo lư cổ, câu
khởi đầu là:
H. Phải làm ǵ cho được thanh nhàn
vui vẻ vô cùng?
T. Phải giữ đạo thánh
đức Chúa trời.
Và
từ đó phát sinh ra từ phần
rỗi, cứu rỗi, rỗi linh hồn… Chữ «rỗi» ở đây phải
chăng có nghĩa là được thanh nhàn, nhàn rỗi, vui
vẻ…? Đó là quan niệm rất b́nh dân về hạnh
phúc của người Việt.
Cha
Đắc-Lộ cũng lợi dụng quan niệm
sẵn có về âm phủ
để nói về địa
ngục của Kitô giáo (22).
Phương pháp tŕnh bày giáo lư
Cha
Đắc-Lộ đă có nhiều kinh nghiệm truyền
giáo ở Việt Nam cũng như ở Macao. Cuốn Phép Giảng Tám Ngày là kết
quả của những kinh nghiệm ấy.
1. Theo cha,
khi rao giảng Tin Mừng, ta cứ tŕnh bày giáo thuyết
của ḿnh cách tích cực, không nên tranh luận, bút
chiến, bài bác ai hay lư thuyết của ai. Sự chỉ
trích hay bài bác chỉ đem lại hiềm khích và ghen ghét.
2. Để
phù hợp với tâm thức của người Việt
vốn chịu ảnh hưởng «Tam Cương Ngũ Thường» của Nho giáo,
khi tŕnh bày giáo lư cần phải nhấn mạnh đến
«tứ đại» (23):
Thiên, Quân, Sư, Phụ. «Thượng hữu Thượng
Đế, Thống Quân chư sinh, Hạ hữu
vương Sư, Cận hữu Phụ Mẫu».
3. Cha
Đắc-Lộ thuộc ḍng Tên, nên chịu ảnh
hưởng của Linh Thao. V́ thế, cuốn Phép Giảng Tám Ngày có tiến
tŕnh tương tự như các sách Linh Thao: bốn
tuần của Linh Thao được gia giảm và thay
đổi chút ít để thích nghi với tâm thức
người Việt Nam thời ấy.
4. Tiến
tŕnh tŕnh bày giáo lư được phản ảnh trong 8 bài
giảng của cha Đắc-Lộ:
· Ba bài đầu
nói về việc Chúa tạo dựng trời đất.
· Bài 4 nói về
nạn hồng thủy và ba tôn giáo ở Việt Nam.
· Bài 5 & 6 nói
về Thiên Chúa Ba Ngôi, Ngôi Hai nhập thể và giảng
đạo.
· Bài 7 nói về
cuộc tử nạn, phục sinh của Chúa Kitô và sự
hiện xuống của Thánh Thần.
· Bài 8 nói về
mười giới răn, thiên đàng, hỏa ngục, bí
tích rửa tội.
5. Cách tŕnh
bày của cha Đắc-Lộ không theo chỉ thị
của Công Đồng Trentê (1545-1563) (24).
Thời đó, có hai tác giả sách giáo lư nổi tiếng là
Canêsiô và Collarminô. Công Đồng chỉ thị các sách giáo
lư phải mô phỏng theo sách của Canesiô là giải thích và
diễn dịch từ kinh Credo. Nhưng cha
Đắc-Lộ không theo cách đó mà khởi đi từ
những việc cụ thể để phù hợp với
tâm hồn của người Việt thời ấy.
Đây cũng là một trường hợp «phá chấp» để thích
ứng với hoàn cảnh đặc thù và cụ thể
của thực tế. Sự «phá
chấp» này có thể gây nên những phản ứng
chống lại nơi các thừa sai khác chấp cứng
vào nguyên tắc, giáo điều và lệnh bề trên.
Vấn đề thờ kính tổ tiên
Một tập tục mang tính văn hóa
Nghi
lễ thờ kính tổ tiên đối với người
Việt Nam cũng như người Trung Hoa là một
tập tục gắn liền với bản chất xă
hội và văn hóa của họ. Một người
Việt Nam hay Trung Hoa không thực hành nghi lễ ấy trong
đời sống gia đ́nh và xă hội của ḿnh th́
bị coi là bất hiếu, mất gốc… V́ thế, khi
Ṭa Thánh ra lệnh cấm không cho người Kitô hữu
thờ kính tổ tiên, th́ người Kitô hữu Việt
Nam cũng như Trung Hoa lâm vào thế kẹt, và nhiều
người chỉ v́ khó khăn này mà không thể trở
nên Kitô hữu được.
Hai khuynh hướng của các thừa sai
Đối
với vấn đề thờ kính tổ tiên, cũng
như đối với việc thích nghi và hội nhập
văn hóa, các thừa sai tại Việt Nam có hai khuynh
hướng:
· một của các
cha ḍng Tên có khuynh hướng thích nghi và hội nhập
văn hóa mạnh, nên bênh vực việc thờ kính tổ
tiên,
· và một của
các cha thuộc hội truyền giáo Paris và một số
ḍng khác, ít thích nghi và hội nhập văn hóa, nên chủ
trương chống lại việc thờ kính tổ tiên.
Ṭa thánh
chịu ảnh hưởng của khuynh hướng sau
nhiều hơn (25).
Khuynh hướng và phản ứng của
các giáo sĩ ḍng Tên
Năm
1716, Giáo Hội Đàng Trong nhận được một
bản chép tay của hiến chế Ex illa die. Đức Cha Péres tỏ ra rất
bỡ ngỡ khi nhận được hiến chế này.
Tháng 7-1717, ngài mới nhận được hiến
chế chính thức, nên công bố thư chung biểu
lộ đức vâng lời đối với Giáo Hoàng.
Cha G. B.
Sauna, ḍng Tên, ở Hội An phản ứng mănh liệt.
Ngày 21-2-1717, cha ra một thư có 7 điều: cho phép giáo
hữu được mang cờ đan triệu (26)
đi trước người chết miễn có chữ «cầu cho người chết»,
cho lạy trước người chết và cha mẹ,
được phép thề trung thành với vua chúa, ngày
đầu năm được phép dâng cúng cha mẹ.
Nhưng cha Sauna dường như làm quá, v́ sau khi
được thư chung của Đức Cha Péres, cha
vẫn cho phép giáo hữu làm như cũ.
Đức
Giám Mục Alexandre ở Đàng Trong xem ra cũng tán thành
việc cho phép thờ kính tổ tiên. Ṭa Thánh sai Đức
Giám Mục La Baume đến Đàng Trong để
điều tra xem xét, đi cùng cha Favre đến Hội An
ngày 1-5-1739. Cha Favre không đồng ư với cha ḍng Tên,
về sau ngài tố cáo các cha bề trên ḍng Tên ở Đàng
Trong là tự cho ḿnh ngang hàng với giám mục.
Năm
1741, Đức Cha La Baume qua đời, ủy quyền cho
cha Favre tiếp tục công việc. Và ngày 27-5-1741, cha Favre
công bố 9 điều, trong đó có việc cấm
thờ kính tổ tiên dưới mọi h́nh thức (27).
Nhưng sau đó cha Favre bỏ về. Năm 1742, hiến
chế Ex quo singulari sinh ra
đủ mọi thứ tranh chấp. Và cha Favre c̣n viết
sách phản đối đường lối truyền
giáo của các cha ḍng Tên tại Việt Nam.
Cái nh́n về các tôn giáo khác
Quan niệm chung của Giáo Hội thời
đó
Nói
chung, cái nh́n của Giáo Hội nói chung, và của các thừa
sai nói riêng, vào thời đó về các tôn giáo khác rất tiêu
cực và phiến diện. Nói chung, các học giả Kitô
giáo Âu Châu, v́ chưa có dịp t́m hiểu thật sự và
sâu xa các tôn giáo Á Châu, nên luôn luôn coi các tôn giáo Á Châu như «cùng một giuộc» với
các tôn giáo cấp thấp ở Âu Châu (28).
Cụ
thể là thánh Phan-xi-cô Xa-vi-er, một vị thừa sai
truyền giáo ở Nhật Bản đồng thời
với cha Matteo Ricci tại Trung Hoa, đă sáng tác một kinh
cầu cho kẻ ngoại đạo, trong đó có câu: «Những kẻ thờ lạy
bụt thần ma quỉ đang sa xuống đầy
rẫy hỏa ngục» (29).
Tư
tưởng của Cha A-lịch-sơn Đắc-lộ,
một người có tư tưởng rất tiến
bộ và chủ trương triệt để hội
nhập văn hóa, có thể được xem là
điển h́nh cho nhận định của người
Kitô hữu Âu Châu về các tôn giáo Á Châu (30).
Quan niệm của cha Đắc-Lộ
về Phật giáo
Những quan niệm sai lầm về
Phật giáo
Những
người đă t́m hiểu ít nhiều về Phật giáo
chắc không khỏi ph́ cười khi đọc những
tư tưởng của cha Đắc-Lộ viết
về Phật giáo trong cuốn «Phép
Giảng Tám Ngày». Chẳng hạn có chỗ cha viết: «Bên Thiên Trúc quốc, có vua tên là
Tịnh Phạn Vương, đẻ con dạ th́ sáng,
song kiêu ngạo lắm» (Trang 105). Không biết cha
Đắc-Lộ dựa vào những sự kiện nào mà
kết luận rằng Phật «kiêu
ngạo lắm». Đang khi sử sách viết về
thời ấu thơ của Ngài th́ lại viết
ngược lại (31). Cả cuộc
đời của Ngài luôn luôn đơn sơ khiêm
nhượng, và do tu tập Ngài đă thành công hoàn toàn trong
việc phá được «ngă
chấp», là gốc rễ của mọi h́nh thức kiêu
ngạo.
Cũng
trong trang đó, cha viết: «Đẻ được
một con gái đoạn th́ đi ở trên rừng
một ḿnh, dẫu vợ căi mà chẳng cho, v́ ḿnh đă
quen làm việc dối như pháp môn phù thủy…». Rơ ràng
là cha không biết rơ lịch sử Đức Phật. Theo
sử sách, năm 29 tuổi, Phật cùng với vợ là
Công chúa Da-du-đà-la (Yasodhara) sinh được một
cậu con trai, mà vua Tịnh Phạn đặt tên là
La-hầu-la (Rahula, có nghĩa là một trở ngại).
Không biết cha căn cứ vào đâu mà viết: «dẫu
vợ căi mà chẳng cho» (32), và «ḿnh đă quen
làm việc dối như pháp môn phù thủy». Câu sau là
một lời nói xúc phạm rất mạnh mà người
Phật tử nào đọc đến cũng phải
trạnh ḷng.
Tiếp
theo, Cha c̣n viết: «Mà trong nhiều quỉ dạy nó,
th́ có hai quỉ tên là Alala và Calala quen làm thày dạy nó liên,
mà nó th́ ngồi giữa hai thày quỉ ấy, mà dạy
nó đầu hết chớ tin có Chúa trời» (Trang
105-106). Theo các sách lịch sử, th́ sau khi đă thất
vọng v́ không t́m được chân lư tối
thượng nơi các vị thày mà Phật thụ
huấn, Phật bèn tự ḿnh đi t́m chân lư, và việc
Ngài giác ngộ hay thành đạo là hoàn toàn do tự ḿnh quán
chiếu mọi sự với trí tuệ thanh tịnh sáng
suốt, chứ không ai dạy Ngài cả. Quỉ ma chỉ
là kẻ hại Ngài: trong 49 ngày nhập định
trước khi Ngài thành đạo, Ngài đă phải
chiến đấu quyết liệt với giặc Thiên Ma
do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy. Những điều
cha Đắc-Lộ nói trong câu này không biết cha lấy
từ đâu ra (33). Tôi không nghĩ là cha
bịa đặt ra hay cố ư xuyên tạc, nhưng có
lẽ những điều cha học được hay
nghe được về Phật giáo là hoàn toàn sai lầm.
Đồng hóa Phật giáo với tôn
thờ ngẫu tượng
Cha
đă đồng hóa Phật giáo với việc tôn thờ
ngẫu tượng (34). Cha thường dùng
chữ «thờ bụt thần
ma quỉ», nghĩa là đồng hóa Bụt hay Phật
với ma quỉ. Chẳng hạn như câu: «Nó dạy dân thờ bụt,
và lấy ḿnh, Thích Ca, làm cội rễ các bụt, như
thể ḿnh là kẻ làm nên trời đất» (Trang
106). Tư tưởng này hoàn toàn xa lạ với
người Phật tử. Cả đời Đức
Phật, chưa bao giờ Ngài dạy người khác
thờ một Đấng nào, càng không dạy người
ta thờ ḿnh. Ngài chỉ cho ḿnh là một trong hằng hà sa số các vị
Phật, v́ thế, có bao giờ Ngài lại có tư
tưởng «lấy ḿnh làm
cội rễ các bụt, như thể ḿnh là kẻ làm nên
trời đất»!
Quan niệm đó giúp các giáo sĩ hăng
say truyền giáo
Phải
nói rằng sự hiểu biết của các thừa sai
thời đó về các tôn giáo Á Châu hết sức thô
thiển và lệch lạc, một phần do năo trạng
hănh tiến (triomphalisme) đầy thiên kiến của
người Kitô hữu Âu Châu, một phần do không t́m
hiểu đến nơi đến chôâùn các tôn giáo Á Châu (35).
Nhưng có lẽ cũng chính nhờ quan niệm sai lạc
như thế mà các vị giáo sĩ đó đă sẵn sàng hy sinh tất cả, chịu
đựng tất cả kể cả cái chết,
thậm chí chết thảm thiết, chỉ v́ họ
muốn cứu những dân tộc Á Châu khỏi sa hỏa
ngục (36). Một cách chủ quan, đó là
một sự hy sinh rất cao
cả phát xuất từ t́nh yêu. Thiết tưởng
chúng ta không nên xét đoán một cách quá hẹp ḥi và
thiển cận đến nỗi lên án họ.
Chữ viết
Chữ Nôm
Trước
khi có chữ quốc ngữ do cha Đắc-Lộ, các
thừa sai đă học chữ Nôm và đă dùng chữ Nôm
để viết những bài giảng, sáng tác các lời
kinh giúp bổn đạo cầu nguyện… Các Kitô hữu
Việt Nam đă dùng chữ Nôm để làm thơ
đạo, để viết những cảm nghĩ hay
suy tư của của ḿnh về Chúa, về giáo lư… Từ
thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, có
biết bao nhiêu sách đạo viết do người Kitô
hữu viết ra bằng chữ Nôm: sách kinh, sách bổn,
sách ngắm, sách ca vè, thơ đạo, sách luật, sách
thần học, sách bài giảng, sách quảng diễn giáo
lư, sách truyện các thánh, v.v… Trong số các sách chữ Nôm
đó, có nhiều sách của Gaspar d’Amaral, Antoine Barbosa, nhất
là Giêrônimô Majorica và của các thầy giảng nhiệt
thành.
Từ
xưa đến lúc bấy giờ, chưa bao giờ
chữ Nôm lại được sử dụng nhiều
như thế (37). V́ thế, trong ba thế
kỷ vừa qua, Giáo Hội Việt Nam có biết bao nhiêu
tác phẩm bằng chữ Nôm mà thời nay ít người
đọc được và lại càng ít người có
khả năng hay th́ giờ dịch ra. Đó cũng là
một h́nh thức hội nhập của sứ
điệp Kitô giáo vào văn hóa Việt Nam thời
trước!
Chữ quốc ngữ
Một thành quả của công cuộc
truyền giáo
Một
trong những thành quả lớn của công cuộc
truyền giáo và hội nhập văn hóa tại Việt Nam
là sự thành h́nh chữ quốc ngữ. Công lớn
nhất trong việc h́nh thành chữ Quốc Ngữ là
của cha A-lịch-sơn Đắc-Lộ. Thứ
chữ mới này do cha sáng chế ra bằng cách dùng mẫu
tự Latinh để phiên âm tiếng Việt.
Mục
đích của cha khi sáng chế ra cách phiên âm này là
để ghi lại cách phát âm tiếng Việt cho chính xác
để dễ học và dễ nhớ, v́ chữ của
tiếng Việt lúc đó là chữ Nôm cũng tương
tự như chữ Hán, không thể cứ nh́n vào mà phát âm
được. Chắc chắn mỗi vị giáo sĩ Âu
Châu học tiếng Việt cũng đều phải t́m
cách ghi lại cách phát âm của từng chữ theo một
cách nào đó.
Thứ
chữ mà cha sáng chế ra để tạm dùng ấy sau
này đă trở thành chữ chính thức của
người Việt, thay thế cho chữ Nôm do Hàn Thuyên
sáng chế ra nhiều thế kỷ trước đó (38).
Cách phiên âm của cha -
cụ thể trong cuốn Phép
Giảng Tám Ngày và cuốn tự điển Việt-Bồ-La
- y khá
tinh vi nhưng chưa có tính ổn định và chưa
đủ khả năng phiên âm hết mọi âm của
tiếng Việt. Về sau, cách phiên âm này đă
được cha Gaspar d’Amiral (39) và một
số Kitô hữu Việt Nam sửa lại cho hoàn
chỉnh.
Những tác phẩm quốc ngữ
đầu tiên
Cuốn
«Phép Giảng Tám Ngày» và
cuốn Từ điển Việt-Bồ-La (40)
do cha biên soạn là những cuốn sách đầu tiên
tại Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ (41)
mà cha đă xuất bản ở Rôma vào năm 1651. Đó là
hai tác phẩm quan trọng và đầu tiên bằng chữ
quốc ngữ. Cách đặt câu tiếng Việt trong
cuốn «Phép Giảng Tám Ngày»
đôi khi chưa được Việt lắm,
điều này dễ hiểu v́ tác giả là một
người Âu Châu tuy sử dụng tiếng Việt đă
được 25 năm nhưng chưa hoàn toàn thấm
nhuần được pháp cú và văn pháp tiếng
Việt, và cũng v́ cách lập luận của
người Việt vốn khác xa với cách của
người Âu Châu. Ngày nay, người Việt Nam coi cha
Đắc-Lộ là cha đẻ của chữ quốc
ngữ, và mang ơn cha rất nhiều v́ sự tiện
lợi rất lớn mà thứ chữ này đem lại so
với chữ Nôm trước đây.
Đặc
biệt, tới thế kỷ 19, các Kitô hữu Việt Nam
đă có Thánh Kinh bằng chữ quốc ngữ, do cố
Schicklin (tiếng Việt gọi là cố Chính Linh) dịch,
với bản latinh ở bên để đối
chiếu.
Phần chú thích
(1) Ở Trung Hoa có Matteo Ricci, ở Ấn
Độ có Roberto de Nobili,
ở Việt Nam có A-lịch-sơn
Đắc-Lộ. Đó là 3 nhà thừa sai Tây
Phương chủ trương hội nhập văn hóa
triệt để nhất, và cũng đă hội nhập
văn hóa một cách tài t́nh nhất tại Á Châu.
(2) Theo linh mục Đỗ
Quang Chính, một nhà nghiên cứu lịch sử Giáo Hội
thuộc ḍng Tên (xem TLTĐ, trang 2).
(3) A. DE RHODES, Divers Voyages et Missions, Paris 1653, trang 72.
(4) A. DE RHODES, Divers Voyages et Missions, Paris 1653, trang 21.
(5) Thời đó, đàn ông
Việt Nam cũng để tóc dài như đàn bà, đang
khi người Tây để tóc ngắn như chúng ta
hiện nay. Bức họa của A-lịch-sơn Đắc-Lộ
mà chúng ta thường thấy do họa sĩ Gagliardi
người Ư vẽ h́nh cha để tóc dài như
người Việt.
Nhiều
thừa sai cũng theo gương cha Đắc-Lộ, thay
v́ mặc áo ḍng th́ mặc áo thụng hay áo dài nam, để
tóc dài. Về sau, khi ḍng Mến Thánh Giá được thành
lập, áo của các nữ tu thời đó không giống
như ngày nay (theo Âu Châu), mà giống với áo của các
ni-cô bên Phật giáo hơn (Xem h́nh trong cuốn Người mục tử
cộng đồng hướng về tương lai của
linh mục NGUYỄN NGỌC SƠN, ṭa TGM TP. Hồ Chí Minh
xb, 1996, trang 195-203).
(6) Đang khi theo tục
lệ của người Kitô hữu Tây Phương th́
giáo hữu phải gọi các linh mục bằng Cha, giống như chúng ta
hiện nay.
(7) Khi vào chầu hai Chúa
(Trịnh, Nguyễn), cha Rhodes lạy sát đất kiểu
ngũ thể đầu
địa làm cho hai Chúa rất có thiện cảm.
Những người Tây Phương khác chỉ chào hai Chúa
theo kiểu Tây (nghiêng ḿnh, cúi đầu, mở mũ...).
Theo phong tục người Việt, người
dưới đến người trên phải có
đồ lỡi (lễ vật). Khi vào chầu hai Chúa, cha
Rhodes luôn luôn dâng đồ lỡi : chẳng hạn lần
đầu tiên cha dâng cho Trịnh Tráng chiếc đồng
hồ cát và đồng hồ reo, lần sau dâng cuốn Thiên văn do cha Matteo Ricci
viết và in bằng chữ Hán. Nhờ vậy, cha có
nhiều dịp nói chuyện với Chúa Trịnh về
thiên văn và tŕnh bày Kitô giáo cho Chúa Trịnh.
(8) Chẳng hạn năm 1929,
khi bị Chúa Trịnh đầy ải ở Cửa Rum,
để làm quen với quan Trấn Nghệ An, cha đă ghi
trên giấy ngày giờ xảy ra Nhật
thực sắp tới và nhờ người tŕnh lên quan
Trấn. Khi thấy Nhật
thực xảy ra đúng như cha đă tiên báo, quan
Trấn rất cảm phục (A. DE RHODES, Histoire du Royaume de Tunquin, Lyon 1651, trang 237).
(9) Cụm từ này
được cha Đắc-Lộ cắt nghĩa là đức Chúa của trời
đất và vạn vật. Chữ trời đất bao gồm trong đó tất
cả mọi tạo vật.
(10) Trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày, cha
Đắc Lộ c̣n viết cụm từ này là «đức Chúa blời».
(11) Hiện nay trong ngôn ngữ
Việt Nam, chữ chúa - với nghĩa là chủ - vẫn được dùng trong một
số cụm từ hay thành ngữ : chúa tể, vua chúa,
công chúa, ong chúa, mối chúa, chúa sơn lâm, chồng chúa vợ tôi, làm vua làm chúa...
(12) Ngoài những từ
Việt Nam đă nêu trên để chỉ về Thiên Chúa,
c̣n có từ «Chúa Dêu», như
trong kinh : «Lạy ơn
Đức Mẹ Chúa Dêu, chúng tôi van lạy cùng kêu ơn
Bà...». Chữ «Dêu» ở
đây chắc hẳn là phiên âm của từ latinh «Deus», nghĩa là Thiên Chúa.
(13) Bên Phật giáo cũng có
rất nhiều từ chuyên môn không được dịch
sang tiếng Việt mà chỉ phiên âm từ tiếng Ấn
Độ (được phiên âm qua tiếng Trung Hoa,
rồi từ tiếng Trung Hoa phiên âm sang tiếng Việt)
như : Phật (buddha), Thiền (dhyana), Bồ-Tát
(Boddhisatva), Bát-nhă (pranơa), v.v... Các tôn giáo khác hay các bộ môn
khoa học, kỹ thuật cũng vậy.
(14) Đó là chị của chúa
Trịnh Tráng, khi theo đạo, bà lấy tên thánh là Catarina.
Bà c̣n làm cho mẹ bà trở lại. Bà thông thạo chữ
nho và thơ văn. Được cha Đắc-Lộ
khuyến khích, bà đă viết thành thơ lịch sử
đạo Công giáo, giáo lư Kitô giáo, cuộc đời Chúa
Giêsu... (X. PHAN PHÁT HUỒN, Việt
Nam Giáo sử, Cứu Thế tùng thư, Sàig̣n 1965, trang
93).
(15) Phải sau Công Đồng
Vatican II, nghi thức rửa tội của Rôma mới
bỏ những thứ ấy.
(16) Trong hai năm 1668-1669,
tại giáo phận Đàng Trong, Giám mục Lambert de la Motte
đă truyền chức cho 4 thầy cả đầu tiên
người Việt Nam : Giuse Trang, Gioan Huệ, Bênêđitô
Hiền, Luca Bền. Năm 1670, tại giáo phận Đàng
Ngoài, ngài đă truyền chức cho 7 thầy cả khi
đến thăm giáo phận này và tổ chức Công
Đồng đầu tiên tại đó.
(17) Chẳng hạn dạy
giáo lư cho người nghèo, viếng thăm người già
yếu, chữa bệnh, bán thuốc để có nhiều
cơ hội tiếp cận, giúp đỡ và truyền
đạo cho dân chúng, nhất là người nghèo, hoặc
để có thể rửa tội cho các em nhỏ hấp
hối...
(18) Ca dao Việt Nam có câu :
«Trai thời
TRUNG, HIẾU làm đầu,
«Gái thời
TIẾT, HẠNH làm câu sửa ḿnh».
(19) A. DE RHODES, Phép giảng Tám Ngày, tủ sách Đại Kết
in lại theo bản gốc do Rôma xuất bản năm
1651, trang 17.
(20) A. DE RHODES, Phép giảng Tám Ngày, trang 16.
(21) Người Việt Nam
rất thích nhàn rỗi, vui chơi, giải trí, hội hè...
(22) Sđd,
trang 10.
(23) Do «Tam Cương» (Quân, Sư, Phụ) thêm một «cương» nữa ở
đầu là «Thiên» thành «Tứ
Đại» (Thiên, Quân, Sư, Phụ).
(24) V́ Công Đồng Trentê
đưa ra một cách tŕnh bày giáo lư chỉ hợp với
người Tây Phương trong bối cảnh Cải giáo
nhằm đối phó với những khó khăn thời
đó. Cách tŕnh bày này không hợp với bối cảnh
ở Việt Nam và tâm thức của người dân
Việt Nam.
(25) Xem phần liên quan
đến vấn đề này tại Trung Hoa, trang 135-137.
(26) Cờ
đan triệu : cờ đỏ đi sau cờ minh
tinh.
(27) 9 điều cấm là :
- cấm không
được coi tuồng hát
– cấm các trẻ em đă được
rửa tội thành sự không được rửa
tội lại
- không
được cho rước lễ thường xuyên mà
phải thận trọng
- cấm dùng mỡ
heo trong mùa chay
- cấm thờ kính
tổ tiên dưới mọi h́nh thức
- không một
thừa sai nào được phép in lịch và công bố
lịch
- tất cả
mọi thừa sai, đặc biệt ḍng Tên, phải
mặc áo sợi bông hay vải thường địa
phương
- phải khoác áo
choàng đen và hớt tóc theo kiểu Công Đồng Trentê ra
lệnh
- các thừa sai
phải làm các phép bí tích đúng theo sách các phép Rôma.
(28) Xem lại quan niệm
của nhà thần học A. Pieris về tôn giáo vũ trụ và tôn
giáo siêu vũ trụ ở phần cước chú trang
53.
(29) Kinh này có được
dịch sang tiếng Việt, thuộc loại kinh cổ
của Việt Nam.
(30) Cha Đắc-Lộ mà c̣n
nghĩ như vậy, nói ǵ đến những thừa sai
hay Kitô hữu khác.
(31) Đây là một
đoạn Đại Đức Nărada Thera viết về
thời thơ ấu của Ngài : «Hoàng tử tuổi tuy c̣n nhỏ nhưng tâm trí đă
thuần thục. Khác với những người chỉ
t́m thích thú trong cuộc lễ, hoàng tử ngồi chéo hai
chân lại theo lối kiết già, trầm ngâm lặng
lẽ, chăm chú vào hơi thở... Giữa lúc mọi người
vui vẻ thưởng thức, các cung phi bỗng sực
nhớ lại hoàng tử, vội vă trở về với
phận sự. Khi thấy hoàng tử ngồi trầm ngâm
thiền định th́ họ lấy làm ngạc nhiên,
đến tâu lại tự sự cho vua. Đức Vua
Tịnh Phạn hối hả đến nơi, thấy
hoàng tử Tất-Đạt-Đa vẫn ngồi chỉ
quán tham thiền» (NĂRADA THERA, The
Buddha and his teachings, bản dịch của Phạm kim
Khánh, Đức Phật và Phật
pháp, Thuận Hóa & Thành hội Phật giáo TP. Hồ
Chí Minh xuất bản, 1994 (trang 32).
(32) Lịch sử chỉ nói
tới việc Phật từ giă vợ con như sau : «Ngài truyền lệnh cho
Xa-Nặc, người đánh xe được Ngài yêu
chuộng, thắng yên ngựa và thẳng đến
điện của công chúa. Ngài khẽ hé cửa nh́n vợ
và con đang yên giấc với một tấm ḷng từ ái
nhưng b́nh thản, không chao động, không tŕu mến...
Với một tâm hồn thanh thoát, thái tử
Tất-Đạt-Đa ra đi giữa đêm khua,
để lại sau lưng Ngài tất cả đền
đài cung điện, người cha yêu quí, vợ
đẹp con thơ và cả một tương lai rực
rỡ huy hoàng» (Sđd,
trang 26).
(33) Alala và Kalala trong câu này
thật ra không có trong sách sử Phật giáo. Sách sử
Phật giáo có nói tới Alarama Kalama (có âm tương tự
như tên hai con quỉ mà cha Đắc-Lộ nói tới),
là vị đạo sĩ đầu tiên mà Phật gặp
trên con đường t́m kiếm chân lư. Ngài tu và thụ
huấn ông này một thời gian, nhưng ông này không giúp
Ngài thấy được chân lư tối thượng, nên
Ngài bỏ ông mà đi t́m một vị thày khác. Các vị
thày sau cũng làm cho Ngài thất vọng. Cuối cùng, Ngài
nhận thấy chẳng ai có thể giúp ḿnh giác ngộ
được chân lư tối thượng, mà chính ḿnh
phải đích thân t́m nó.
(34) Những ai nghiên cứu
về các tôn giáo lớn ở Á Châu, đều thấy
rằng ngoại trừ h́nh thức sơ khởi của
Ấn giáo (tôn giáo Vệ-Đà và Brahmana thờ các thần),
th́ không một tôn giáo lớn nào chủ trương thờ
ngẫu tượng. Tôn giáo nào cũng đều nói
tới một «Thực Tại
Tối Hậu» mà người ta phải giác ngộ nhiều hơn là thờ phượng. Đương nhiên không tôn
giáo nào tránh khỏi t́nh trạng có những tín đồ
thuộc giới b́nh dân đă thần thánh hóa các giáo chủ
đến mức tôn thờ và coi các ngài như những
vị thần có thể thi ân giáng phúc.
(35) Họ tưởng
rằng các tôn giáo Á Châu cũng chỉ giống như các tôn
giáo nhỏ ở Âu Châu - kém
cỏi về lư thuyết cũng như thực hành, không có
nền tảng triết lư và khả năng giáo hóa - đă tự tan biến trước «thần lực» vô song của
Kitô giáo. Chỉ qua thế kỷ 20, khi t́m hiểu sâu xa và
đúng đắn các tôn giáo Á Châu, cái nh́n của các Kitô
hữu Âu Châu đối với các tôn giáo Á Châu mới
bắt đầu thay đổi : các tôn giáo ấy không
tầm thường và kém cỏi như người ta
vẫn nghĩ. Và nhất là triết lư của chúng không cùng
xây dựng trên một nhận thức luận đơn
diện và nhị nguyên như triết lư của Kitô giáo. Do
đó, những vấn đề đặt ra và cách
thức giải đáp những vấn đề ấy trong
môn hộ giáo xưa của Kitô giáo hầu như không
giải đáp thỏa măn những nhà tư tưởng
thuộc các tôn giáo Á Châu muốn t́m hiểu về Kitô giáo.
(36) Quan niệm của các
thừa sai về các tôn giáo khác được biểu
lộ qua câu chuyện của thánh Pha-xi-cô Xa-vi-e : Những người
Nhật Bản mới theo đạo hỏi ngài về
số phận ông bà tổ tiên họ, ngài trả lời
không nghĩ ngợi : «Họ sa
hỏa ngục tất cả !».
(37) Trước đó,
muốn viết ǵ th́ các cụ nhà ta thường dùng
chữ Nho cho có vẻ trí thức, chữ Nôm thường
bị các cụ coi thường. Th́ các cụ vẫn
thường nói : «Nôm na là cha
mách qué» mà !
(38) Chữ Nôm được
Hồ Quí Ly và Nguyễn Huệ tích cực ủng hộ và
phổ biến, nhưng nói chung, bị các nhà nho coi
thường.
(39) Gaspar
d’Amiral : một thừa sai đồng thời với
cha A-lịch-sơn Đắc-Lộ, một thiên tài về
ngôn ngữ rất chú trọng tới chữ quốc
ngữ. Cha Amiral nói tiếng Việt, viết chữ
quốc ngữ nhiều và giỏi hơn cha
Đắc-Lộ, mặc dù cha ở Việt Nam chỉ có
28 tháng, đang khi cha Đắc-Lộ ở 57 tháng.
(40) «Tự điển Việt-Bồ-Latinh» (Dictionarium Annamiticum-Lusitanum et Latinum), dày
500 trang.
(41) Tựa đầy
đủ của sách là «Phép
giảng tám ngày cho kẻ muấn chịu phép rửa
tội mà beào đạo Đức Chúa Blời», dày 324
trang; mỗi trang đều có cả tiếng Latinh và
tiếng Việt. Hai tác phẩm chữ quốc ngữ này
đă được Bộ Truyền giáo ấn hành năm
1651 tại Roma theo yêu cầu của cha A-lịch-sơn
Đắc-Lộ sau khi cha bị trục xuất khỏi
Việt Nam.
NGUYỄN CHÍNH
KẾT